Bài Thương Khó Theo Thánh Gioan

I.   Luồng sáng chính soi toàn thể khối tình của Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.

Trong lời mở đầu, hai lần đề cập tới ông Gioan và lời chứng của ông “để mọi người nhờ ông mà tin” (1,7) . Sau đó theo “dàn bài” chung của các sách Tin Mừng, sách Tin Mừng thứ tư cũng bắt đầu với ba lần kể việc ông Gioan làm chứng về Chúa Giê-su, và sau lần thứ ba thì hai người môn đệ của ông đi theo Chúa Giê-su. Danh hiệu ông dùng để giới thiệu Chúa Giê-su là lời đã đi vào phụng vụ thánh lễ: “Đây là con chiên của Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Danh hiệu này là một tổng hợp nhiều yếu tố trong Cựu Ước, và sẽ là một trong những nét chính để hiểu cuộc Thương Khó với cả hai yếu tố.

Con chiên là con vật được dùng trong lễ Vượt Qua và trong nhiều cuộc tế lễ. Chúng ta thường nghĩ ngay đến con Chiên Vượt Qua (xem Xh, 12). Nhưng thánh Gioan nói “Con chiên của Thiên Chúa”, thì ít nhất phải hiểu là con chiên do chính Thiên Chúa sắm, ban cho.

Con chiên Vượt Qua thì sách Xuất Hành qui định: “Ngày mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tùy theo số người” (Xh 12,3-4). Chúng ta sẽ trở lại các yếu tố liên quan tới chiên Vượt Qua trong Cựu Ước và trong bài Thương Khó.

Con Chiên của Thiên Chúa thì chúng ta phải tìm trong chuyện Apraham đem con một yêu dấu là Ixaac lên núi để dâng làm lễ tế cho Thiên Chúa (xem St 22). Cần đọc kỹ lại đoạn này [tôi xin phép thay đổi bản dịch một chút để theo sát bản văn Hip-ri hầu làm rõ một vài nét mà khi dịch xuôi không diễn được]. “Thiên Chúa thử lòng ông Apraham, Người gọi ông: Apraham! Ông thưa: Dạ, con đây! Người phán: Hãy đem đứa con của ngươi, đứa con duy nhất của ngươi mà ngươi yêu dấu, đi đến đất Mô-ri-a mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đó, trên một trong những ngọn núi mà ta sẽ bảo ngươi. Buổi sáng, ông Apraham dậy sớm, ông thắng lừa, đem theo mình hai đầy tớ và Ixaac con ông, và ông bổ củi dùng cho lễ toàn thiêu, rồi ông đứng dậy đi đến nơi Chúa đã bảo ông. Ngày thứ ba, ông Apraham ngước mắt lên và thấy nơi đó từ xa. Ông Apraham nói với các đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa; còn tôi và đứa trẻ, chúng tôi đi tới đàng kia. Chúng tôi thờ phượng rồi sẽ trở lại với các anh. Ông Apraham lấy củi dùng cho lễ toàn thiêu đặt lên vai Ixaac con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay mình, rồi hai người cùng đi với nhau. Ixaac thưa với cha là ông Apraham: “Cha ơi!” Ông Apraham đáp: “Cha đây, con!” Cậu nói: “Lửa và củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?” Ông Apraham đáp: “chính Thiên Chúa sẽ tự lo liệu chiên làm lễ toàn thiêu, con ạ”. Rồi hai người cùng đi với nhau. Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Apraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, rồi trói Ixaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Apraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình”.

Nhưng đến giây phút quyết liệt này, nhìn tay ông Apraham cầm lấy dao, chúng ta phải rùng mình nhắm mắt lại… thì: “Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Apraham! Apraham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!” Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” Ông Apraham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Apraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.

Nên chú ý mấy chi tiết văn chương để “cảm” được chuyện này: từ đầu chúng ta được biết đây là chuyện Thiên Chúa thử lòng ông Apraham thôi, tuy chưa biết chuyện sẽ tới đâu. Sự nhấn từng chữ về tương quan của Ixaac với Apraham như ngắt từng mảnh trái tim Apraham, cộng thêm sự nhắc đi nhắc lại tên ông Apraham và “Ixaac con ông”, “hai người đi cùng với nhau”… gây một hiệu ứng làm não lòng người. Lời ông nói với đầy tớ “chúng tôi sẽ trở lại với các anh” và câu trả lời cho Ixaac đều có vẻ bí ẩn và khơi cho chúng ta chờ đợi một sự “đột biến”. Cả hai điều sẽ thành sự thật vì Thiên Chúa thực hiện sự đột biến. Hai cha con đi cùng với nhau, Apraham đã sẵn sàng không chỉ trong lòng mà với cả hai tay để dâng con làm lễ toàn thiêu, hẳn phải đứt ruột khi nghe con gọi mình lần cuối “cha ơi!” và ông nói với con lần cuối “cha đây, con!”; ông biết ông sắp dâng con làm của lễ mà con lại hỏi “con chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?” Thiên Chúa cũng phải não lòng nhìn cảnh ấy và thực hiện điều ông đã nói để an ủi con và khích lệ chính mình: Thiên Chúa tự lo cho có con chiên để làm lễ toàn thiêu và trả lại cho ông đứa con, đứa con duy nhất mà ông yêu dấu, và thề hứa: “Ta lấy chính Danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó… nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông đúc… và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nhờ dòng dõi ngươi” (St 22,16-18).

Nhưng chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi đọc tiếp: “Ông Apraham trở lại với các tôi tớ của ông. Họ đứng dậy và đi cùng với nhau tới Bơ-e Se-va”. Chúng ta tự hỏi tại sao bản văn không nói đến đứa con nữa? Phải chăng là vì tuy Thiên Chúa không để ông giết đứa con nhưng đã nhận làm của lễ nên từ nay đứa con hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa rồi, trong lòng Apraham thì Ixaac đã ở lại trên bàn thờ.

Trong Cựu Ước Thiên Chúa tự xưng danh là “Thiên Chúa của Apraham, Thiên Chúa của Ixaac và Thiên Chúa của Gia-cop” (Xh 3,6). Trong sách Tin Mừng thứ tư, tên ông Apraham được nhắc nhiều lần trong cuộc tranh luận về dòng dõi Aparaham (chương 8), và cuối cùng Chúa Giê-su tuyên bố hai điều: “Ông Apraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ. Người Do Thái nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Apraham!” Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, trước khi có Apraham thì tôi, Tôi Hằng Hữu”!

Đoạn văn ngắn này rất súc tích: niềm hy vọng và niềm vui của Apraham là Chúa Giê-su, mà Ixaac là cái bong. Apraham đã thấy và mừng rỡ khi được Thiên Chúa báo bà Sara sẽ sinh cho ông một đứa con trai, ông cười (St 17,16-17) bà cười (18,10-15) rồi khi con sinh ra thì: “Chúa đã làm cho tôi cười và tất cả những ai nghe biết sẽ mỉm cười với tôi” (21,6) ; cái tên Ixaac có nghĩa là “Ông Cười”. Chẳng có biến cố nào trong Cựu Ước “cười” nhiều đến thế [bảy lần]. Bản văn Tin Mừng không nêu tên Ixaac, nhưng ám chỉ cách kín đáo mà ai biết Sách Thánh cũng nhận ra ở 3,16 và ở đây. Giacop là ông tổ đời thứ ba thì cũng được gợi lên khi Chúa Giê-su nóí với các môn đệ đầu tiên: “Các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51). Chúa Giê-su là cái thang nối đất với trời mà Giacop mơ thấy (x.St 28,10-19). Khi nói chuyện với người đàn bà Samari, tên ông Giacop được nêu rõ, Chúa Giê-su cũng cho thấy Chúa hơn Giacop, vì nước giếng Giacop uống rồi lại khát, còn nước Chúa cho thì uống rồi hết khát luôn (Ga 4,13-14). Như vậy Chúa Giê-su tự nhận cả hai danh xưng Thiên Chúa đã nói với Mô-sê trong sách Xuất Hành (3, 5.14): “Thiên Chúa của Apraham, Ixaac và Giacop” và “Ta Là Đấng Hằng Hữu”. Bản văn Tin Mừng không nêu tên Ixaac, vì Ixaac là “cái bóng” của Chúa Giê-su. Apraham thấy Ixaac là đã thấy “cái bóng” của Chúa Giê-su rồi.

Chúa Giêsu là “con chiên của Thiên Chúa” và chính thiên Chúa để cho con của mình trở thành của lễ thì không còn gì để thay: “để cho thế gian thấy rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (14,31). Thánh Phao-lô cũng đã kêu lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta… Không có gì tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8,32.39).

Trước khi Chúa Giê-su bị nộp, chúng ta cũng gặp một cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su với Chúa Cha, tương tự như cuộc đối thoại giữa Ixaac và Apraham. Khi người Hy Lạp tìm đến gặp Chúa Giê-su thì Chúa kêu lên: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”, nhưng liền sau đó Chúa thú nhận là mình á khẩu: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa… Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Đức Giê-su nói thề để ám chỉ Người phải chết cách nào” (Ga 12,23.27-28.32).

Trong Tin Mừng thứ tư, Chúa Giê-su loan báo cuộc khổ nạn với cách nói “được giưong cao” “được tôn vinh”. Ở đây Chúa nói được tôn vinh, được giương cao, và xin Cha tôn vinh Danh Cha. Sau này Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha! Giờ đã đến! Xin tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha » (Ga 17,1). Lúc này Cha đáp lại : « Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa ». Thiên Chúa không chịu thua Apraham : « là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” Đến lượt Thiên Chúa, Ngài cũng yêu loài người, nên Con Một của Ngài, Ngài cũng chẳng tiếc, chính Ngài chấp nhận để Con bị đóng đinh thập giá. Nhìn cảnh Apraham dẫn con lên núi để giết làm của lễ toàn thiêu, Thiên Chúa cũng phải đứt ruột nên ngăn tay ông lại. Sách tin Mừng thứ tư kể “Chúa Giê-su vác lấy thập giá của mình », gợi lại hình ảnh Apraham chất củi dùng cho của lễ toàn thiêu lên vai Ixaac mà ông sắp dâng làm lễ toàn thiêu, còn ông cầm dao và lửa trong tay mình, hai người cùng đi với nhau. Bây giờ Chúa Giê-su cũng không đi một mình, như Chúa đã nói : «Này đến giờ, và giờ ấy đến rồi, anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy » (Ga 16,32). Vậy khi Chúa Giê-su vác lấy thập giá của minh [àchú ý là Ga không kể việc ông Simon vác thập giá đỡ Chúa Giê-su !], chính Chúa Cha dẫn Con Một lên núi để Con chết treo thập giá, Chúa Cha cầm lửa trong tay, lửa của Tình Yêu mà « nước lũ không dập tắt nổi, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp » (Diễm ca 8,7). Hẳn Thiên Chúa cũng phải đứt ruột nhưng chẳng có ai để can và cũng chẳng ai can được, vì « tình yêu mạnh như cái chết » (Diễm Ca 8,6).

Cách nhìn trên đây được xác nhận qua việc Gioan mở đầu cuộc sống công khai bằng tiệc cưới Cana với rượu ngon hảo hạng do Chúa Giê-su cung cấp, rồi dẫn vào cuộc Thương Khó với tiệc mừng La-da-rô sống lại, trong đó Maria đổ nguyên chai dầu thơm quý giá mà người sành điệu như Giu-đa ngửi mùi là biết ngay giá tiền và đánh giá là hoang phí ! Nhưng hình ảnh tiếp theo là nhiều người Do Thái đến để xem Chúa Giê-su và xem La-da-rô Ga 12,12-19 (phụng vụ đọc trong thánh lễ thứ hai Tuần Thánh) : một ám chỉ tới sách Diễm Ca mà người Do Thái vẫn hiểu là bài ca diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa với dân và đất được tuyển chọn và hiện nay vẫn đọc vào dịp lễ Vượt Qua (năm nay trùng với Tuần Thánh) :

Mùi hương anh thơm ngát,

tên anh là dầu thơm man mác tỏa lan, 

thảo nào các thiếu nữ mê say mộ mến…

Lúc quân vương ngự giữa nội cung, 

dầu cam tùng của tôi tỏa hương thơm ngát (Dc 1,2.12).

Khi Chúa phục sinh, chuyện Chúa hiện ra với bà Madalena lại gợi hai cảnh « mất, tìm và gặp » trong Diễm Ca 3-6. Trong khi Luca trích bài ca người tôi tớ đau khổ ngay cuối bữa Tiệc Ly : « Người bị liệt vào hàng phạm pháp » (22,37) và dùng bài ca này như cái khung để kể cuộc Thương Khó, Mat-thêu kết hợp bài ca này với các thánh vịnh để trình bày cuộc Thương Khó, Gioan lại dùng sách Diễm Ca làm « nhạc nền » để kể Cuộc Tôn Vinh trên thập giá như bài ca Tình Yêu tuyệt vời.

Để đi vào chiêm ngắm Cuộc Thương Khó, theo thánh Gioan, chỉ cần một điều kiện : một tình yêu nồng nàn như bình dầu thơm tuyệt hảo trong tay cô Maria, sẵn sàng trút lên chân Chúa ; hay một trái tim Ixaac đặt trên bàn thờ sẵn sàng cho lửa Tình Yêu đốt thiêu.

(Còn tiếp).

Giêrusalem, thứ hai Tuần Thánh 2014

L.M. Nguyễn Công Đoan, S.J

Kiểm tra tương tự

Kinh “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng” sẽ mang đến cho bạn niềm hân hoan Phục Sinh trong tích tắc

Bắt nguồn từ thế kỷ thứ 6, tương truyền kể lại rằng lời kinh “Lạy …

Chúa Giêsu bị chế nhạo – Kỳ cuối: Kẻ phạm thượng và cái kết

Cái chết của Đức Giêsu không nằm ngoài ý định của Thiên Chúa và cũng …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *