
Trong bản thảo gửi cho sơ Maria Thánh Tâm, ở chương 9, Têrêsa Hài Đồng Giêsu viết: “Trong lòng con lại vang lên nhiều ơn gọi khác: ơn gọi làm chiến sĩ, linh mục, tông đồ, tiến sĩ, tử đạo. Tắt một lời, con cảm thấy sự cần thiết, một ước muốn thực hiện cho Ngài, hỡi Giêsu, những chiến công anh hùng nhất… Con cảm thấy trong tâm hồn lòng can đảm của một hiệp sĩ thập tự chinh, của một quân nhân Giáo hoàng. Con ước ao được chết để bảo vệ Giáo Hội trên chiến trường”. Trước khi thốt ra những lời này, chị Thánh đã từng đề cập đến ơn gọi của mình: một nữ tu dòng Kín Carmel, là hiền thê và người mẹ. Nhưng tại sao Têrêsa lại đề cập đến thật nhiều ơn gọi ở đây? Đâu là cái nhìn thực sự của chị đối với ơn gọi?
Mỗi ơn gọi đều có những nét riêng, nhưng tất cả đều có một điểm chung: đó là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Như chị đã thú nhận sau này, chị có lòng ao ước thực hiện những công việc anh hùng nhất cho Chúa Giêsu. Vấn đề là, chị mong muốn làm thật nhiều cho Chúa, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở chỗ “làm”, và chính vì thế, nó không làm cho chị thoả mãn. Chỉ khi đọc những lời của thánh Phaolô về đức ái (x. 1Cr 13), Têrêsa mới chợt nhận ra điều mà Thiên Chúa dành cho mình. Đó không chỉ là một ơn gọi, mà còn là nguồn gốc, bản chất và cốt lõi của mọi ơn gọi. Từ đó chị xác quyết: “Con đã tìm thấy ơn gọi của con! Ơn gọi của con là tình yêu!”.
Ơn gọi không phải là điều dễ dàng để nhận biết. Trước hết, đó là một ơn ban, một lời mời gọi, một sự lôi kéo của Thiên Chúa. Nhưng đồng thời cũng là kết quả của cả một quá trình tìm kiếm và phân định lâu dài. Kinh nghiệm của Têrêsa đem đến cho chúng ta một bài học quý giá, đặc biệt là đối với những ai đang loay hoay trong việc tìm kiếm một con đường để phục vụ Chúa. Chúng ta thường chỉ nghĩ đến việc “làm” cái gì đó cho Chúa, mà quên mất rằng cái căn bản của mọi sự là “tình yêu”. Không có tình yêu, mọi cái “làm” đều trở nên thiếu sức sống và nguy cơ trở thành một kiểu “chủ nghĩa hoạt động”, hàm chứa những nguy cơ của một kiểu tự hào bản thân và dễ dẫn đến sự hụt hẫng hay bất mãn khi việc không thành như mình muốn.
Một điều khác mà chúng ta có thể nhìn thấy trong hành trình tìm kiếm ơn gọi của Têrêsa là chiều kích Giáo Hội học. Têrêsa không tìm ơn gọi hay chỗ đứng của mình bên ngoài Giáo Hội, nhưng là ở trong Giáo Hội. Được gợi hứng bởi thánh Phaolô, Têrêsa nhìn Giáo Hội như một thân thể, mỗi Kitô hữu là một chi thể với chức năng riêng. Khi nhận ra rằng ơn gọi của mình là tình yêu, Têrêsa ví mình như con tim, bởi từ đó phát sinh tình yêu: “Trong lòng Giáo Hội, Mẹ con, con sẽ là tình yêu”. Têrêsa xứng đáng được gọi là một nhà thần bí, theo nghĩa chị chạm đến điều sâu xa nhất, chân thực nhất, đó chính là tình yêu. Tâm tình thuộc về Giáo Hội của Têrêsa được diễn tả trong chính lời thổ lộ của chị: chị gọi mình là nữ tu dòng Kín, hiền thê và người mẹ. Những từ “hiền thê và người mẹ” có âm hưởng mang tính Giáo Hội: Giáo Hội là Hiền thê của Đức Kitô và là Mẹ của các Kitô hữu. Têrêsa tìm thấy sự hòa hợp với Giáo Hội, và chính trong Giáo Hội, chị khám phá ra ơn gọi của tình yêu.
Trong ơn gọi tình yêu ấy, chị Têrêsa thấy mình được lôi kéo để tiến gần về với Chúa hơn. Có hai hình ảnh Têrêsa sử dụng để diễn tả kinh nghiệm thiêng liêng liên quan đến ơn gọi của mình: chim sẻ và đại bàng. Têrêsa tự coi mình như một con chim nhỏ bé, yếu ớt. Chị nhận ra sự yếu đuối, mong manh và bất xứng của mình trước sức mạnh, sự cao cả và uy nghi của Mặt Trời – biểu tượng của Thiên Chúa. Đây cũng là một đặc điểm trong linh đạo “con đường nhỏ” của chị. Chính trong sự bé nhỏ ấy, Thiên Chúa làm cho chị trở nên vĩ đại. Trong cái nhỏ bé của con đường nhỏ lại tỏa sáng sự vĩ đại của Thiên Chúa. Như một chú chim non, Têrêsa muốn nhìn thẳng vào Mặt Trời thần linh, nhưng không thể. Chỉ có thể cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, mà Têrêsa mô tả bằng hình ảnh Đại bàng thần linh. Khi chú chim non không thể bay cao, chính Đại bàng hạ cánh xuống để đón lấy nó. Ngoài ra, Têrêsa cũng dùng hình ảnh Đại bàng để chỉ các chị em của mình, như lời chị nói: “Sự điên dại của con là nài xin các chị Đại bàng giúp con được ơn bay tới Mặt Trời tình yêu bằng chính đôi cánh của Đại bàng thần linh”.
Chị thánh Têrêsa được nhiều người yêu mến, biết đến và sùng kính bởi nét thánh thiện vô cùng dễ thương và trong sáng này. Chị là 1 trong 4 vị thánh nữ được nâng lên hàng tiến sĩ Hội Thánh. Trong Giáo Hội hiện nay, chỉ có 37 vị được phong tặng tước hiệu này. Tất cả họ đều là những học giả lỗi lạc, có nhiều trước tác thần học trứ danh. Têrêsa chẳng được học hành gì to tát. Đóng góp lớn nhất của chị làm cho chị xứng đáng với danh hiệu này là tái khám phá và sống trọn hảo “linh đạo tình yêu” của Tin Mừng, vốn được xem là không thua gì một tác phẩm thần học quý giá. Chưa từng bước ra khỏi đan viện, nhưng chị cũng được phong là bổn mạng của nhà truyền giáo (ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê, người đã dong duỗi cả trăm ngàn cây số để rao giảng Tin Mừng ở châu Á). Chị cũng là bổn mạng của những bệnh nhân, người trồng hoa, vì chị đã trải qua những cơn bệnh thập tử nhất sinh và là người thích hoa (ví mình bông hoa nhỏ của Chúa Giêsu). Đã hẳn là chị thánh chẳng đoái hoài gì đến những danh hiệu này. Nhưng việc Giáo Hội dành cho chị một vị trí to lớn như thế là để cho thấy đâu là ơn gọi đích thực của một Kitô hữu.
Sống “tình yêu” liệu có khó không? Sẽ rất khó nếu chúng ta vẫn cứ giữ mãi sự kiêu ngạo, ích kỷ, bốc đồng, tính toán… Tình yêu hoàn toàn đối nghịch với những điều này. Tình yêu đòi một sự cho đi, sự kiên nhẫn, nghĩ đến người khác, hy sinh, phục vụ. Để tình yêu được lớn lên thì phải diệt cái tôi ngạo mạn. Có đôi khi chúng ta tự hỏi: sống tình yêu như chị Thánh thì rốt cuộc mình được cái gì? Cả thế giới ngày nay, ai cũng chỉ biết nghĩ đến mình, tội gì mình phải nghĩ đến người khác? Không có câu trả lời nào về mặt lý trí đủ để giải đáp thắc mắc này, chỉ khi nào người ta sống con đường “tình yêu”, người ta mới thấy phần thưởng lớn lao mà nó mang lại. Sống tình yêu không dễ, nhưng không phải là không thể. Chị Têrêsa đã chứng minh cho chúng ta thấy.
Lm. Phêrô Lê Hoàng Nam, S.J.
