[Linh đạo Inhaxiô-Những điểm quy chiếu] Chương 1: Khởi đầu

 Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

1. Lòng ước ao lớn

Chúng ta phải hiểu như thế nào câu đầu tiên của sách Linh Thao (LT): Con người được tạo dựng để ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, nhờ đó cứu rỗi linh hồn của mình(LT 23)?

Phải chăng đó là một điều luật? Nếu đó là một điều luật, thì luật này sẽ lên án tôi. Bởi vì, toàn bộ đời sống của tôi buộc phải hướng về việc ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa. Thế nhưng, đời sống của tôi không luôn luôn như thế. Vậy, tôi sẽ mất linh hồn! Như thế, bản văn mở đầu sách Linh Thao sẽ mở ra trước mặt chúng ta cả một vực thẳm mặc cảm tội lỗi!

Nhưng, đó không phải là một điều luật; hoặc, nếu đó là một điều luật, thì luật này khác hẳn, như những gì được viết trong một dẫn nhập khác, dẫn nhập của Hiến Pháp Dòng Tên (HP) cho thấy: “Luật nội tâm của bác ái và của tình yêu mà Thánh Linh viết và in trong con tim (HP 135). Nhưng, chúng ta đừng quá vội vàng nói về tình yêu và về Chúa Thánh Linh. Trong Linh Thao, đó là “Nguyên lý và nền tảng” của cuộc sống: lòng ước ao Thiên Chúa.

Đó cũng là chữ đầu tiên của sách Tự Thuật (TT), mà thánh Inhaxiô đã kể lại, để cho thấy cách thức Chúa đã dẫn dắt ngài: ông ta“một ước ao lớn lao và phù vân kiếm tìm danh tiếng” (TT 1). Lòng ước ao này không phải là, và còn cách xa lắm, lòng ước ao “ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta”. Tuy nhiên, chính khởi đi từ lòng ước ao này, Thiên Chúa đã chinh phục thánh nhân.

Inhaxiô, một con người ước ao (Ignace, homme de désir). Nhưng đâu phải chỉ có thánh Inhaxiô, nhưng “con người”, mọi người. Con người có những ước ao, và tận căn hơn, con người là ước ao. Một triết gia đã nói: “Con người là một hữu thể ước ao” (L’homme est un être de désir). Bao lâu con người chưa đạt tới đích, con người luôn ở trong một chuyển động, và điều làm cho con người chuyển động, đó chính là lòng ước ao. Ước ao sống, ước ao sống còn, ước ao vượt qua chính mình. Con người tự ấn định cho mình những mục tiêu, nhưng một khi những mục tiêu này đạt được, con người vẫn không thể lưu lại trong nghỉ ngơi.

Điều đó là gì, nếu không phải là, ở bên kia sự đa phức của các ước ao, con người bị “dày vò” bởi một ước ao duy nhất, đó là ước ao Đấng Duy Nhất? Con người là ước ao, bởi vì con người được tạo dựng bởi một Đấng Khác, và vì con người được lôi kéo, được thu hút bởi Đấng Khác, ngay cả khi con người không biết đến.

Con người chia sẻ sự khắc khoải này với toàn thể tạo vật: vật chất là sự chuyển dời, các loài thảo mộc lớn lên, thế giới sinh vật được thúc đẩy bởi bản năng. Con người là sự ý thức về ước ao, vốn làm chuyển động thế giới:

Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở.

(Rm 8, 19-22)

Không là Thiên Chúa, nhưng tất cả mọi sự đến từ Thiên Chúa và mọi sự khát khao Thiên Chúa. Vì thế:

Những điều khác trên mặt đất được tạo dựng cho con người để giúp con người trong việc theo đuổi cùng đích vì đó con người được tạo dựng.

(LT 23)

Kinh nghiệm thiêng liêng đầu tiên của thánh Inhaxiô được hình thành, từ lòng ước ao nền tảng này. Khi đang dưỡng thương, thánh nhân mơ ước về những điều lớn lao nhằm phục vụ một công nương thuộc hàng quí tộc. Đồng thời, thánh nhân cũng đọc những sách kể về cuộc đời Đức Ki-tô và cuộc đời các thánh. Dần dần, những câu chuyện mà ngài đọc đến gặp gỡ lòng ước ao muốn vượt qua chính mình của ngài: “Giả như tôi làm những điều thánh Phanxicô và thánh Đa-minh đã làm thì sao?” (TT 7). Với dấu chỉ niềm vui cư ngụ nơi ngài, khi ngài dự tính muốn bắt chước các thánh, ngài đã nhận ra điều gì đó thuộc về ước ao nền tảng; và khi thời gian dưỡng thương kết thúc, ngài rời bỏ gia đình, của cải, y phục để mang lấy con đường của người hành hương.

Đời sống của Đức Ki-tô và gương lành của các thánh thật có ý nghĩa: Đức Ki-tô, bởi vì Người hội tụ ở nơi mình mọi ước ao của toàn thể tạo vật; các thánh, bởi vì các ngài là những ngọn đèn soi đường: các ngài đã tìm kiếm để tìm thấy, các ngài đã tìm thấy để lấy lại đà vươn tới mới, trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa.

Như thế, con đường của linh đạo Inhaxiô mở ra cho người biết ước ao. Cho dù còn bị quyến rũ bởi viễn tượng thực hiện một công trình lớn lao hay muốn trổi vượt trong việc phục vụ một mục đích quí phái, người này được mời gọi “thật chăm chú nhìn ngắm Đức Ki-tô, Chúa chúng ta, và trước mặt Người, cả thế giới mà Người kêu gọi, cũng như mỗi người cách đặc biệt (LT 95). Người này, một cách thật đơn sơ, chấp nhận dừng lại, tách mình trong một khoảng thời gian, khỏi những tương quan và những bận tâm thường ngày, “để tìm kiếm cẩn thận điều mình hằng mong ước” (LT 20).

*  *  *

Có thể đọc và cầu nguyện :

Ø  Tv 42-43 (41-42) ; 63 (62) ; 84 (83): ước ao Thiên Chúa.

Ø  Rm 8, 18-30: ước ao của tạo vật.

 

2. Rời bỏ quê hương của bạn

Tạm thời tách mình khỏi những người thân, những công việc, để đi vào trong hành trình Linh Thao (LT 20) dường như là một quyết định không đáng kể, so với sự thay đổi cuộc sống tận căn của thánh Inhaxiô. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa hai quyết định: ai đã nhận ra rằng Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất và rằng mọi tế bào trong thân thể của mình đều hướng về Người, thì không thể thực hiện việc tìm kiếm Người mà không đưa ra một cử chỉ đoạn giao với thế giới, ít nhất là ở bình diện tâm cảm.

Đàng khác, không phải là một Giê-su hữu (tu sĩ Dòng Tên) dày dạn, hay một người đã làm Linh Thao, nhưng với ứng viên trẻ tuổi đến làm quen với Dòng Tên, mà thánh Inhaxiô đã trình bày ngay tâm điểm (le coeur) nền thần nhiệm của ngài:

Nhờ chê ghét hoàn toàn chứ không phải chỉ vì một phần, tất cả những gì thế gian yêu mến và tha thiết, lại nhận lấy và hết sức ước ao tất cả những gì Chúa chúng ta là Đức Ki-tô yêu mến và tha thiết. Vì như người đời theo đuổi những gì phàm tục, yêu thích và mải mê tìm kiếm vinh dự, danh thơm tiếng tốt trên đời, như thế gian dạy bảo họ, thì những ai bước đi, trong Thánh Thần và sự thật, theo Chúa chúng ta là Đức Ki-tô, cũng phải mãnh liệt yêu mến và ước ao ngược lại, nghĩa là mặc lấy cùng thứ quần áo và trang phục hạng tôi tớ mà Người đã mặc, vì kính trọng và yêu mến Người… vì Người là đường dẫn đưa con người đến sự sống.

(HP 101)

Khi đọc những dòng chữ này một cách hời hợt, có người sẽ bị cám dỗ bỏ qua: “Hãy làm cho mình thành một tu sĩ, và thành ai hơn thế! Điều này không dành cho tôi”. Tuy nhiên, người này hãy dành thời gian để đọc lại, đối chiếu những từ ngữ này với Tin Mừng, với những lời của Đức Giê-su, khởi đầu như sau: “Nếu ai muốn là môn đệ của Tôi…” (Mc 8, 34). Người này hãy cân nhắc các từ ước ao, yêu mến, ôm ấp… Đó là những từ ngữ tình yêu. Sau đó, người này hãy nhìn vào thế giới.

Thế giới, vốn hiển nhiên không phải là vũ trụ của công trình sáng tạo mà Thiên Chúa đã nói rằng, “mọi sự rất tốt đẹp” (St 1, 31) và ở nơi đó, thánh Inhaxiô nhìn thấy điều được tạo dựng, “để giúp con người đạt tới cùng đích của mình” (LT 23). Thế giới ở đây được hiểu trong tương quan với tĩnh từ “hào nhoáng” (mondain); tính từ này nói đúng điều nó muốn nói.

Thế giới của những kẻ hào nhoáng, đó là đền thờ của những ảo tưởng và lừa dối, là cuộc sống theo vẻ bề ngoài, theo đó con người được xem xét bởi điều họ phô diễn và con người bị buộc không ngừng phải sống theo những phô diễn. Vậy, đó là những gì? Là tiền bạc, xe cộ, trang sức, tiệc tùng, tình dục, công danh… Con người bị kẹt vào trong bánh răng cưa của sự tranh đua. Ai không nghiền nát, sẽ bị nghiền nát. Người ta làm cho mình có giá trị, không phải khởi từ điều mình là, nhưng khởi từ điều mình có hay muốn có. Giả dối!

Đằng sau sự cuồng nhiệt này, Đức Giê-su đã vạch trần “Thủ lãnh của thế gian này”: “Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân… Sự thật không ở trong nó… bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8, 44).

Gian dối dẫn đến sự chết; điều này cũng xẩy ra trước mắt chúng ta. Bởi vì cuộc chạy lao vào hư vô rất tổn hại và ở mức độ tận cùng, rất khủng khiếp, đến độ nó tạo ra những hậu quả chết chóc: thuốc kích thích hay thuốc lắc, tăng lực, rượu mạnh, thuốc phiện, trầm cảm… Và khi thế giới của những vẻ bề ngoài sụp đổ, nhiều người trong số họ – mà người ta gọi là “Jeunes Loups” (Bầy Sói Con, tựa của một bộ phim), bất lực trong việc ủng hộ sự thật – không có lối thoát nào khác ngoài việc tự vẫn!

Cái thế giới đó làm cho chúng ta kinh sợ, nhưng lại bao quanh và xâm lấn chúng ta tứ phía. Chúng ta không muốn nó, nhưng nó cầm giữ chúng ta. Thế mà, không phải thánh Inhaxiô đã phát hiện ra “hai con đường”: “sự sống và hạnh phúc, sự chết và bất hạnh” (Đnl 30, 15), và người ta không thể phục vụ hai chủ, Thiên Chúa và tiền của (Mt 6, 14). Phải chọn lựa. Khi chọn lựa “con đường dẫn đến sự sống”, các thánh đã xem trọng lời mời gọi của Chúa. Người ta không thể đùa giỡn với điều này, muốn nhảy từ đường này sang đường kia, như chơi trò chơi nhảy lò cò. Vì chúng trái ngược nhau.

Khi chọn lựa bắt chước các thánh, thánh Inhaxiô muốn trở thành môn đệ của Đức Ki-tô. Khi đề nghị chúng ta lùi lại để bước vào hành trình Linh Thao, ngài đặt chúng ta trên “con đường dẫn đến sự sống”.

Hãy rời bỏ quê hương của bạn! Sự đoạn giao này không phải là nhiệm ý. Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là điều kiện đầu tiên.

*  *  *

Có thể đọc và cầu nguyện :

Ø  St 12, 1-9: “Hãy rời bỏ xứ sở của ngươi”

Ø  Đnl 30, 15-20: “Hãy chọn sự sống”

Ø  Lc 9, 22-25: “Nếu ai muốn theo tôi”

 


3. Đón nhận chính mình từ Thiên Chúa

Lựa chọn ban đầu đã được thực hiện và sự đoạn giao mà lựa chọn này đòi hỏi. Bây giờ thì phải lên đường. Inhaxiô đã lên đường hướng đến Giê-ru-sa-lem, lao mình vào “mọi việc khổ chế mà ông thấy các thánh đã làm” (TT 8). Ông có được niềm vui lớn lao trong tâm hồn. Nhưng sau vài tháng, mọi sự đều sụp đổ. Điều này bắt đầu bởi sự xuất hiện luân phiên các cảm xúc mà ông không kiểm soát được: có khi thì chán ngán; có khi ông nhận thấy “những buồn chán và sầu khổ được cất đi như người ta tháo bỏ cái áo choàng ra khỏi vai (TT 21). Ai đã làm ra như vậy? Inhaxiô không biết và không thể đặt tên cho sức mạnh lạ lùng này. Ông sợ hãi và tự hỏi mình về “cuộc sống mới” mà ông không lường trước được. Sau nỗi sợ hãi, xẩy ra cuộc khủng khoảng tồi tệ từ những bối rối, hành hạ ông đến độ ông bị cám dỗ tự đem lại cho mình cái chết (TT 24). Cho đến một ngày, “Chúa làm cho ông thức tỉnh như thể từ một cơn mê” (TT 25). Thánh nhân đã kể lại chuyện này, không phải vì chuyện này lạ lùng, nhưng vì ích lợi thiêng liêng của chúng ta.

Thực ra, ở đây có điều gì đó thật thông thường và điều này liên quan đến chúng ta tất cả: mỗi người khác với hình ảnh mà mình tạo ra cho mình hay muốn tạo ra cho mình, về chính mình. Trong mức độ, con người nỗ lực làm cho mình phù hợp với hình ảnh này, con người không là chính mình trong sự thật. Tự do của con người trở thành tù nhân.

Thánh Inhaxiô đã lao mình vào trong dự định bắt chước các thánh mà ngài đã lấy làm những khuôn mẫu. Đó là hình ảnh mà ngài luôn giữ ở trước mắt và ngài muốn làm cho mình phù hợp với hình ảnh này, ngang qua những thành tích khổ chế. Tất nhiên, hình ảnh này được phát sinh bởi lòng ước ao của ngài. Tuy nhiên, hình ảnh này thuộc về ngài, khi mà lòng ước ao của ngài thuộc về Thiên Chúa. Khi làm cho mình phù hợp với những khuôn mẫu, ngài không là chính mình. Khủng khoảng mà ngài trải qua, và qua đó Chúa huấn luyện thánh nhân, sẽ đi tới sự sụp đổ của hình ảnh. Sự sụp đổ này là cần thiết để cho một con người mới được sinh ra.

“Tuần Thứ Nhất” của hành trình Linh Thao tương ứng với kinh nghiệm này của thánh Inhaxiô. Thoạt nhìn, tuần này dựa trên những tội lỗi, nhưng tuần này nhắm tới kinh nghiệm nhận ra rằng, Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Đấng Cứu Độ duy nhất của tôi, và từ chính mình ngài, tôi đón nhận sự sống của tôi mỗi ngày.

Tội là gì ở nguồn gốc của nó? Có vẻ không có sự khác biệt giữa lời dụ dỗ của con rắn: “ông bà sẽ trở nên như các thần linh” (St 3, 5) và lời nguyện của Đức Giê-su: “Để họ được nên một như chúng ta là một: con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17, 22-23). Nhưng, khi mà Kẻ Lừa Dối xúi dục chúng ta trở nên Thiên Chúa chống lại Thiên Chúa, qua lựa chọn không tuân phục, thì Đức Giê-su mời gọi chúng ta trở nên giống như Thiên Chúa cùng với Thiên Chúa, điều mà các Giáo Phụ không ngần ngại gọi là hành trình “thần hóa” của chúng ta.

Tội luôn luôn là một hành vi tự coi mình là đủ và phát xuất từ ý muốn, ít nhiều được nhận biết, một mình xây dựng bản thân mình, mà không cần Thiên Chúa và thậm chí chống lại Thiên Chúa. Vậy, để phá vỡ những giới hạn thuộc thân phận thụ tạo, tôi phóng chiếu ra trước mặt tôi một hình ảnh về tôi: tôi-giàu có, tôi-mạnh mẽ, tôi-hấp dẫn, tôi-ở trên-người khác, và tôi thực hiện những hành vi phù hợp với hình ảnh này. Tương tự như thế đối với “những ý hướng tốt lành” giả tạo: chẳng hạn, trở nên một vị thánh, hay chí ít trở nên ai đó tốt lành và được nhìn nhận là như vậy: ý hướng này tỏ ra lệch lạc, ngay khi tôi chủ trương thực hiện nó, với cố gắng của bản thân. Cũng là lệch lạc, những ý hướng hình thành từ sự sợ hãi – sợ Thiên Chúa, sợ người khác, sợ chính mình – sự sợ hãi dựng nên quanh tôi những phòng chống, để bảo vệ sự toàn vẹn (intégrité) của tôi về thiêng liêng và luân lý… Ở tận gốc rễ của những điều đó, có sự từ chối nhận biết rằng, tôi đón nhận sự sống của tôi từ một Đấng Khác, Đấng Tạo Dựng và Đấng Cứu Độ của tôi.

Để cho Thiên Chúa được nhận biết như vậy, hình ảnh về tôi phải sụp đổ. Không vâng lời – tội hệ tại hiển nhiên ở điều này – không phải là cung cách của trẻ con. Không vâng lời là hành vi khủng khiếp của hữu thể có ý thức về năng lực tự do của mình, và nó từ chối nhận biết Đấng, vốn là Tác Giả. Đó là tội của thế gian, của lịch sử và của con người. Tội này chỉ có thể được nêu tên trước mặt Đức Ki-tô, Người vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá (Phil 2, 8). Hiện diện trước Đấng Chịu Đóng Đinh, tội nhân có thể nhận ra, đến mức độ nào tội dẫn đến sự chết. Vì, khi muốn xây dựng mình bởi chính mình, tội nhân chia cắt mình khỏi những cội nguồn của sự sống: khỏi Thiên Chúa, vốn ban sự sống cho mình, khỏi thế giới tạo vật, vốn bảo dưỡng mình. Khi đó, “tôi, một mình tôi, tôi có thể là gì?” (LT 48). Chẳng là gì cả. Và sự sáng suốt của việc nhìn nhận này lẽ ra dẫn đến sự tuyệt vọng, nếu ngay từ đầu, Đức Ki-tô chịu đóng đinh, Đấng cứu tôi khỏi sự tuyệt vọng, đã không hiện diện. Tôi không ở một mình. Tôi có thể nói lên lời.

(a) Trước hết, những lời nhút nhát và dò dẫm, được hình thành từ những câu hỏi và sự kinh ngạc: “Lạy Chúa! Làm thế nào mà, là Đấng Tạo Hóa, Chúa đã đến để trở thành con người, để đi từ sự sống trong vĩnh cửu đến sự chết trong thời gian, và như thế, để chết cho tội lỗi của con” (LT 53)? Và hỡi các bạn, “các thiên thần và các thánh, các tầng trời, mặt trời và mặt trăng, các vì sao và các nguyên tố, hoa trái, chim muông, cá lặn… làm sao mà các bạn vẫn để cho tôi được sống và vẫn gìn giữ tôi?”

(b) Tiếp đến, những lời giải thoát, được thốt lên trong một bài ca tạ ơn: “Lạy Cha, chính Cha đã ban cho con sự sống cho đến bây giờ” (LT 61); “Chính Ngài, Lạy Chúa Giê-su, đã luôn tỏ ra biết bao dịu hiền và thương xót đối với cho con” (LT 71).

(c) Cuối cùng, những lời sáng tạo, mở ra cho một tương lai, nơi đó, tôi dấn thân làm việc cùng với Chúa: “Tôi phải làm gì cho Chúa Kitô? Tôi sửa đổi, canh tân, hướng mình về tương lai với ân sủng của Chúa” (LT 53, 61 và 63).

*  *  *

Khi ra khỏi thử thách, con người được đặt trở lại như thế, trên con đường của mối tương quan đúng đắn với Thiên Chúa, với thế giới và với chính mình.

Với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tác Giả của sự sống con người: mỗi một khoảng khắc, từ Người, con người đón nhận sự sống, con người đón nhận chính mình. Con người được định vị trong một tương quan phụ thuộc, chứ không nô lệ. Bởi vì, khoảng cách giữa “Đấng Tối Cao Thần Linh” và con người mở ra không gian lời nói. Những đòi hỏi của Thiên Chúa sẽ không còn đáng sợ nữa, như là bị áp đặt từ bên ngoài; những đòi hỏi này sẽ trổ sinh như hoa trái của lời nói được trao đổi, nơi đó hai ước ao đến với cuộc gặp gỡ cùng nhau.

Với thế giới. Từ nay, thế giới sẽ được hiểu như là công trình sáng tạo, nơi đó con người chiêm ngắm những dấu vết của Thiên Chúa và khám phá ra sự đỡ nâng mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người, để cho con người không đơn độc. Nhìn thế giới như thế sẽ làm cho con người trở nên sáng suốt để phân định sự dữ, công trình của hư vô, và chính hư vô. Thế giới sáng tạo trở nên, đối với con người, mảnh đất duy nhất cho việc tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người, Đấng dẫn đưa con người dõi theo con đường của người hành hương.

Cuối cùng, với chính mình. Giờ đây con người có thể đi vào và lớn lên trong tương quan đúng đắn với chính mình. Là tội nhân và được cứu độ, con người đảm nhận quá khứ của mình, dù nặng nề như thế nào, để khởi sự tương lai của mình. Con người biết rằng, tự bản chất mình phải tạo ra các hình ảnh, phải xây dựng các dự án, nhưng con người sẽ học biết để tạo ra một khoảng cách giữa lòng ước ao của mình về Thiên Chúa và những dự án của mình thuộc bình diện con người, sao cho, nếu những dự án này sụp đỗ, con người trở lại với lòng ước ao của mình và sao cho, nếu những dự án này thành công, con người không biến chúng thành những ngẫu tượng. Được sinh ra cho chính mình, bởi Thần Khí, con người sẽ được giải thoát khỏi sức quyến rũ của những hình ảnh.

Và như thế, từ đây con người sẽ có một Hình Ảnh khác để chiêm ngắm. Con người hãy để cho mình được giáo huấn!

*  *  *

Có thể đọc và cầu nguyện :

Ø  St 2 và 3: sáng tạo, lề luật, dối trá.

Ø  Ga 3: Đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô.

Kiểm tra tương tự

App Hành hương Dòng Tên có phiên bản tiếng Việt

App Hành hương Dòng Tên (Jesuit Pilgrimage), được phát hành từ cuối năm 2022 để …

Sách “Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG”

Lời giới thiệu của Lm. Giuse Cao Gia An, SJ, Tiến sĩ chú giải Kinh …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *