HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LỜI CHÚA NĂM A LỜI CHÚA NĂM B LỜI CHÚA NĂM C CHÚA THĂNG THIÊN Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng
Thiên Cv.1, 1-11; Ep.1, 17-23;
Mt.28, 16-20 Sau ba ngày được táng liệm trong mồ,
Đức Yêsu đã phục sinh vào ngày thứ nhất trong tuần. Ngài đã nhiều lần hiện ra
với các tông đồ trong thời gian 40 ngày, rồi Ngài lên trời trước mắt các ông
tại núi cây dầu. Ngài đã phục sinh và ngự bên hữu Thiên Chúa, để chúng ta cũng
được phục sinh với Ngài vào ngày Ngài đến trong vinh quang, và chúng ta cũng
được thông phần hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. 1. Đức Yêsu lên trời ngự bên hữu
Thiên Chúa Khi
còn nhỏ được học giáo lý, chúng ta thường được dạy và hiểu rằng, thiên đàng ở
trên trời còn hỏa ngục ở sâu dưới lòng đất. Lớn lên, được học hỏi và hiểu biết
hơn, chúng ta biết rằng bầu trời mênh mông vô tận, và trái đất như khối cầu
tròn, được cấu tạo gồm những tầng lớp khác nhau, với sức nén và độ nóng khủng
khiếp. Những kiến thức về khoa học làm chúng ta hiểu hơn về thiên đàng và hỏa
ngục. Hỏa ngục không nhất thiết phải ở sâu dưới lòng đất, nhưng cũng có thể ở
trên một hành tinh nào đó, hay ở ngay nơi cung vàng điện ngọc; và thiên đàng
cũng có thể ở bất cứ đâu mà con người cảm được hạnh phúc trọn vẹn. Ngày nay,
thiên đàng và hỏa ngục được hiểu như là một tình trạng nhiều hơn là nơi chốn.
Thiên đàng và hỏa ngục được hiểu như một nơi chốn, khi người ta diễn tả nó
trong cái nhìn con người như vật chất. Lúc này, nơi chốn để chứa những thực tại
vật chất. Nhưng nếu con người có thể xác “thiêng liêng” thì e rằng không cần
nhấn mạnh về nơi chốn nữa; và lúc đó người ta cũng không phải bận tâm với câu
hỏi “dưới hỏa ngục có Thiên Chúa không? Nếu dưới hỏa ngục có Thiên Chúa thì ở
đó có còn là hỏa ngục không? nếu Thiên Chúa hiện diện cả dưới hỏa ngục, thì
Thiên Chúa có khổ không?”. Nếu chúng ta sống trong tình yêu, thì dù nghèo mình
vẫn hạnh phúc; còn nếu sống trong thù ghét, thì dù sống trong giầu sang nhung
lụa, người ta vẫn cảm thấy bất hạnh. Hỏa ngục là nơi con người thù ghét Thiên
Chúa và thù ghét anh em mình, và những người như vậy họ bất hạnh khi họ thấy
những người khác yêu thương nhau và hạnh phúc. Hỏa ngục là tình trạng con người
không chấp nhận Thiên Chúa và không muốn sống trong tình yêu thương của Thiên
Chúa. Hỏa ngục và thiên đàng đã khởi đầu ngay tại đời này, tùy người ta có chấp
nhận Thiên Chúa và anh em mình hay không! Đức
Yêsu đã phục sinh, cái chết không làm chủ được Ngài nữa. Thân xác sau phục sinh
của Ngài không bị vật chất ngăn cản. Ngài hiện diện ở đâu tùy Ngài muốn, Ngài
muốn hiện ra cho ai, thì người đó được thấy Ngài. Thân xác của Đức Yêsu phục
sinh khác thân xác của Lazarô phục sinh. Sau khi được Đức Yêsu phục sinh,
Lazarô vẫn có thân xác trước, và vẫn bị quy luật vật lý chi phối. Chẳng hạn, bị
đánh Lazarô vẫn cảm thấy đau, sự sống vẫn bị lấy đi bởi tuổi tác hoặc bị tổn
thương về thể lý. Thân xác của Đức Yêsu phục sinh không như vậy. Thiên
Chúa cũng không chỉ ở trên trời, tuy dù kinh “Lạy Cha” chúng ta vẫn đọc “Lạy
Cha chúng con ở trên trời”, vì Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài luôn hiện diện với
chúng ta, và nghe những gì chúng ta cầu xin với Ngài. Chính vì vậy, Đức Yêsu
không cần phải lên trời để gặp gỡ Thiên Chúa Cha. Đức Yêsu, và cả chúng ta nữa,
vẫn ở bên Thiên Chúa Cha từng ngày từng giờ trong cuộc sống. Theo tin mừng
Matthêu, Đức Yêsu nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Đức
Yêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là cách nói diễn tả Đức Yêsu được tôn
vinh như Thiên Chúa. “Ngự bên hữu Thiên Chúa” là một cách nói diễn tả được
ngang hàng với Thiên Chúa, “là Thiên Chúa”. 2. Đức Yêsu phục sinh và lên trời,
là mầu nhiệm đức tin Đức
Yêsu đã phục sinh, là một biến cố đức tin. Phải tin, vì người ta không kiểm
chứng được như người ta có thể kiểm chứng một định luật khoa học. Niềm
tin vào Đức Yêsu phục sinh tùy thuộc nhiều yếu tố, chẳng hạn yếu tố của chính
những chứng nhân. Người làm chứng cho Đức Yêsu phục sinh, có là người đáng tin
không. Nếu một người có đời sống gian dối làm chứng Đức Yêsu đã phục sinh, lời
chứng của người đó ít đáng tin. Nếu một người dám chết để làm chứng điều mình
nói là đúng, thì lời chứng của họ đáng tin hơn, có sức thuyết phục hơn. Đức tin
cũng tùy thuộc chính đời sống của người tin (hay không tin). Chẳng hạn, một người
sống ăn chơi buông tuồng trụy lạc, đặt tiền của vật chất trên tất cả, khó chấp
nhận và tin vào sự sống đời sau hơn một người lương thiện. Nền giáo dục cũng
đóng góp phần nào giúp người ta tin hay phủ nhận biến cố Đức Yêsu phục sinh. Hơn
nữa, tin vào Đức Yêsu phục sinh vẫn là một ơn rất đặc biệt. Không phải bởi sức
con người, mà có thể làm một người tin nhận Đức Yêsu phục sinh. Tin là một hồng
ân đặc biệt của Thiên Chúa ban cho con người. 3. Đức Yêsu là Thiên Chúa Tin
Đức Yêsu đã phục sinh, tuy là chuyện rất khó, nhưng còn dễ hơn là tin Đức Yêsu
là Thiên Chúa. Làm sao có thể tin một người là Thiên Chúa, khi con người hữu
hạn còn Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu tuyệt đối. Làm sao có thể tin một người,
vừa là người vừa là Thiên Chúa? Khi
Đức Yêsu còn sống đời dương thế, chưa ai biết Ngài là Thiên Chúa, và cũng không
ai dám nghĩ Ngài là Thiên Chúa, kể cả các tông đồ. Khi Đức Yêsu sống lại và
hiện ra cho các chị phụ nữ, các chị về báo tin cho các tông đồ nhưng không ai
tin lời các chị. Tông đồ Thomas tám ngày sau mới tin Chúa phục sinh, và chỉ tin
khi Chúa hiện ra cho ông thôi. Nếu vậy làm sao dám nói các tông đồ lúc khi còn
sống với Đức Yêsu đã tin Ngài là Thiên Chúa! Niềm tin Đức Yêsu là Thiên Chúa
chỉ có nhờ Thánh Thần. Chỉ với ơn Thánh Thần, các tông đồ được dẫn vào sự thật
trọn vẹn, các Ngài mới nhận ra Đức Yêsu “là Thiên Chúa”, là “Thiên Chúa nhập
thể”. Làm
sao giải thích những lời Đức Yêsu khi còn sống đã nói “tội con đã được tha” khi
chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội; làm sao giải thích “Ta và Cha là một”
(người Do Thái đã hiểu câu này nên họ lấy đá ném Đức Yêsu) khi giữa con người
và Thiên Chúa có khoảng cách vô cùng; làm sao giải thích lý do Đức Yêsu nói
“trước khi có Abraham, Ta là Ta” khi Ngài chưa tới 50 tuổi! Những câu hỏi trên
chỉ được trả lời thỏa đáng một khi các tông đồ nhận ra Đức Yêsu “là Thiên
Chúa”, là người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, đến độ “Ta và Cha là một”, “của
ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Trong dòng lịch sử, các nhà thần học
đã diễn tả điều này bằng những khái niệm Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, là
Ngôi Lời nhập thể, là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, là Đấng “là người thật
và là Thiên Chúa thật”. Để diễn tả ý “Đức Yêsu là người thật hoàn toàn và là
Thiên Chúa thật hoàn toàn”, các nhà thần học và các công đồng dùng ngôn từ
triết học để diễn tả “Đức Yêsu có hai bản tính, bản tính Thiên Chúa và bản tính
con người”. Một
khi nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người nhận biết Thiên Chúa
yêu thương con người vô cùng! Thiên Chúa yêu thương con người đến độ Ngài muốn
đồng hình đồng dạng với con người, trở thành một người, để con người được cứu
độ, được nên con Thiên Chúa, được thông chia sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Xin cho mọi người được ơn tin nhận Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, để mỗi
người được bình an và hạnh phúc ngay tại dương thế này. 1. Bạn thường cầu nguyện với
ai? Với Thiên Chúa hay với Đức Mẹ? Tại sao? 2. Bạn có thấy khó khăn khi
tin Đức Yêsu là Thiên Chúa không? Nếu có, xin chia sẻ. 3. Kitô giáo khác các tôn
giáo khác ở điểm căn bản nào? Và giống các tôn giáo khác ở điểm căn bản nào? HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LỜI CHÚA NĂM A LỜI CHÚA NĂM B LỜI CHÚA NĂM C Chúc bạn
an vui hạnh phúc. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. Câu hỏi gợi ý chia sẻ