Kể từ khi Dòng Tên được thành lập, phần lớn 15 năm cuối đời Thánh Inhã ở Roma, để quản trị Dòng non trẻ mới được thành lập. Trong khi đó, Phanxicô Xaviê lại trải suốt 12 năm rong ruổi khắp các miền Á Đông. Có thể nói, chính Phanxicô đã hiện thực hóa cách sống động nhất khát vọng truyền giáo mãnh liệt của Thánh Inhã. Ngài là người đầu tiên được Thánh Inhã sai đi ra ngoài Châu Âu, và cũng là người “bạn đường đầu tiên” đặt chân đến những vùng đất xa xôi nhất bên kia địa cầu. Mối quan tâm lớn nhất của Phanxicô luôn là phần rỗi các linh hồn. Đứng trước mọi vấn đề, ngài đều tiếp cận với cái nhìn tông đồ. Ngài là một người tông đồ nhiệt thành, một thừa sai mang nặng thao thức của Đức Kitô, tha thiết với sứ mạng và với phần rỗi của tha nhân.
Ite Inflammate Omnia
Ngày 14/03/1540, Phanxicô từ giã Thánh Inhã để lên đường đi Ấn Độ. Hôm ấy là lần cuối cùng Thánh Inhã còn được thấy khuôn mặt Phanxicô. Thực ra, Phanxicô không phải lựa chọn đầu tiên cho sứ vụ tiên khởi ngoài Châu Âu. Người được chỉ định ban đầu là Bobadilla, nhưng vì bệnh nặng không thể đi được ngay lúc tàu sắp khởi hành, nên Phanxicô được gọi thay thế. Và câu trả lời của ngài thật đơn sơ mà đầy xác tín: “Vâng, này con đây. Con sẵn sàng.” Quả là một câu trả lời nhanh chóng và đầy niềm vui, cứ như là ngài đã đợi sứ mạng này từ lâu lắm rồi. Theo truyền thống kể lại, khi sai Phanxicô đi phương Đông, Thánh Inhã đã nói: “Anh hãy đi, và làm cho thế giới bùng cháy lên” (Ite Inflammate Omnia).
Ngày 07/04/1541, cũng là sinh nhật thứ 35, Phanxicô xuống tàu rời Lisboa. Một năm sau, tháng 05/1542, ngài đặt chân đến Goa. Vài tháng sau, ngài đi tiếp đến Bờ Biển Parava, nơi những những người Ấn thuộc giai cấp cùng đinh sinh sống. Họ có 30 làng với tổng số khoảng 30 ngàn người, chuyên nghề lặn mò ngọc trai. Suốt một năm tại đây, giữa thời tiết khắc nghiệt và cảnh đói kém, Phanxicô chia sẻ hòa đồng với họ và phục vụ tận tình. Đi hết làng này qua làng khác, ngài thăm viếng bệnh nhân, rửa tội, dạy giáo lý, tổ chức việc đọc kinh dự lễ cho từng làng. Trong thư ngài kể: “Tôi thường xuyên mỏi tay vì rửa tội… Có ngày tôi rửa tội nguyên một làng. Thế mà trên bờ biển này có tới 30 làng” (Bút tích 20,8). Riêng tháng 11/1544, ngài rửa tội cho khoảng 10 ngàn tân tòng…
Hình ảnh ấy cho thấy ngài là mẫu thừa sai thấm đẫm tinh thần của bài thao luyện Tiếng Gọi của Vua Hằng Sống (Linh Thao 91-98). Đáp lại Tiếng Gọi ấy, Phanxicô hối hả lên đường, khát khao thu phục một thế giới cho Chúa Kitô, một thế giới mà giờ đây người ta mới bắt đầu ý thức được các chiều kích của nó, bất chấp nguy hiểm bày sẵn phía trước. Lòng nhiệt thành của ngài khiến nhiều người xem ngài như một “người quá khích,” một “người điên dại” vì Tin Mừng. Trong một lá thư đầy lửa mến và căng đầy nhiệt huyết, ngài viết những dòng chất chứa thao thức cháy bỏng và khơi lên cảm hứng truyền giáo cho không biết bao nhiêu tu sĩ Dòng Tên cả xưa lẫn nay:
“Vì thiếu người lo những việc đạo đức và thánh thiện như vậy, nên nhiều người ngoại đáng lẽ có thể theo đạo mà không theo được. Rất nhiều khi tôi có ý định về bên nhà, đến các nơi người ta học hành, để gào thét như một người mất trí, đặc biệt là ở đại học Paris. Tôi muốn đến học viện Sorbonne nói với những người hiểu biết nhiều nhưng ít muốn làm cho kiến thức của mình sinh hoa kết quả: “Biết bao linh hồn không được hưởng phúc vinh quang, nhưng phải sa địa ngục, vì quí vị lơ là.” (Bút tích 20,8).
Người tông đồ năng động, người mở đường cho anh em
Phanxicô là một tông đồ di động, miệt mài dấn bước nhưng không hề phải là người có máu du lịch, ưa phiêu lưu mạo hiểm. Trước khi gặp Thánh Inhã, ngài từng ước mơ làm giáo sư, bác sĩ hay giám mục… để được hưởng vinh hoa phú quý. Ngài không hề có ý định theo chân Christopher Colombo sang Châu Mỹ hay cùng Vasco da Gama sang Châu Á như cha Cosma de Torres chẳng hạn. Hơn nữa, là dân miền đồi núi, ngài xa lạ với biển. Một trong những điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với ngài là những nguy hiểm trên biển. Dẫu vậy, trong vòng 12 năm truyền giáo, ngài đã vượt gần 100,000 km đường biển. Theo tính toán của cha X. Léon-Dufour, S.J., ngài đã ở trên thuyền 3 năm 7 tháng, tức là cứ 3 ngày thì có 1 ngày ở giữa biển, và mỗi ngày di chuyển trung bình 60km. Giữa bao nhiêu khó khăn của sứ mạng, có khi ngài bị say sóng liên tục trong suốt 2 tháng, nhiều lần bị kiệt sức, và cả những gian lao khi tiến vào các vùng ngoại biên; điều làm ngài “rất vui mừng” không phải là rời bỏ sứ mạng và được trở về Âu châu, nhưng là được nhận một “lá thư rất dài” từ Dòng tại Châu Âu, về “tất cả chúng ta, các cha đã từ Paris tới, cũng như tất cả những người khác, về Dòng phát triển thế nào, các học viện và các nhà… Thư ấy sẽ giúp con thư giãn giữa bao nhọc nhằn, trên mặt biển cũng như trên đất liền, ở Trung Hoa và ở Nhật Bản.” (Bút tích 110,12).
Phanxicô không bao giờ liều lĩnh đi vào các miền đất mới chỉ vì háo hức khám phá. Ngài suy xét cẩn thận các thông tin có được. Dựa trên “vô số những thông tin tôi có được, về đất nước Nhật Bản,” ngài xác tín rằng Chúa muốn ngài rời bỏ Ấn Độ để đi mở đường tới Nhật Bản. Ngài viết: “Chúa Chí Tôn đã vui lòng làm cho tôi cảm nhận được trong tâm hồn mình rằng tôi đi Nhật Bản là phụng sự Người.” (Bút tích 70; 83,1). Dù biết thực tế rằng “cứ bốn chiếc thuyền, thì có đến hai chiếc khởi hành mà không bao giờ đến được nơi đó”, ngài vẫn quả quyết:
“Tôi không ngại đi Nhật Bản, vì tôi cảm nhận trong tâm hồn mình cái gì đó dào dạt, mặc dầu tôi hầu như chắc chắn sẽ gặp nhiều nguy hiểm lớn lao hơn những gì tôi từng gặp xưa nay” (Bút tích 70,10).
Phanxicô tự xem mình như người mở đường cho anh em, cho Dòng Tên cũng như các thừa sai khác. Và một khi mở ra được một con đường, ngài vui mừng, rồi lại đi mở con đường khác, để anh em sau có thể bước tiếp. Một cha Dòng Tên cũng ở Ấn Độ với ngài nói: ngài không ở đâu yên được quá 2 tuần lễ! Một cha khác nói: ngài không ngồi yên được bao giờ! Dù khoảng cách địa lý có thể là rất xa, nhưng với ngài – một người lữ khách luôn trên đường – một mệnh lệnh đơn giản từ Bề trên cũng đủ khiến ngài bắt đầu một hành trình mới.
Nhà thừa sai thao thức và khao khát cho lợi ích lớn hơn
Phanxicô khao khát vào Trung Hoa, không phải để chinh phục một đất nước rộng lớn nhất Viễn Đông, nhưng để mở rộng không gian cho vinh quang Thiên Chúa. Trong lá thư cuối cùng viết cho cha Inhã tại Goa, sau khi trở lại từ Nhật Bản và đang chuẩn bị để đi Trung Hoa (09/04/1552), ngài bày tỏ sự hứng khởi:
“Trong Thiên Chúa, chúng con đầy lòng tin tưởng là Danh Người sắp được rạng ngời ở Trung Hoa.”
Và ngài kết thư với cả xác tín lẫn hy vọng: “Mọi người đều nói với con là từ Trung Hoa có thể đi Giêrusalem được. Nếu thật như vậy, con sẽ viết thư cho cha và sẽ cho cha biết đường dài bao nhiêu dặm, phải mất bao nhiêu thời gian.” (Bút tích 110,12). Ngài quyết định rời bỏ Ấn Độ để tiến vào Trung Hoa vì đây là “một đất nước rộng mênh mông, dân chúng rất thông minh và có nhiều nhà thông thái… họ rất ham hiểu biết và ai có học thức nhất được coi là người được tôn kính và quý trọng nhất”, và ngài hy vọng nếu đất nước Trung Hoa theo đạo thì cả Châu Á cũng theo đạo (Bút tích 110,2). Dù biết hành trình đi Trung Hoa nguy hiểm không kém chuyến đi Nhật Bản, Phanxicô vẫn sẵn sàng lên đường. Ngài chọn đi giữa “những giao lộ gay go nghiêm trọng” của cuộc đời, bởi tin rằng ở phía bên kia giao lộ là chính Chúa đang đợi ngài. Đối với Phanxicô, thế giới là nhà của chúng ta, như cha Jerinimo Nadal nói.
Kế hoạch theo chân vị Phó Vương Ấn Độ đến gặp Hoàng đế Trung Hoa không thành, nhưng “ngọn lửa” trong Phanxicô không hề tắt. Ngài nảy ra ý định vào “chui” thông qua một cảng chợ trời ở Thượng Xuyên. Nhưng thêm một lần nữa, người chủ và tàu không đến và ngài bị bỏ rơi trên một hòn đảo nhỏ. Giữa những lao nhọc thể xác quá mức, thời tiết khắc nghiệt và lại thêm buồn phiền, ngài bị sốt nặng và tắt thở sáng sớm ngày 03/12/1552. Bên ngài trong những giờ phút cuối ấy, chỉ có một thanh niên tân tòng người Trung Hoa. Ngài bước đi với Chúa Kitô vác thập giá đến tận hơi thở cuối cùng trên Núi Sọ, chia sẻ những giờ phút cuối cùng trong sự cô độc, không người thân, không anh em bên cạnh, nhưng trọn vẹn dâng hiến. Ngài mất khi chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là tới được Trung Hoa, miền đất mà ngài vẫn trông ngóng đến phút cuối. Kế hoạch lớn lao và không thể tưởng tượng nổi này sẽ được các Giêsu hữu khác thực hiện từng phần: cha Matteo Ricci, thầy Bento và biết bao thế hệ thừa sai đã nối tiếp bước chân ngài. Nhưng chính ngọn lửa và gương sáng của Phanxicô mới là động lực mạnh mẽ nhất khiến biết bao người trẻ lên đường loan báo Tin Mừng.
Người Kitô hữu hôm nay, hoàn cảnh đa dạng, nhưng với một con tim lắng nghe, thì khắp nơi tràn ngập tiếng gọi. Trong những tương giao hằng ngày, những bổn phận nhỏ bé, hay những sứ mạng lớn lao, Thiên Chúa vẫn đang nóng lòng ôm trọn thế giới. Và người môn đệ cũng được mời gọi mang trong mình cùng một sự thao thức. Phanxicô Xaviê đã không để lãng phí một giây phút nào của đời mình: luôn hối hả trên đường loan báo Tin Mừng, luôn lắng nghe và nóng bỏng trước phận người chưa nhận biết Đức Kitô. Còn chúng ta hôm nay, liệu có đang tận dụng mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh… để khỏi phải hối tiếc vì đã bỏ phí những cơ hội Chúa trao?
Văn Quynh, S.J.
Bản dịch các thư từ của Thánh Phanxicô Xaviê được trích từ Bút Tích Thánh Phanxicô Xaviê, Tập I-II, Hoàng Sóc Sơn, S.J., dịch, chú thích và giới thiệu (Antôn & Đuốc Sáng, 2007).

