Việt Nam (tt) – Phần II: Thời kỳ đấu tranh giành độc lập

 (Nguyễn Đình Đầu)

 1. NƯỚC NAM VIỆT (207- 111 TRƯỚC CN)

Nhà Tần đổi nuớc Âu Lạc thành Tượng Quận nhưng không trực trị, họ Thục vẫn làm vua. Chẳng được bao lâu nhà Tần suy, quan úy quận Nam Hải là Triệu Đà nổi lên tự lập, đem quân đánh lấy nước Âu Lạc, lập ra nước NAM VIỆT vào năm 206 tr. CN . Từ đó, nhà Thục chấm
dứt và đã làm vua Âu Lạc được 50 năm. Triệu Đà sai hai viên sứ thần coi giữ hai quận Giao Chỉ và cửu Chân (địa bàn Âu Lạc cũ). (Bản đồ 5)

Ở Nam Việt, Triệu Đà xưng đế. Bên Trung Quốc, nhà Hán dứt họ Tần và họ Sở. Nhà Triệu làm vua Nam Việt được 96 năm (207- 111 tr. CN) truyền được 5 đời:
– Triệu Vũ Vương (207- 137 tr.CN).
– Triệu Văn Vương (137-125 tr.CN).
– Triệu Minh Vương (125- 113 tr.CN).
– Triệu Ai Vương (113- 112 tr.CN).
– Triệu Dương Vương (112-111 tr.CN) .
2. THUỘC NHÀ TÂY HÁN (111 TR.CN-39 SAU CN) VÀ THỜI TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)
Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao Chỉ Bộ và chia ra làm 9 quận:

1. Nam Hải (Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phô (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (từ Bắc Việt tới Ninh Bình)
6. Cửu Chân (từ Ninh Bình tới Hoành Sơn)
7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn tới Đèo cả)
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) .
Địa bàn nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Dân số” cuối thời thuộc Hán, ở niên đại đầu Công nguyên, có 666.013 nguời.
QUẬN GIAO CHỈ chia ra 10 huyện là: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Đào Duy Anh phân tích khá rõ theo Thủy Kinh Chú rồi kết luận: “Quận Giao Chỉ ở đời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền tây-bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc tây- nam tỉnh Ninh Bình bây giờ là địa đầu của quận cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp; lại phải thêm vào dấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng Tây”
QUẬN CỬU CHÂN, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục và Tiền Hán Thư, gồm 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Sách Hậu Hán Thư chỉ kể 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên. Bảy huyện trên được phân bố từ phía nam tỉnh Ninh Bình đến Hoành Sơn . (Bản đồ 6)

QUẬN NHẬT NAM gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ Anh, Lô Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì năm huyện đó được phân bổ từ phía nam Hoành Sơn tới núi Đại Lãnh (gần đó có núi Đá Bia làm ranh giói giữa Phú Yên với Khánh Hòa nay).
Sách KĐVS đã “chú” khá kỹ địa bàn từng quận huyện một, nhưng đến nay các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử vẫn còn bàn cãi ở một số” nơi chưa nhất trí .

Kiểm tra tương tự

Chống lại chủ nghĩa đắc thắng và tinh thần thế tục – Kỳ 2: “Những nhân vật chính” của cuộc chiến

Nhìn bề ngoài, chủ nghĩa đắc thắng có vẻ giống như mọi cơn cám dỗ …

Chúa có là Sự Sống, là Con Đường và là Sự Thật của đời bạn không ?

Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14,1-12) Chúa …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *