Dâng hiến sáng tạo (15)

III. NHỮNG MẦM MỐNG ẤU TRĨ

2. Động năng điều ứng* (điều chỉnh và thích ứng)

(Adjustment dynamisms)

Các sách về tâm lý coi việc tự chế như là một sự cấm đoán có kiểm soát và dồn nén như một hiện tượng điều ứng. Những sự dồn nén cũng còn được coi như các cơ chế tâm não*, động lực tâm thần hay cơ chế thích ứng. Chúng ta sẽ dùng thuật ngữ “động năng điều ứng” (Adjustment dynamisms/ dynamismes d’adaptation) để chỉ các loại dồn nén này. Ai trong chúng ta đã không có lúc sử dụng các động năng điều ứng này? Trẻ con rất thường làm như vậy khi gặp xung đột. Những người đạt đến mức độ trưởng thành trung bình nhanh chóng ý thức về cách cư xử đó và cố gắng giải quyết vấn đề của họ cách thiết thực hơn.

Thiết tưởng cũng cần cứu xét một vài loại động năng điều ứng thông thường nhất, để chúng ta quen dần với mọi khía cạnh của hiện tượng dồn nén trong các tương quan nhân loại. Các động năng điều ứng một vài khi làm dịu bớt căng thẳng nhưng chỉ có tính cách tạm thời thôi và thường thì lại không thực tế. Ai ai cũng sử dụng các kỹ thuật đặc loại này để làm dịu bớt căng thẳng một vài khi, nhưng nơi tác phong của những kẻ thật sự trưởng thành, thì người ta ít thấy các xảo kế đó.

1/ Giải biện (rationalization) là một cố gắng giải thích sao cho hợp lý, lý sự đối với một tác phong mà nguyên động bị giấu kín. Chính hạn từ “giải biện” cũng không đúng, vì mặc dầu cho cảm tưởng đó là một tiến trình duy lý, nhưng thực ra chỉ có một tiến trình hoàn toàn phi lý. Sự giải biện là một trong những loại động năng thích nghi thông thường nhất và nó gồm có nhiều thứ loại khác nhau.

Các nguyên động thầm kín ẩn giấu của người giải biện là ý muốn thống trị, ước muốn được chấp nhận, được yêu mến và biết ơn. Người ấy trình bày những lý lẽ sáng sủa nhất để che giấu người khác cũng như cho chính họ, những lý do mà họ cho là thấp kém hay đáng trách. Mỗi lối biện giải chỉ trình bày phân nửa sự thật. Một tu sĩ đến trễ vào giờ đọc kinh. Người ta hỏi lý do. Người tu sĩ cho biết là phải gặp một phụ huynh học sinh. Sự kiện quả đúng như vậy, nhưng nếu tu sĩ cố ý giữ người khách lại để trốn giờ chung, thì người ấy sử dụng cách biện giải.

Một con người như vậy có thể quy tội cho sách vở hay phòng học khi họ gặp thất bại trong việc dạy học. Họ đổ cho cây vợt khi bị thua trận bóng bàn… Những cách nói: “Tôi không bao giờ có dịp…” hay: “Người ta không dạy tôi như dạy người khác…” “Nếu tôi giỏi hơn…” là những động năng thích ứng*. Học trò thi hỏng đổ lỗi cho thầy. Thầy dạy dở đổ lỗi cho trò. Những cách giải biện như vậy rất thông thường. Nếu tu sĩ có trình độ thông minh trung bình, thì họ thường rất khó đối diện với sự kiện kết quả xấu, nhất là khi bề trên ca tụng quá đáng người có điểm cao. Nếu điểm cao được nhấn mạnh quá mức, thì một số tu sĩ phải bị xáo trộn tâm thần vì không thể đạt đến trình độ ưu hạng người ta mong đợi. Còn khi bề trên nhẹ nhàng bảo đảm là điểm trung bình cũng đủ để tốt nghiệp thì giúp nhiều để loại bỏ mọi thứ biện giải trong việc học hành. Những tu sĩ trẻ, cách đặc biệt, hay vướng mắc vào việc cạnh tranh trong học tập. Họ cần nhận thức rằng thông minh được biểu lộ bằng nhiều cách, chớ chẳng phải chỉ có học hành khoa bảng.

Sự hạ giá cũng là một loại biện giải. Một người thua cuộc trong một trò chơi tuyên bố: “cóc cần thắng”. Đó là cách giảm giá trị người thắng, để vớt vát cho sự thất bại của mình. Những người kém cỏi thường có xu hướng hạ giá bằng những sự tổng quát hoá có tính cách tuyệt đối: “Những người học giỏi thì tự phụ, những phụ nữ đẹp thì ngu đần, những người học nhanh thì mau quên, những người trẻ thì thiếu kinh nghiệm…”. Những loại khẳng định tổng quát và không thể kiểm chứng được như thế là những cách thường xuyên để giải biện. Bằng các kỹ thuật hạ giá như vậy, người ta có thể tìm cách đánh lừa kẻ khác về các nguyên động đích thực của tác phong mình, để tránh bị chỉ trích. Lấy ví dụ trường hợp các tu sĩ bàn bạc với nhau về tài ba của đồng bạn. Người có khuynh hướng giảm giá tuyên bố: “Ông ta làm thơ giỏi, nhưng khi dạy học thì quá tệ”. Câu thứ hai làm giảm giá câu thứ nhất. Hay khi người ta đề cao một tu sĩ được thành công thì có người phản kháng: “Tôi còn biết nhiều người giỏi hơn thế”. Một cách vô thức, người có khuynh hướng hạ giá kẻ khác tìm cách đề cao cái tôi của mình. Như thế, giải biện thường che giấu sự ganh tị.

Khuyết điểm đó còn được bộc lộ cách khác: lãnh đạm, giả vờ. Khi biết một đồng bạn vừa được học bổng, một tu sĩ cho rằng: “tôi chẳng thích tí nào”, nhưng giọng điệu của người ấy chứng tỏ ngược lại. Cả khi người ấy có vẻ thực sự vô tư, thì người ấy cũng bộc lộ sự ganh tị đối với quyền lợi của người khác. Còn nhiều hình thức giải biện khác, nhưng mọi thứ đều có đặc tính là óc vị kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình và nhắm mắt làm ngơ trước nhu cầu người khác.

Tranh luận với người giải biện chỉ làm cho họ triển khai phản ứng tự vệ bằng cách cố gắng bảo vệ lập trường của mình. Phương cách hay nhất giúp họ chữa trị là đưa họ gặp gỡ người khác, đồng hóa với người khác, có thể đối diện với thực tại mà không cần phải xoay xở để biện hộ cho cách cư xử của mình.

2/ Sự bù trừ (overcompensation) là một phương cách bù đắp trong một lãnh vực điều mà người ta cảm thấy thiếu vắng trong một lãnh vực khác. Có người vì bất an, nên bù trừ bằng cách trở nên hỗn xược: một người nhút nhát, trở nên liều lĩnh bất cẩn khi lái xe. Một người khác bị thất bại trong một cuộc họp mặt, chỉ còn giữ lại một tình cảm cay đắng và từ đó về sau, mọi cuộc hội thảo đối với họ chỉ là “đấu láo, tán phét”. Một người khác bị mặc cảm tự ti, nên có vẻ kênh kiệu. Như chúng ta đã thấy: sự tham ăn là một loại bù trừ thường xuyên cho việc thiếu tình thương. Vì những lý do tương tự, một vài người lại chỉ trích và đả kích người khác thậm tệ. Có người lại phóng đại tầm quan trọng của công việc mình làm để có vẻ không thua sút người khác. Tất cả các loại tác phong này bộc lộ sự khao khát vô thức được chú ý.

Có rất nhiều thái độ nết na quá lố cho thấy nhu cầu tìm bù trừ. Những sự lên án đại thể đối với những công việc vô thưởng vô phạt: hút thuốc, đánh bài, trang sức v.v… – có thể là những phản ứng bù trừ. Các phản ứng đó đưa đến nhiều công việc điên rồ, quái đản, lập dị.

3/ Sự đồng hóa (identification) là một cách giải tỏa căng thẳng ở mức độ vô thức, nhờ sự trung gian của các thành quả nơi người khác hay nhóm khác. Thường thì người đồng hóa không ý thức là họ thay đổi tác phong của mình để họa lại cung cách của kẻ khác. Sự đồng hóa như động năng điều ứng* không giống như sự cố tình bắt chước vốn làm cho nhân cách được sung mãn. Thường nó chỉ là sự gán ghép căn tính của mình vào một người khác để được uy tín hay thế lực. Sự kiện gia nhập vào hội đoàn này hay câu lạc bộ nọ làm cho một số đông thoả mãn khát vọng cá nhân của mình…Một số người đồng hóa chính mình với của cải coi như dấu hiệu của công đức vĩ đại. Tu sĩ có thể đồng hóa mình với của cải, uy tín và thành đạt của gia đình, bằng cách coi như chính mình đã thành đạt vậy! Người nào cứ khoe khoang cha mẹ mình như những mẫu gương trong mọi sự, chứng tỏ sự ấu trĩ của mình bằng cách đồng hóa với cha mẹ. Loại động năng này dẫn đến một thứ an ninh giả tạo và làm cho đương sự thiếu trang bị trước thực tại.

Một người có thể đồng hóa với một người khác mặc dầu không có liên hệ gì, chỉ cốt cho mình được thêm quan trọng. Đồng hóa với người được ca tụng và quý chuộng là một cách củng cố cái tôi của mình. Tuy nhiên, khi sự đồng hóa đưa đến một tác phong tốt đẹp hơn và một sự thay đổi tích cực, thì đó là một việc hữu ích, như khi người ta bị lôi cuốn bởi các đức tính tốt như: can đảm, cao thượng… và muốn bắt chước các đức tính đó. Sự đồng hóa đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển và có thể là một trợ lực hữu hiệu cho tu sĩ trẻ trong thời gian huấn luyện. Nhưng nếu sự đồng hóa tích cực chỉ có tính cách hoàn toàn tưởng tượng thì nó sẽ hết sức tai hại cho việc thành hình nhân cách.

Trong đời tu, người ta nhấn mạnh nhiều đến việc bắt chước nhân đức Chúa Kitô và các thánh. Trắc nghiệm của việc đồng hóa đích thực là ý muốn áp dụng nó vào các công việc tầm thường trong đời sống hằng ngày. Những sự cố gắng đích thực theo chiều hướng này, mặc dầu có thất bại, cho thấy đó là một sự đồng hóa hữu ích. Đối với một tu sĩ đứng tuổi, sự đồng hóa phải là một tiến trình ý thức và hướng đến một sự trưởng thành lớn hơn. Một tinh thần vui tươi, bác ái chứng tỏ một sự đồng hóa tốt đẹp dầu nó được thể hiện ở một đức tính nào. Nhưng sự đồng hóa mà không có đức ái đại đồng thì còn rất ấu trĩ; không có đức ái, sự đồng hóa đạo đức có thể là một ảo tưởng.

Sự đồng hóa trở nên đáng ngờ khi nó có tính cách tự vệ, quá đáng hay kỳ quặc. Một sự đồng hóa cực đoan và đặt chủ thể ở ngoài thực tại có thể trở thành nguy hiểm và đưa đến tâm bệnh. Nếu sự tách rời khỏi thực tại đưa đến những điều khác thường trong tác phong như: ăn mặc cẩu thả, dơ bẩn, luộm thuộm, thì thật là có lý do để lo ngại. Những người hành động như vậy có thể hoàn toàn vô ý thức. Sự dồn nén nghiêm trọng và kéo dài loại này có nguy cơ dẫn đến một sự phân lìa nhân cách và trở thành tâm bệnh.

4/ Phóng chuyển (projection) là một cơ chế tự vệ mà người ta sử dụng bằng cách gán các khuyết điểm, nguyên động và tâm tình của chính mình cho người khác. Thường người ta dễ thấy nơi người khác các đặc điểm và nguyên động thiếu sót nơi chính mình. Ví dụ một tu sĩ có nhiều khuyết điểm trong quá khứ. Người ấy tìm cách bù trừ trong hiện tại bằng một đời sống không tì vết, nhưng vì ký ức quá khứ vẫn còn đè nặng trên lương tâm, nên người ấy có khuynh hướng phóng giọi các tật cũ của mình cho người khác. Họ rất là ngờ vực, những cái nhìn, lời nói, cử chỉ có thể bị diễn giải như dấu chỉ đe dọa hay dấu vết của sự gian trá. Việc phóng chuyển làm cho họ dễ chịu với chính mình vì không còn thấy các lỗi phạm này như đặc điểm của chính mình, nhưng như đặc tính của người khác.

Gán ghép lỗi lầm của mình cho người khác cũng là một lối phóng chuyển thông thường. Một tu sĩ không mấy hòa hợp trong cộng đoàn có thể tìm những lý lẽ không có thực để tự bào chữa: chính người khác không muốn nói với họ, tiếp xúc với họ, thay vì nhìn nhận những khía cạnh kém xã hội của chính mình. Nhưng họ phải được chỉ dẫn để nhận biết thực tại của mình. Sự chấp thuận của xã hội không là tất cả. Cuộc sống hiện thực mới là một cuộc đời hạnh phúc. Thói quen phóng chuyển và đổ lỗi cho kẻ khác làm cho tu sĩ không còn được hạnh phúc.

Phóng chuyển là cách vất đi một điều ta không thích trên người khác hay vật khác. Thường thì người ta phóng giọi các ý tưởng và ước muốn đen tối nhất cho người khác. Phóng chuyển là một phương thức chủ quan, không thiết thực để đổ lỗi của mình cho người khác. Thường phóng chuyển bị thúc đẩy do nhu cầu muốn được yêu thương, tình trạng này luôn gia tăng cường độ do sự sợ hãi và thất đoạt. Chính sự sợ hãi thúc giục chúng ta gán cho tha nhân những tư tưởng đen tối và những ý định xấu xa. Những người nhát đảm tưởng tượng ra đủ mọi thứ nguy hiểm và sự sợ hãi thúc giục họ thổi phồng các đe dọa hoàn toàn có tính cách tưởng tượng.

Sự phóng chuyển thường bao hàm những phán đoán sai lầm. Các tu sĩ có khuynh hướng lệch lạc này nhìn thấy mọi thứ nguy hiểm, tai họa, ác ý nơi những người hoàn toàn vô tội và hoàn cảnh vô thưởng vô phạt. Cả khi không có một bóng dáng hận thù, họ cũng thấy là có khiêu khích. Rõ ràng là họ phóng đại. Nhiều khi họ cho là kẻ khác ghét họ, nhưng có thể chỉ là tưởng tượng. Khi một tu sĩ tố cáo người khác khó tính mà không đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thì có lẽ là họ phóng chuyển.

Một trong những điển hình tinh tế nhất là trường hợp một tu sĩ luôn dữ tợn và gây hấn đối với người khác. Người nào thích rầy la mắng mỏ kẻ khác, cả khi cần thiết, phóng giọi các thúc bách của mình. Tật già mồm, thích đả phá người khác trong câu chuyện, luôn là một hình thức gây hấn và nhiều khi trở thành một thói quen phóng giọi. Sự thô bạo thường xuyên, sự trêu chọc độc hại, những chuyện đàm tiếu, tin đồn nhảm nhí cũng là những hình thức phóng giọi.

Kiểm tra tương tự

Sách “Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG”

Lời giới thiệu của Lm. Giuse Cao Gia An, SJ, Tiến sĩ chú giải Kinh …

[Giới thiệu sách] Hạnh Các Thánh Dòng Tên

Các Thánh và các Chân Phước trong Dòng Tên chính là những người đã đạt …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *