HOME     CHIA SẺ LỜI CHÚA     LỜI CHÚA NĂM A     LỜI CHÚA NĂM B     LỜI CHÚA NĂM C

 

 

CÁI CHẾT GIÚP SỰ THẬT HIỂN LỘ

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

Chúa Nhật Lễ Lá, năm C
(Lc.19, 28-40; Is.50, 4-7; Pl.2, 6-11; Lc.22, 14- 23,56)

Sau ba năm Đức Yêsu rao giảng, không ít người đã tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Yêsu của những người này tối đa cũng tương tự như niềm tin của các tông đồ khi Đức Yêsu còn sống đời dương thế. Họ cho rằng Đức Yêsu là một vị thầy, hơn nữa có thể là một tiên tri, và cao nhất có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15; Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người ta không thể biết khác hơn được. Còn đối với những người không tin Đức Yêsu, những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì Ngài trổi trang hơn họ, Đức Yêsu đơn thuần chỉ là một con người bình thường như bao người. Những người này không chỉ bất đồng ý kiến với Đức Yêsu, không chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết Đức Yêsu nữa (Mc.3, 6).

Vào thời cuối của ba năm rao giảng, Đức Yêsu đã nhiều lần nói những điều có thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn Ngài nói Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Thiên Chúa là một (Ga.10, 30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói “gây mất lòng” nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có ít người theo Ngài, vì những lời khó có thể hiểu và chấp nhận được, chẳng hạn: “chính tôi là bánh hằng sống. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga.6. 35). Những lời nói tương tự không chỉ làm Đức Yêsu “mất người” mà còn gây thêm có nhiều người thù địch với Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn giết Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn. Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa: “chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp nhưng vì một lời phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).

Gần lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Yêsu trở nên rõ ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời điểm Lazarô chết không có mặt Đức Yêsu tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Yêrusalem thì các tông đồ đã ngăn cản. Tông đồ Thomas đã động viên các bạn: “nào chúng ta cùng lên Yerusalem để cùng chết với thầy” (Ga.11, 16). Đức Yêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên Yêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn cứ lên. Ngài không muốn trốn chạy cái chết. Ngài đã phải chọn lựa giữa sống và chết một cách cụ thể qua việc có lên Yêrusalem dịp lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã chọn lên Yêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón Ngài.

Ở Yêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường làm: “ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm Ngài và các tông đồ ra vườn dầu để ngủ” (Lc.21, 37). Hôm nay Ngài vào Yêrusalem và được dân chúng đón rước như vị Thiên Sai. Ngài chấp nhận biến cố này vì biết thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến: thời điểm Ngài được tôn vinh cũng là thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết của Ngài có thể được thấy trước vì nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta ghét Ngài đến độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).

Lúc khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì Ngài đã dám suy nghĩ và nói ngược lại những người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14, 53-59); nhưng khi vị thượng tế hỏi Đức Yêsu và Đức Yêsu trả lời: “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời” thì họ không cần phải sắp đặt chứng cớ để giết Đức Yêsu như trước nữa, vì Đức Yêsu đã phạm một tội vô cùng lớn mà mọi người Do Thái một khi biết đều phải xử tử Đức Yêsu, vì là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức Yêsu đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với chứng cớ được xếp đặt trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa; như vậy trước công nghị Do Thái, Đức Yêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá Đức Yêsu nói: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34); thật vậy, không biết nguồn gốc thần linh của Đức Yêsu, thì kết án Ngài là chuyện tất nhiên.

Để giết được Đức Yêsu một cách hợp pháp, người Do Thái phải đem Đức Yêsu sang tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ, quyền xử tử thuộc về thẩm quyền người Roma. Đức Yêsu đã bị gán cho tội chính trị “xưng vương”. Nếu không gán cho Đức Yêsu tội chính trị thì Philatô đã không kết án tử hình Đức Yêsu. Philatô biết Đức Yêsu bị oan, nhưng vì sợ mất chức nên đã  kết án Ngài. Nếu không kết án Đức Yêsu, Philatô có thể bị người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì đã buông tha người xưng vua phất cờ khởi nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích, phải biện luận, và sẽ gặp nhiều phiền phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô đã kết án tử hình Đức Yêsu thuận theo ý của người Do Thái.

Nếu Đức Yêsu chỉ là một con người, Đức Yêsu xứng đáng lãnh án tử. Thực vậy, khi Đức Yêsu còn sống, nào ai biết Đức Yêsu là người có nguồn gốc thần linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có thể tin như vậy! Chỉ khi Đức Yêsu chết và sống lại, người ta mới nhận ra những gì Đức Yêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như vậy, chỉ sau biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng của Đức Yêsu. Nếu Đức Yêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và Thiên Chúa là một, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.

Khi còn sống đời dương thế, Đức Yêsu khó có thể thoát chết, vì chân tướng của Ngài chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài sống lại. Đức Yêsu bị hiểu lầm mà bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa có thể nhập thể làm người . Sau khi Ngài sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra ý nghĩa của những lời Ngài đã nói mà khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một, Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn tại sao người ta giết Đức Yêsu?

2. Có cách nào giúp Đức Yêsu thoát chết không? Tại sao Đức Yêsu không dùng nó?

 

 

HOME     CHIA SẺ LỜI CHÚA     LỜI CHÚA NĂM A     LỜI CHÚA NĂM B     LỜI CHÚA NĂM C

Chúc bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[email protected]