Từ Bêlem tới phòng tiệc ly: một bước đường, mở ra những bước đường cho người môn đệ,
Được sai vào cánh đồng lương dân, cả một vùng đất mênh mông chỉ có một ngôi nhà thờ, mỗi tháng mới có linh mục từ xa tới dâng lễ một lần.
Trên đường tôi thường ghé vào nhà thờ lấy Thánh Thể đem theo bên mình, để sớm tối tâm sự với Đấng ẩn thân trong Tấm Bánh. Nhưng rồi một ngày cha xứ biết chuyện, ngài cấm tôi không được nhận Thánh Thể mang theo, vì một tu sĩ bình thương như tôi thì không được phép.
Không sao, mỗi lần đi ngang nhà thờ tham dự Thánh Lễ, tôi được rước lễ và tôi bắt đầu khám phá ra một điều kỳ diệu, là Thánh Thể không chỉ để tôi tôn kính, thờ lạy và nguyện xin, mà Thánh Thể sống trong tôi. Từ đây trên mọi nẻo đường đời tôi luôn có Chúa cùng đi.
Cũng từ đó, mỗi lần thấy con đường phía trước mịt mờ, bước chân tôi muốn ngập ngừng, tôi nghe trong lòng tiếng Người phán bảo: “Thầy đây, đừng sợ!” và tôi mạnh dạn tiến bước trong bình an. Một vài lần tôi cảm thấy bơ vơ khó qua, vẫn một tiếng nói của Đấng đang ở với tôi và trong tôi: “Thầy đây, đừng sợ!” Thì ra tôi có đi tới đâu và gặp bất cứ chuyện gì, tôi vẫn ở trong vòng tay của Đấng đã hứa sẽ ở với người môn đệ mọi ngày, chính Người bảo vệ tôi.
Từng bước tôi sống kinh nghiệm Chúa Giêsu Thánh Thể sống trong tôi, cùng tôi bước tới trên muôn vạn nẻo. Đường tôi đi trở thành đường của Con Thiên Chúa làm người, đường của Thánh Thể trong đêm bị nộp với một thân mình đầy máu me, và cũng là đường của Đấng đã được Chúa Cha tôn vinh, trao cho Người Thánh Thần đã hứa để người đổ xuống.
Thế là từ đây, trên con đường của đời môn đệ, sẽ không còn gì nguy khó.
Vất vả ư! Đã có Đấng ban sức mạnh cho tôi: nỗi mệt nhọc khi gieo trồng sẽ tràn ngập tiếng cười vui trong ngày mùa.
Người ta cứ hỏi tôi khi bước đi trên đường có gặp nhiều khó khăn không? Xin trả lời ngay là đã bao năm rồi tôi không biết đến khó khăn và cũng chẳng nghĩ tới khó khăn. Người đi thi hành sứ vụ được Thiên Chúa sắp xếp và dự liệu tất cả, chứ đâu phải chuyện tôi vẽ ra. Thánh Thể ở trong tôi, luôn nhắc bảo cho tôi biết rằng ách của Người êm ái và gánh của Người nhẹ nhàng, việc của tôi là học với Người để sống hiền lành và khiêm tốn như Người.
Trên những con đường dài giữa núi rừng heo hút, lạ người lạ cảnh, chuyện gì cũng có thể xảy ra, đúng không nào? Nghĩ làm gì mấy chuyện đó! Thực ra tôi cũng không khá hơn ai để dám nói rằng mình giỏi giang lanh lợi đủ để tự tin, nhưng luôn bước đi với lòng tin tưởng, tin vào Giêsu Thánh Thể tôi đã lãnh nhận đang sống trong tôi; chính Người bảo vệ và dẫn dắt tôi, và vì thế tôi không lo tự vệ. Thú thật, tôi cũng chẳng biết những gì đang đợi mình phía trước để mà tự vệ. Cứ lo nghĩ về những nguy hiểm có thể xảy ra, thì có khác chi kẻ cầm cày mà còn quay lại đằng sau, biết bao giờ mới cày xong được miếng ruộng, và cũng chẳng bao giờ thấy được điều lạ lùng diễn ra giữa một vung đất hoang sơ.
Vào cánh đồng, lên đường, lao mình về phía trước với lòng tin tưởng nơi Chúa, không chút lo ngại. Thật lạ lùng, ngay trong vụ mùa đầu tiên, lúa vàng nặng trĩu hai vai, mọi người chỉ biết mở to cặp mắt tròn xoe ngỡ ngàng, cùng nhau cất cao lời kinh cảm tạ, vì việc tay Chúa thực hiện vượt quá những gì chúng tôi mơ tưởng.
Bước đi của người được sai vào cánh đồng phải khởi đi từ đâu?
Phải biết mình là ai, nhớ mình là ai, trước khi bắt tay vào việc. Không chỉ những bước chân mới mẻ, mà ngay cả khi đã thuần thục, vẫn phải sống tư thế của người vừa học vừa làm, một con tim biết lắng nghe, chung sức chung lòng với mọi người.
Trước mắt chúng tôi là nỗi lòng của chủ ruộng, bao năm ôm ấp cánh đồng chờ thợ gặt, để qui tụ tất cả con cái lạc lõng khắp nơi về chung một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha, trong lòng Mẹ Giáo Hội, và đây chính là động lực để anh chị em chúng tôi lên đường.
Vào cánh đồng, bài tập đầu tiên là học để biết Chúa đã và đang làm gì, chiêm ngắm Thiên Chúa để thấu nỗi lòng của Người giữa đoàn con cái bơ vơ trong những vùng đất hoang sơ này.
Khi được sai đến với bà con, tôi cứ nghĩ mình là người đem Chúa đến, nhưng thực ra Chúa đã ở đó rồi. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu, không thể bỏ rơi con cái. Vì Ngài là Thiên Chúa vô hình, nên có thể chăm sóc con cái tận tình. Dĩ nhiên, đối với những con người đơn sơ chất phác trong chốn rừng sâu thì Thiên Chúa dẫn dắt bằng một đường nẻo riêng: Thiên Chúa luôn có cách để chăm sóc những con người không quen so đo tính toán, thích cuộc sống hồn nhiên, không quen dự trữ, ngày lại ngày vui thỏa trong vòng tay Thiên Chúa tạo hóa, sống chan hòa, liên đới.
Ngắm nhìn Thiên Chúa chăm sóc con người, ôm trọn cuộc sông mọi người già trẻ lớn bé giữa những cánh rừng bạt ngàn: nuôi sống bằng rau bưng, lá nhíp với đọt mây. Món thịt đơn giản và dễ kiếm nhất là chuột rừng, heo rừng với hươu nai thì hiếm có hơn, phải giăng bẫy và đợi chờ. Vào mùa giáp hạt hay khi phải thất mùa thì đã có củ chụp. Cuộc sống với những bữa ăn đơn nghèo thắm đậm ân tình, vui lắm.
Mỗi lần được mời đi ăn đám hỏi chẳng hạn, khách mời tới từ sớm, nhưng tụm năm tụm ba dưới các gốc cây trò chuyện, ngồi không như vậy đó, có khi suốt buổi sáng hoặc qua xế chiều, đợi cho hai họ nói chuyện và thỏa thuận xong xuôi, bấy giờ mới ra chỉ cho nhau thấy con bò hoặc con heo sẽ giết, rồi lại ngồi đợi cho tới khi phần thịt được chia đều đôi bên, các món đem nấu thịt thì ít, xương thì nhiều, và rồi trẻ già lớn bé đều ngồi ăn vui vẻ. Thì ra người người qui tụ hôm nay mục đích chính không phải để ăn, mà để sống, nhìn mặt nhau là vui, gặp nhau là lễ hội, một vài ché rượu cần tiếp theo cho có chút hơi men, chứ không phải để ôm nhau say khướt.
Điều gì đã tạo nến nếp sống vui tươi lành mạnh? Từ đâu mà xuất hiện những già làng công minh, giữ gìn kỷ cương cho dân làng an bình. Tất cả bắt đầu từ niềm tin vào Đấng Linh Thiêng vô hình, nhưng luôn để lộ đôi tay chăm sóc, nuôi sống, dẫn dắt, mà bà con nhận biết dễ dàng khi đặt chân vào suối nước, khi phát rừng gieo hạt, khi vào rừng để ngày ngày hái lượm và giăng bẫy. Quả thật, Đấng Linh Thiêng vô hình nhưng luôn hiển hiện: chăm sóc, nuôi sống từ tổ tiên tới cha ông và con cháu cho tới mãi hôm nay.
Tuy nhiên, trên vùng đất của những con tim đơn nghèo, lại thấp thoáng đâu đó bóng dáng tà thần, làm nhạt nhòa khuôn mặt của Đấng Linh Thiên nhân lành trong lòng người. Biến vùng đất đẹp như mơ nảy sinh gai góc. Khi có người hỏi tôi tại sao không chỉ cho bà con biết tích trữ, tôi trả lời là tích trữ dễ kéo theo ích kỷ. Thế nhưng ghen tức thì từ đâu ra. Tà thần núp bóng muôn hình vạn trạng để đưa ra những con đường tắt, tạo ra những lối mòn: nguyên chuyện bị nhiễm ngải độc với mấy ông thầy ngải, thầy bùa cũng có thể làm cuộc sống rối tung…
Thiên Chúa trong dòng lịch sử muôn dân, và đặc biệt những người con bơ vơ lạc lõng, người không thể để mặc con người bị tà thần lung lạc
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con”
Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Người là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
Vào thời sau hết này, khắp nơi vẫn tràn ngập tiếng kêu cứu, đã hơn 2000 năm qua và cho mãi tới hôm nay, Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người để dẫn đưa mọi người thoát cảnh lầm lạc.
Mỗi người tín hữu chúng ta, là thành phần của Hội Thánh của Con Thiên Chúa làm người. Chúng ta phải làm gì trong tư cách những người môn đệ và là bạn đường của Đức Giêsu?
Từ việc ngắm nhìn Con Thiên Chúa làm người trong hình hài một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, cho đến những giây phút kề cận bên Con Thiên Chúa hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho nhân thế, lắng nghe từng nhịp đập của con tim Đấng bị đâm thâu đang giãi bày ơn tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Để cuối cùng –mỗi lần lên rước lễ- nhận lấy Đấng đã trở thành tấm bánh được bẻ ra và tiếp tục được bẻ ra trong chúng ta … mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta tiếp tục diễn ra trên vùng đất con người hôm nay.
Đa-minh Trần Văn Tân, S.J.