HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LỜI CHÚA NĂM A LỜI CHÚA NĂM B LỜI CHÚA NĂM C ĐÁP TRẢ
TIẾNG GỌI TÌNH YÊU Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. Chúa Nhật Lễ Lá năm A Is. 50, 4-7; Pl. 2, 6-11;
Mt. 26, 14- 27, 66 (Mt. 21, 1-11) Biến cố vào thành Yêrusalem long trọng là khởi đầu
một thời gian đặc biệt đối với Đức Yêsu. Ngài cương quyết làm điều phải làm, đi
đến cùng đòi hỏi của tình yêu, hiến mạng sống như dấu chỉ tình yêu cho Thiên
Chúa và con người. 1. Thành công và thất bại Sau
ba năm rong ruổi rao giảng, căng thẳng giữa Đức Yêsu và biệt phái, luật sĩ, và
những người lãnh đạo tinh thần càng ngày càng gia tăng. Họ tìm cách giết Đức
Yêsu. Đức Yêsu và các môn đệ biết điều đó, và các ngài đã lánh khỏi Yêrusalem.
Khi Lazarô bị đau và chết, Đức Yêsu quyết định trở lại Yêrusalem dù các tông đồ
không muốn điều này; và Thomas đã nói “thôi chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng
chết với Thầy” (Ga. 11, 8.16). Lên Yêrusalem là nguy hiểm đến tính mạng, nhưng
Đức Yêsu vẫn kiên quyết ra đi. Điều phải làm để vinh danh Thiên Chúa, thì Ngài
làm cho đến cùng, bất chấp những gì sẽ xảy ra. Đức
Yêsu không chỉ không được lòng những người lãnh đạo, mà còn không được lòng cả
những người theo Ngài. Chính các môn đệ cũng đã có một số bỏ Ngài, vì họ không
hiểu được điều Ngài nói (Ga. 6, 60.66). Người đóng góp vào cái chết của Đức
Yêsu, cũng là một trong các tông đồ: Yuđa. Dù là người thánh nhất, cũng không
thể làm vừa ý tất cả mọi người được, vì đâu phải tất cả mọi người đều tốt. Khởi
đầu sứ vụ công khai, Đức Yêsu đã thành công. Dân chúng theo Ngài thật đông.
Ngài đã làm phép lạ chữa những bệnh nhân, đã hoá bánh ra nhiều để nuôi dân.
Nhưng sau đó Ngài không thoả mãn những chờ mong của dân chúng. Hơn nữa, lời rao
giảng của Ngài đòi hỏi con người phải thay đổi, thay đổi tận thâm sâu để trở về
với Thiên Chúa. Không chấp nhận sứ điệp Ngài rao giảng, làm người ta dễ chống
đối chính con người của Ngài. Tiêu chuẩn để phán đoán đúng sai, không là “đa
số”. 2. Vinh quang và thập giá Có
thể nhìn biến cố vào thành Yêrusalem long trọng của Đức Yêsu, như tột đỉnh
thành công theo kiểu con người. Ngài được đón tiếp cung nghênh như một Đấng
Thiên Sai. Ngài cỡi trên lưng lừa. Dân chúng cởi áo trải đường để đón tiếp
Ngài. Ngài được dân chúng tung hô là “con vua Đavít”, hàm chứa chấp nhận Ngài
là Kitô vua. Những gì huy hoàng và vinh quang hôm nay rất trái ngược với lời
kết án hôm thứ sáu. Hôm nay dân chúng tung hô “vạn tuế con vua Đavít”, thì hôm
thứ sáu dân chúng lại đòi “đóng đinh nó vào thập giá”. Chỉ
vài ngày sau, dân chúng đã cho rằng Đức Yêsu phạm một tội vô cùng lớn, mà chiếu
theo luật người Do Thái, thì Đức Yêsu phải chết (Ga.19, 7). Nếu Đức Yêsu chỉ là
người, thì quả thực Ngài đáng tội chết, vì là người mà dám nhận mình là Con
Thiên Chúa (hiểu theo nghĩa đồng bản tính với Thiên Chúa). Càng yêu thương và
càng mặc khải những gì đặc biệt về chính Ngài, thì càng nguy hiểm cho tính mạng
của Ngài, vì người ta không cho rằng đó là sự thật. Khi Ngài mặc khải về chân
tính của Ngài như Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa “Con người ngự bên
hữu Đấng toàn năng và đến trên mây trời” (Mc.14,62-64), thì Ngài bị kết án tử
hình. Thành
công hay thất bại, vinh quang hay thập giá, không phải là bận tâm của Đức Yêsu.
Bận tâm chính của Đức Yêsu là sống trọn ơn gọi của mình, sống trọn sứ mạng của
Ngài, mặc khải cho con người biết sự thật về chính Ngài, để rồi nhờ đó con
người nhận biết tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người. 3. Tình yêu dâng hiến Căng
thẳng đã lên tới cực độ. Chính các tông đồ cũng ý thức nguy hiểm đến tính mạng
nếu các ngài lên Yêrusalem, nhưng Đức Yêsu lại nghĩ khác (Ga.11, 8-10). Tuy
nhiên vào ngày thứ năm, Đức Yêsu biết Ngài không thể thoát chết, và Ngài chấp
nhận ngay cả điều tệ nhất này. Nếu không thể không chết, thì Ngài sẵn sàng dâng
hiến chính mạng sống Ngài cho những người thân yêu của Ngài. Bí
tích Thánh Thể là sáng kiến của Đức Yêsu trong những giây phút cuối đời Ngài.
Chính tình yêu đối với con người, và cụ thể đối với các môn đệ mà Đức Yêsu đã
có sáng kiến tuyệt vời đó. Qua bí tích Thánh Thể, người ta thấy Ngài tình
nguyện chấp nhận cái chết (Mc. 14, 22-24) dù rằng khi một mình đối diện nó Ngài
run sợ (Mc. 14, 33-34). Bí tích Thánh Thể là hành vi dâng hiến, dâng hiến mạng
sống Ngài cho Thiên Chúa và cho con người. Thiên
Chúa là tình yêu. Những ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa (1Ga.
4, 8.16). Thánh Yoan, môn đệ yêu dấu của Đức Yêsu khi cuối đời, đã nhận rõ điều
này. Hành vi cuối đời Đức Yêsu, cũng là hành vi tình yêu của Ngài đối với con
người; và hành vi tình yêu này cũng diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con
người. Cả cuộc sống của Đức Yêsu là hành vi tình yêu; và một cách cụ thể những
hành vi ở những giây phút cuối đời của Ngài, phản ánh tình yêu một cách tuyệt
vời. 4. Tình yêu được diễn tả qua cuộc
sống Dù
biết mình sắp chết, Đức Yêsu vẫn bình tĩnh ngồi ăn với các tông đồ. Ai sắp chết
mà còn “ăn mừng lễ”. Ngài không bỏ trốn, nhưng vẫn ra nơi mà Ngài và các tông
đồ vẫn qua đêm ở đó (Lc. 21, 37), để rồi Ngài bị bắt tại đó. Ngài có thể thoát
chết, nếu Ngài tránh đừng ngủ tại vườn dầu tối đó. Biến
cố Đức Yêsu cầu nguyện toát mồ hôi máu “xin cất chén đắng này khỏi con, nhưng
xin đừng theo ý con mà theo ý Cha” là một biến cố đầy ý nghĩa cho Kitô hữu. Đức
Yêsu chấp nhận cái chết khi Ngài không thể tránh được. Không ai trong cuộc sống
mà không phải chiến đấu với cám dỗ. Đức Yêsu không chỉ bị cám dỗ trong hoang
địa (Mt.4, 1-11) nhưng Ngài vẫn bị cám dỗ trong suốt cả đời Ngài. Ngài chiến
đấu với cám dỗ đến nỗi đổ máu. Chúng ta thường xin Ngài cho chúng ta khỏi bị
cám dỗ hơn là xin cho chúng ta kiên trì chiến đấu chống cám dỗ. Ngài cũng bị
cám dỗ, nên không ai trong chúng ta có thể được miễn trừ khỏi bị cám dỗ. Ngài
đã chiến thắng dù rằng phải chiến đấu đổ mồ hôi máu, nên nếu chúng ta chiến đấu
và trông cậy vào Ngài, thì chúng ta cũng chiến thắng như Ngài. “Lạy
Thiên Chúa, sao Ngài bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Yêsu bị cám dỗ cả về đức tin,
Ngài cảm tưởng như thể Thiên Chúa cũng bỏ Ngài. “Lạy Cha, con phó thác hồn con
trong tay Cha” (Lc. 23, 46). Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng được mời gọi phó
thác tất cả trong tay Thiên Chúa như chính Đức Yêsu đã sống. Phải tin rằng
Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù trong cuộc sống có thể có cảm tưởng như thể
Thiên Chúa bỏ rơi mình. Tin Thiên Chúa yêu thương mình, sẽ giúp mỗi người vượt
qua được mọi khó khăn và cám dỗ trong cuộc sống. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: 1. Xin chia sẻ tâm tình hay
kinh nghiệm thiêng liêng của bạn trong những ngày này? 2. Bạn có tin vào con người
không? Tại sao? Đức Yêsu có tin vào con người không? 3. Bạn có tin rằng Thiên
Chúa yêu thương bạn không? Có điều nào trong đời làm bạn không thể tin điều này
không? Xin bạn chia sẻ. HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LỜI CHÚA NĂM A LỜI CHÚA NĂM B LỜI CHÚA NĂM C Chúc bạn
an vui hạnh phúc. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.