PHÁC THẢO CHÂN DUNG VỊ SỨ GIẢ TIN MỪNG (2)

A. VỊ SỨ GIẢ TIN MỪNG – BẠN LÀ AI ? – BẠN PHẢI TRỞ NÊN ?

 loan-bao-tin-mung

  1. Một con người mở rộng trái tim cho tình yêu Giêsu chạm tới

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 264)

[264]. Lý do đầu tiên thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã nhận được, kinh nghiệm được Người cứu độ là điều thúc đẩy chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Nhưng có loại tình yêu nào mà không làm cho chúng ta cảm thấy cần phải nói về người mình yêu, chỉ cho người khác thấy Người, làm cho Người được biết đến không? Nếu chúng ta không cảm thấy có ước muốn mãnh liệt để truyền thông tình yêu này, chúng ta cần phải tạm ngừng lại trong cầu nguyện để cầu xin Người trở lại làm cho chúng ta say đắm. Chúng ta cần phải cầu xin mỗi ngày, để ân sủng Người mở rộng con tim giá lạnh của chúng ta và cải tổ cuộc sống hờ hững và nông cạn của chúng ta. Hãy đặt mình trước mặt Người với một con tim rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra cái nhìn yêu thương này là cái nhìn mà Nathaniel đã khám phá ra ngày Chúa Giêsu nói với ông: “Tôi nhìn thấy anh khi anh ở dưới cây vả” (Ga 1:48). Êm dịu biết bao khi đứng trước một cây Thánh Giá, hoặc quỳ trước Thánh Thể, và chỉ đơn thuần là ở trước mắt Người! Tốt biết bao cho chúng ta khi Người trở lại chạm vào cuộc đời chúng ta và thúc đẩy chúng ta truyền thông sự sống mới của Người! Vì vậy, kết cuộc là, “những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe thì chúng tôi công bố” (1 Ga 1:3). Động lực tốt nhất cho quyết định truyền thông Tin Mừng là chiêm niệm nó với tình yêu, đọc chầm chậm những trang của nó và đọc bằng con tim của mình. Nếu chúng ta đến gần Tin Mừng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm cho chúng ta ngạc nhiên, và làm cho chúng ta say đắm mỗi lần chúng ta trở lại. Vì vậy, thật khẩn cấp để phục hồi tinh thần chiêm niệm, là điều cho phép chúng ta khám phá ra mỗi ngày rằng chúng ta là những người được ủy thác cho một gia sản, là điều nhân bản hóa chúng ta và giúp chúng ta sống một cuộc sống mới. Không có gì quý giá hơn để truyền lại cho những người khác.

  1. Một người được Chúa làm cho say mến đoàn Dân

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 268-270)

[268]. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta là một dân duy nhất: “Xưa kia anh em không phải là một dân, nhưng nay đã là Dân Thiên Chúa” (1 Phr 2:10). Để là những nhà truyền giáo đích thực chúng ta cũng cần phải phát triển một vị giác tinh thần để ở gần đời sống của con người, đến độ nó trở thành một nguồn vui cao thượng hơn. Việc truyền giáo là một sự say mê với Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là một sự say mê với dân Người. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta nhận ra tất cả tình yêu của Người, là điều nâng đỡ chúng ta và ban cho chúng ta phẩm giá, tuy nhiên, đồng thời, trừ khi chúng ta bị mù, chúng ta bắt đầu nhận thức rằng cái nhìn của Chúa Giêsu mở rộng và quay về phía toàn thể dân Người với đầy trìu mến và nhiệt tình. Vì vậy, chúng ta nhận ra rằng Người muốn dùng chúng ta để gần gũi hơn với dân yêu quý của Người. Người lấy chúng ta từ giữa dân Người và sai chúng ta đến với họ, vì thế chúng ta sẽ không thể hiểu được căn tính của mình nếu không thuộc về dân này.

[269]. Chính Chúa Giêsu là kiểu mẫu của sự lựa chọn cách rao giảng Tin Mừng này, là cách đưa chúng ta vào lòng dân chúng. Thật tốt cho chúng ta khi thấy Người gần gũi tất cả mọi người! Khi Người nói chuyện với ai, thì Người nhìn thẳng vào mắt người ấy với một sự ân cần yêu thương sâu thẳm, “Chúa Giêsu nhìn anh, và thương mến anh” (Mc 10:21). Chúng ta thấy Chúa dễ tiếp cận thế nào với người mù bên vệ đường (x. Mc 10:46-52), và khi Người ăn uống với những kẻ tội lỗi (x. Mc 2:16), Người chẳng bận tâm gì đến việc bị người khác coi là mê ăn uống và chè chén say sưa (x. Mt 11:19). Chúng ta thấy Người sẵn sàng để cho một cô gái điếm xức dầu đôi bàn chân của Người (x. Lc 7:36-50), hoặc tiếp ông Nicôđêmô vào ban đêm (Ga 3:1-15). Sự tự hiến của Chúa Giêsu trên thập giá không là gì khác hơn là tột đỉnh của cách thế này, là cách thế đã đánh dấu toàn thể cuộc đời của Người. Được thu hút bởi kiểu mẫu này, chúng ta muốn gia nhập cách trọn vẹn vào xã hội, chia sẻ cuộc sống của mình với tất cả mọi người, lắng nghe những quan tâm của họ, cộng tác với họ cả về vật chất lẫn tinh thần trong những nhu cầu của họ, vui với người vui, khóc với người khóc và dấn thân trong việc xây dựng một thế giới mới, tay trong tay với những người khác. Nhưng luôn luôn không coi đó như một điều bị bắt buộc, như một gánh nặng mà chúng ta phải gánh, nhưng như một sự lựa chọn cá nhân tràn ngập niềm vui và cho chúng ta một căn tính.

[270]. Đôi khi chúng ta cảm thấy bị cám dỗ là những Kitô hữu trong khi vẫn giữ một khoảng cách an toàn với những vết thương của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự đau khổ của con người, chạm vào da thịt đau khổ của những người khác. Người muốn chúng ta ngưng tìm kiếm những nơi trú ẩn cá nhân hay cộng đồng, là những nơi cho phép chúng ta giữ một khoảng cách với trung tâm của những thảm cảnh của con người, ngõ hầu chúng ta thực sự chấp nhận tiếp xúc với đời sống cụ thể của những người khác, và biết sức mạnh của sự dịu dàng. Khi chúng ta làm như thế, đời sống của chúng ta sẽ luôn luôn phức tạp một cách kỳ diệu và chúng ta sống kinh nghiệm mãnh liệt của một dân, kinh nghiệm thuộc về một dân.

  1. Biết mình bất xứng, cần hoán cải, nhưng xác tín vào sức mạnh của Thánh Thần. (Trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 5)

[5] … Để có thể Phúc Âm hóa thế giới, trước tiên Giáo Hội phải đặt mình lắng nghe Lời Chúa. Lời mời gọi Phúc Âm hóa được thể hiện thành một tiếng gọi hoán cải.

Chúng ta chân thành cảm thấy bổn phận hoán cải bản thân trước tiên theo sức mạnh của Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng canh tân mọi sự, nhất là cuộc sống nghèo nàn của chúng ta. Cách khiêm tốn, chúng ta phải nhìn nhận rằng những nghèo nàn và yếu hèn của các môn đệ của Chúa Giêsu, cách riêng của các thừa tác viên của Ngài, đè nặng trên tính khả tín của việc truyền giáo. Chắc chắn, chúng ta ý thức, trước tiên các giám mục chúng tôi, không bao giờ có thể xứng với lời kêu gọi của Chúa và với việc gìn giữ Tin Mừng mà Ngài giao phó cho chúng ta để loan báo Ngài  cho muôn dân. Chúng ta ý thức về bổn phận nhìn nhận cách khiêm tốn tính dễ tổn thương của chúng ta đối với những vết thương của lịch sử và chúng ta không do dự nhìn nhận tội lỗi của chúng ta.

Thế nhưng, chúng ta cũng xác tín rằng sức mạnh của Thánh Thần của Chúa có thể đổi mới Giáo Hội của Ngài và mặc cho Giáo Hội vẻ đẹp, nếu chúng ta để cho Ngài khuôn đúc chúng ta. Đời sống của  các thánh là bằng chứng cho điều đó. Chính vì thế việc nhớ đến đời sống các thánh và việc kể lại đời sống đó là một dụng cụ ưu tiên cho việc Tân Phúc Âm Hóa. Nếu sự canh tân này được giao phó cho sức mạnh của chúng ta, thì có những lý do nghiêm túc để nghi ngờ, nhưng việc hoán cải, cũng như việc Phúc Âm hóa, không có, trong Giáo Hội, những con người nghèo hèn là chính chúng ta như là những con người chủ chốt đầu tiên, nhưng đúng hơn chính Thánh Thần của Chúa. Chính ở đó hệ tại sức mạnh của chúng ta cũng như xác tín của chúng ta rằng sự dữ sẽ không bao giờ là tiếng nói cuối cùng, không ở trong Giáo Hội cũng như không ở trong lịch sử : « Tâm hồn các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi », Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài như thế (Ga 14, 27).

  1. Sống dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 75)

[75]… Không bao giờ có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có sự tác động của Chúa Thánh Thần. Thánh Thần đã xuống trên Chúa Giêsu Nazarét lúc Ngài chịu phép rửa. Tiếng Chúa Cha phán khi ấy “Con là Con yêu dấu, là Người Con Ta sủng ái” (Mt 3,17) biểu lộ sự tuyển chọn và sứ mệnh của Ngài. Chính nhờ Thánh Thần hướng dẫn Ngài đã trải qua trong sa mạc cuộc chiến đấu quyết liệt và một cuộc thử thách cam go trước khi mở đầu sứ mệnh (Mt 4,1) mà Ngài đã trở về Galilê, bắt đầu rao giảng, và áp dụng đoạn sách Tiên tri Isaia cho chính mình : “Thánh Thần Chúa ngự trên Tôi”. Ngài tuyên bố : “Hôm nay lời Kinh Thánh này đã được ứng nghiệm” (Lc 4,18 – 21). Đối với các môn đệ sắp được sai đi, Ngài nói và thở hơi trên họ : “ Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần ” (Ga 20, 22).

Thật ra, chỉ sau khi Thánh Thần đến vào ngày lễ Hiện xuống, các tông đồ mới đi khắp chân trời thế giới để khởi sự công cuộc truyền giảng Tin Mưng của Giáo Hội. Thánh Phêrô đã giải thích biến cố này như một sự thực hiện của lời Tiện tri Joel : “ Ta sẽ đổ tràn đầy Thánh Thần Ta” (Cvtđ 2,17). Thánh Phêrô đã được tràn đầy Chúa Thánh Thần để nói về Đức Giêsu KiTô, con Thiên Chúa cho dân chúng (Cvtđ 4,8). Thánh Phaolô cũng tràn đầy Thánh Thần (Cvtđ 9,17), trước khi dấn thân vào sứ mạng tông đồ, thánh Stêphanô cũng vậy khi ngài được chọn làm phó tế sau đó đổ máu làm chứng (Cvtđ 6,5). Thánh Thần khiến Phêrô, Phaolô và nhóm mười hai nói, đặt vào miệng họ những lời phải công bố, Thánh Thần cũng xuống “trên những người nghe Lời Chúa” (Cvtđ 10, 44).

Chính nhờ sự trợ lực của Thánh Thần mà Giáo Hoi lớn mạnh. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, chính Ngài giải thích cho các tín hữu biết ý nghĩa sâu xa của lời giảng dạy và mầu nhiệm con người của Đức Kitô. Ngày nay cũng như buổi đầu của Giáo Hoi, Chúa Thánh Thần họat động trong mỗi nhà truyền giảng Tin Mừng, nếu họ để Ngài chiếm hữu và hướng dẫn, Ngài đặt nơi môi miệng họ những lời mà một mình họ không thể tìm ra, đồng thời sửa soạn tâm hồn của những người nghe để họ mở rộng đón nhận Tin Mừng và nước trời đang được loan báo.

Những kỹ thuật truyền giảng Tin Mừng đều tốt nhưng dù hoàn bị nhất cũng không thể thay thế hoạt động âm thầm của Chúa Thánh Thần. Không có Thánh Thần, công khó chuẩn bị kỹ lưỡng nhất của nhà rao giảng cũng không mang lại được gì. Không có Ngài các biện luận vững chắc nhất cũng bất lực đối với trí óc con người. Không có Ngài, những lược đồ xã hội và tâm lý soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng mau mất hết gía trị…

Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1974 đã nhấn mạnh rất nhiều vào vị thế của Chúa Thánh Thần trong việc Phúc Am hóa. Thượng Hội Đồng bày tỏ ước nguyện là các mục tử và các thần học gia, và Ta cũng có thể nói thêm là cả các tín hữu nhờ phép rửa tội mang ấn tín của Chúa Thánh Thần, hãy nghiên cứu nhiều hơn về bản chất và cách hoạt động của Thánh Thần trong việc Phúc âm hóa ngày nay. Đó là ước nguyện của Ta khi Ta khuyến khích bất kỳ nhà rao giảng Tin Mừng nào cũng đều phải không ngừng kêu cầu Thánh Thần cách tin tưởng, nhiệt tâm và khôn ngoan để Ngài dẫn dắt và giữ địa vị then chốt khi đề ra mọi chương trình, mọi sáng kiến và hoạt động rao giảng Tin Mừng của họ.

  1. Xác tín về sự cao quý của Mầu Nhiệm đời Chúa và sứ điệp Tin Mừng

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 265)

[265]. Toàn thể đời sống của Chúa Giêsu, cách Người đối xử với những người nghèo, những cử chỉ của Người, sự kiên định của Người, lòng quảng đại của Người, sự đơn giản hằng ngày của Người, và cuối cùng là sự tự hiến hoàn toàn của Người, tất cả đều quý giá và nói với cuộc sống cá nhân của chúng ta. Mỗi lần chúng ta trở lại để tìm hiểu, chúng ta lại được thuyết phục rằng đây chính là những gì người khác cần, ngay cả khi chúng ta không nhận ra điều ấy: “Đấng mà anh em không biết nhưng vẫn tôn thờ, là Đấng mà tôi rao giảng cho anh em” (Cv 17:23). Đôi khi chúng ta mất lòng nhiệt thành đối với sứ vụ truyền giáo, mà quên rằng Tin Mừng đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của con người, bởi vì tất cả chúng ta đã được tạo ra cho những gì Tin Mừng cung cấp cho chúng ta : tình bằng hữu với Chúa Giêsu và tình yêu huynh đệ với anh chị em. Khi chúng ta thành công trong việc diễn tả đầy đủ và cách thẩm mỹ nội dung cơ bản của Tin Mừng, sứ điệp ấy chắc chắn sẽ đáp ứng những thắc mắc sâu xa nhất của con tim: “Nhà truyền giáo tin chắc rằng nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, đã có sẵn trong những cá nhân và các dân tộc một ước vọng, ngay cả khi người ta không ý thức, để biết sự thật về Thiên Chúa, con người, con đường dẫn đến việc giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Lòng nhiệt thành trong việc loan báo Đức Kitô xuất phát từ xác tín có thể đáp ứng được ước vọng này”. Lòng nhiệt thành truyền giáo dựa trên xác tín này. Chúng ta có một kho báu sự sống và tình yêu không thể lừa dối, sứ điệp không thể bị thao tác hoặc lừa dối. Đó là một câu trả lời chìm vào tận đáy lòng con người, có thể nâng đỡ nó và nâng nó lên. Đó là chân lý không bao giờ lỗi thời bởi vì nó có thể thâm nhập vào những nơi không một điều gì khác có thể đến được. Nỗi buồn vô hạn của chúng ta chỉ có thể được chữa lành bằng một tình yêu vô hạn.

  1. Nỗ lực liên lĩ sống kinh nghiệm có Chúa ở cùng

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 266)

[266]. Tuy nhiên niềm xác tín này được nâng đỡ bằng kinh nghiệm cá nhân, không ngừng đổi mới, để tận hưởng tình bằng hữu của Người và sứ điệp của Người. Chúng ta không thể kiên trì trong một việc truyền giáo đầy nhiệt tình nếu chúng ta không còn được thuyết phục nữa bằng kinh nghiệm riêng của mình rằng gặp gỡ Chúa Giêsu hoàn toàn khác với việc không biết Người, bước đi với Người hoàn toàn khác với mò mẫm, có thể lắng nghe Người hoàn toàn khác với việc coi thường Lời Người, có thể chiêm niệm, thờ phượng, nghỉ ngơi trong Người hoàn toàn khác với việc không làm những điều ấy. Cố gắng xây dựng thế giới với Tin Mừng của Người không giống như làm việc ấy chỉ với những lý do riêng của mình. Chúng ta biết rằng cuộc sống với Chúa Giêsu trở nên đầy đủ hơn nhiều và với Người chúng ta dễ dàng tìm thấy ý nghĩa của tất cả mọi sự hơn. Đó là lý do tại sao chúng ta rao giảng Tin Mừng. Một nhà truyền giáo thực sự, là người không bao giờ ngừng là một môn đệ, biết rằng Chúa Giêsu đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Cảm thấy Chúa Giêsu đang sống cùng mình ở giữa sứ vụ truyền giáo. Nếu chúng ta không tìm thấy điều này ở trung tâm của các hoạt động truyền giáo, thì chúng ta sẽ sớm mất nhiệt tình và không còn chắc chắn về điều mình thông truyền, chúng ta sẽ thiếu nghị lực và lòng say mê. Và khi một người không được thuyết phục, không có nhiệt tình, không đáng tin cậy, không được yêu, thì người ấy sẽ chẳng thuyết phục được ai.

  1. Vì vinh quang Chúa Cha

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 267)

[267]. Kết hợp với Chúa Giêsu, chúng ta tìm những gì Người tìm, chúng ta yêu những gì Người yêu. Cuối cùng, điều chúng ta tìm kiếm là vinh quang của Chúa Cha, chúng ta sống và hành động “để ngợi khen vinh quang của ân sủng Người” (Eph 1:6). Nếu chúng ta hiến thân cách trọn vẹn và kiên định, chúng ta phải vượt trên bất cứ động lực nào khác. Đây là động lực cuối cùng, sâu sắc nhất, lớn nhất, là lý do và ý nghĩa tối hậu của mọi động lực khác. Đó chính là vinh quang Chúa Cha, mà Chúa Giêsu đã tìm suốt cuộc đời của Người. Người là Con luôn luôn vui lòng với tất cả con người của mình “ở trong cung lòng Chúa Cha” (Ga 1:18). Nếu chúng ta là những nhà truyền giáo, thì trên hết chính vì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Bằng cách này mà Chúa Cha được tôn vinh, là các con sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:8). Vượt trên sự kiện là chúng ta đồng ý hay không, thích hay không, cần hay không, vượt trên những giới hạn bé nhỏ của những ham muốn của chúng ta, sự hiểu biết và động cơ thúc đẩy chúng ta, chúng ta rao giảng Tin Mừng vì vinh quang cao cả của Chúa Cha là Đấng yêu thương chúng ta.

  1. Những người chứng chân thực

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 76)

[76]… Thời nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng thế kỷ này thèm khát sự chân thực. Nhất là đối với giới trẻ, người ta nói rằng họ ghê tởm sự giả trá, ngụy tạo và trên hết mọi sự họ tìm kiếm sự thật, sự trong suốt.

Những “thời điểm này” phải làm cho chúng ta tỉnh thức. Người ta vẫn luôn luôn đặt câu hỏi cách âm thầm hay lớn tiếng : “Anh có thực sự tin điều anh loan truyền không ? Anh có sống đều anh tin không? Anh có thực sự rao giảng điều anh sống không ? Hơn bao giờ hết, cái chứng tích đời sống đã trở nên một điều kiện thiết yếu cho hiệu quả thâm sâu của việc rao giảng. Chính vì thế, chúng ta đây, trong một mức độ nào đó, đều có trách nhiệm về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta loan truyền.

Ngay ở đầu bài suy niệm này, Ta đã tự hỏi : “Mười năm sau khi công đồng kết thúc, Giáo Hội hiện như thế nào ? Giáo Hội có cắm neo giữa lòng thế giới chưa? Giáo Hội có khá tự do và độc lập để ngỏ lời với thế giới không ? Giáo Hội có làm chứng cho sự liên đới giữa người với người và đồng thời làm chứng cho Thiên Chúa Tuyệt Đối không ? Giáo Hội có hăng say hơn trong việc chiêm niệm và thờ lạy, có nhiệt thành hơn trong việc truyền giáo, bác ái và giải phóng không ? Giáo Hội có càng ngày càng dấn thân vào các nỗ lực nhằm tái lập sự hợp nhất hoàn toàn giữa các Kitô hữu không, vì chính sự hiệp nhất này sẽ là một chứng tá hiêu nghiệm “ để thế giới tin” (Ga 17, 21). Tất cả chúng ta có trách nhiệm trả lời những câu hỏi này.

Vậy Ta nhắn nhủ các chư huynh trong hàng Giám Mục là những người đã được Thánh Thần cắt đặt để điều khiển Giáo Hội (Cvtđ 20,28). Ta nhắn nhủ các Linh Mục và các Phó tế, những cộng tác viên của Giám Mục trong việc tụ tập dân Chúa và cổ võ đời sống thiêng liêng của các cộng đoàn địa phương. Ta nhắn nhủ tu sĩ, những chứng nhân của một Giáo Hội được mời gọi nên thánh và là những người tận hiến làm chứng cho các mối phúc thật. Ta nhắn nhủ các gíao dân : các gia đình công giáo, những người trẻ và những người trưởng thành, tất cả những người đang làm việc trong bất cứ ngành nghề nào, những người lãnh đạo, cả những người nghèo khổ nhưng thường giàu lòng tin cậy, tất cả mọi giáo dân đang ý thức về vai trò rao giảng Tin Mừng để phục vụ Giáo Hội hoặc giữa lòng xã hội và thế giới. Ta nhắn nhủ với tất cả mọi người : lòng nhiệt thành truyền giáo của chúng ta phải được xuất phát từ sự thánh thiện thật sự của một cuôc sống được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, và nhất là bằng lòng yêu mến đối với phép Thánh Thể. Hơn nữa, như Công Đồng đã nêu rõ việc rao giảng cũng phải làm cho người rao giảng lớn lên trong đường thánh thiện.

Thế giới mặc dầu đã tỏ ra muôn ngàn dấu hiệu khước từ Thiên Chúa, nhưng thực ra lại đang đi tìm Người bằng những đường lối bất ngờ và đang thiết tha cảm thấy cần có Ngươi. Thế giới kêu nài những người rao giảng Tin Mừng hãy nói về một Thiên Chúa mà họ đã biết và tiếp xúc như thể thấy Đấng Vô hình (x. Dt 11, 21). Thế giới kêu nài và mong thấy nơi nơi chúng ta một đời sống đơn sơ, tinh thần cầu nguyện, tình bác ái đối với mọi người, nhất là đối với trẻ em và người nghèo. Thế giới mong thấy nơi chúng ta sự vâng phục và khiêm tốn, sự siêu thoát và từ bỏ chính mình và mọi sự. Nếu không có dấu hiệu về sự thánh thiện này thì những lời của chúng ta khó mà đi vào lòng con người thời đại hôm nay. Nó có nguy cơ trở thành uổng công và vô hiệu.

  1. Những người xây dựng hiệp nhất

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 77)

[77] Sức mạnh của việc rao giảng Tin Mừng sẽ giảm sút nhiều nếu những người loan truyền chia rẻ nhau bằng mọi rạn nứt. Phải chăng đó không phải là một khó khăn lớn cho việc phúc âm hóa ngày nay ? Thật vậy, nếu Tin Mừng chúng ta rao giảng bị xâu xé bới những tranh biện về giáo thuyết, những phân rẽ vế ý thức hệ hay những kết án lẫn nhau giữa các Kitô hữu vì những cái nhìn khác nhau về Đức Kitô, về Giáo Hội, và ngay cả vì những quan niệm khác nhau về xã hội và các thể chế nhân loại, nếu có sự xâu xé như thế, thì làm sao những người nghe chúng ta rao giảng không cảm thấy bối rối, lạc hướng, nếu không muốn nói là bực tức ?.

Lời di chúc thiêng liêng của Chúa cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ Ngài không những chỉ là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô.

Là những người rao giảng Tin Mừng, chúng ta phải đưa ra cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh của những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh của những con người trưởng thành trong Đức tin, có khả năng gặp nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi. Đúng thế, số phận của việc rao giảng Tin Mừng liên kết chặt chẽ với chứng tá hiệp nhất của Giáo Hội. Đó vừa là nguồn trách nhiệm và cũng là nguồn an ủi.

Về điểm này, Ta muốn nhấn mạnh rằng, dấu chỉ hiệp nhất giữa các Kitô hữu là đường lối và khí cụ của việc Phúc Âm hóa. Việc chia rẽ giữa các Kitô hữu là một tình trạng nghiêm trọng làm hoen ố công cuộc của Chúa Kitô. Công đồng Vatican II đã xác quyết cách minh bạch và mạnh mẽ rằng : “Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu gây tai hại cho công việc rất thánh thiện là rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, và còn khép kín con đường đưa tới đức tin đối với nhiều người” (A.G. số 6). Đó lá lý do tại sao, khi công bố năm thánh, Ta cần phải nhắc nhở cho mọi tín hữu công giáo trên thế giới rằng : “Muốn cho mọi người hòa giải với Thiên Chúa, Cha của chúng ta, thì tiên vàn, phải tái lập sự hiệp thông giữa những người có đức tin, đã nhận biết và đón nhận Đức Kitô như là Chúa của lòng thương xót, và là Đấng giải phóng mọi người và nối ết họ trong Thánh Thần Tình Yêu và Chân Lý”.

Do đó, Ta tràn đầy hy vọng khi nhìn ngắm những cố gắng đang diễn ra trong thế giới Kitô giáo nhằm tái lập sự hiệp nhất toàn vẹn như Đức Kitô mong muốn. Thánh Phaolô đã đảm bảo cho chúng ta : “hy vọng không làm ta tủi hổ” (Rm 5,5). Ta không ngừng nỗ lực để được Chúa ban sự hiệp nhất toàn vẹn, do đó Ta muốn mọi người gia tăng cầu nguyện. Ngoài ra, như Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ III đã mong muốn, Ta cũng mong muốn rằng cần phải cương quyết cộng tác hơn với các anh em Kitô hữu mà chúng ta chưa hiệp nhất cách đầy đủ, để dựa trên bí tích rửa tội và di sản đức tin chung, ngay từ bây giờ mọi người đều hợp tác trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cùng nhau làm chứng cho Đức Kitô trong thế giới một cách rộng rãi hơn. Chúng ta được thúc đẩy để là như thế là do mệnh lệnh của Đức Kitô. Đó là một đòi hỏi của việc rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

  1. Những người phục vụ của chân lý

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 78)

[78] …Tin Mừng mà chúng ta có trọng trách rao giảng cũng là lời chân lý. Chân lý đem lại tự do (Ga 8,32) và chỉ nó mới ban sự bình an tâm hồn, đó chính là những điều người ta tìm kiếm khi đến nghe chúng ta rao giảng Tin Mừng. Chân lý về Thiên Chúa, chân lý về con người và số phận huyền nhiệm của con người, chân lý về thế gian. Đó là chân lý khó khăn mà chúng ta tìm được trong Lời Chúa và chúng ta không phải là chủ, là người sở hữu nhưng chỉ là người quản lý, người phát ngôn và đầy tớ phục vụ chân lý đó.

Người ta mong đợi nhà rao giảng Tin Mừng phải tôn trọng chân lý, nhất là cái chân lý mà họ đào sâu và truyền đạt không gì khác hơn là chân lý mạc khải, và vì thế, hơn bất cứ chân lý nào khác, nó chỉ là một phần của chân lý nguyên thủy là chính Thiên Chúa. Vậy người rao giảng Tin Mừng phải là người dám hy sinh đến độ quên mình và đau khổ không ngừng để không ngừng tìm kiếm chân lý mà họ phải truyền đạt cho người khác. Người đó không bao giờ được phản bội hay che đậy chân lý vì muốn làm vui lòng người nghe, vì muốn gây ngạc nhiên, vì muốn tạo nên giựt gân, hay vì muốn lập dị háo danh. Người đó không được chối bỏ chân lý, không làm lu mờ chân lý mạc khải vì nhác tìm kiếm, vì ngại phiền phức hay vì sợ hãi. Người đó không được phép khinh thường việc nghiên cứu. Người đó phải phục vụ chân lý cách quảng đại mà không kiềm chế chân lý.

Hỡi những mục tử của Dân trung tín, vì mục vụ của chúng ta thôi thúc chúng ta phải gìn giữ, bảo vệ, truyền đạt chân lý mà không ngại hy sinh. Biết bao vị chủ chăn ưu tú và thánh thiện đã để lại cho chúng ta tấm gương của lòng yêu mến chân lý này, nhiều khi tới mức anh hùng. Thiên Chúa của Chân lý mong thấy nơi chúng ta những con người luôn tỉnh thức để bảo vệ chân lý và là những nhà rao giảng tận tình.

Hỡi các tiến sĩ, dù các con là những nhà thần học, chú giải, hay sử gia, việc Phúc Âm hóa cần đến công lao tìm kiếm không biết mệt mỏi của các con cũng như sự lưu tâm và tế nhị của các con trong việc truyền đạt chân lý mà các nghiên cứu đã đưa các con đến gần. Nhưng chân lý đó luôn cao trọng hơn qủa tim con người, vì đó là chân lý của Thiên Chúa.

Hỡi các bậc làm cha mẹ và thầy giáo, các con có nhiệm vụ giúp đỡ con cái và học sinh trong việc khám phá chân lý, kể cả chân lý tôn giáo và thiêng liêng. Đó là một nhiệm vụ khó khăn vì ngày nay thường có nhiều cuộc tranh chấp.

  1. Trở thành dấu chỉ của tình yêu

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 79)

[79] … Công việc Phúc Âm hóa đòi hỏi người rao giảng phải có một tình huynh đệ luôn lớn mạnh đối với những người mình truyền giảng. Mẫu gương của người truyền giảng Tin Mừng là Thánh Phaolô tông đồ đã viết cho tín hữu Thesalonica lời sau đây mà tất cả chúng ta có thể lấy làm chương trình hành động : “Chúng tôi thật gắn bó với anh em đến nỗi không chỉ muốn chia sẻ Tin Mừng của Thiên Chúa với anh em mà còn thí cả mạng sống chúng tôi nữa, bởi chưng anh em trở nên những người thân mến của chúng tôi” (1Tx 2,8). Tình yêu này là gì ? Hơn cả tình cảm của môt nhà giáo, đó là tình yêu của một người cha và hơn thế nữa đó là tình yêu của một người mẹ. Chính Đức Kitô mong đợi nơi mỗi nhà rao giảng Tin Mừng, nơi mỗi người thợ xây dựng Giáo Hội thứ tình yêu này. Một dấu chỉ của tình yêu này chính là biết lo lắng ban phát chân lý và dẫn tới hiệp nhất. Một dấu chỉ khác đó là tận hiến hoàn toàn cho việc loan báo Đức Kitô. Ta xin đề cập thêm vài dấu chỉ khác của tình yêu này.

Trước hết là tôn trọng tình trạng tôn giáo và tinh thần của những người mà ta rao giảng. Tôn trọng tiết điệu của họ mà ta không có quyền cưỡng ép. Tôn trọng lương tâm và xác tín của họ để không cưỡng bách họ.

Một dấu chỉ khác của tình yêu này là biết lo lắng không làm tổn thương người khác, nhất là những người còn yếu đức tin (x, 1Cr 8,9-13 ; Rm 14,15) bằng những lời nói tuy có thể rõ ràng đối với những người thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì đó có thể là nguồn bối rối và vấp phạm như một vết thương lòng.

Một dấu chỉ của tình yêu này là biết nỗ lực truyền đạt cho những Kitô hữu không phải những ngờ vực, những hồ nghi phát sinh từ những nghiên cứu uyên thâm chưa được hấp thụ, nhưng là những điều chắc chắn vững vàng vì ăn sâu trong Lời Chúa. Các tín hữu cần những điều vững chắc này cho đời sống Kitô giáo của họ. Họ có quyền đòi được thỏa mạn nhu cầu, bởi vì với tư cách là con cái Chúa họ hoàn toàn phó thác cho những đòi hỏi của tình yêu, trong tay Chúa.

Kiểm tra tương tự

Câu hỏi về ơn gọi dâng hiến_Kỳ 1: Vấn đề cũ và mới

Trong khi số lượng ơn gọi giảm dần ở Châu Âu cũng như ở Châu …

Đời tu qua đôi mắt người tu sĩ

Thật thú vị khi trong lòng Giáo hội có hàng trăm dòng tu khác nhau, …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *