HOME    THẦN HỌC    TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ          TGN1          TGN2

 

TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

MỤC LỤC:

 

II. TÔN GIÁO NGOÀI-KITÔ THEO NHÃN QUAN MẶC KHẢI 1

A. CÁC TÔN-GIÁO-NGOÀI-KITÔ CÓ MẶC KHẢI 1

1. Khả hữu về mặt lý thuyết 2

2. Thiên Chúa đã mặc khải 7

B. TÔN GIÁO NGOÀI-KITÔ LÀ PHƯƠNG TIỆN CỨU ĐỘ.. 14

1. Những khó khăn. 14

2. Tôn giáo- phương tiện cứu độ thứ yếu. 16

C. VIỄN TƯỢNG MỚI 20

1. Dung giải những khó khăn. 20

2. Truyền giáo. 20

3. Vị thế ưu việt của đức Yêsu Kitô. 21

SÁCH THAM KHẢO.. 25

 

II. TÔN GIÁO NGOÀI-KITÔ THEO NHÃN QUAN MẶC KHẢI

            Không có mặc khải thì không có cứu độ. Một các tổng quát, thần học chấp nhận cùng với thánh Thomas: ngoài Kitô giáo ơn cứu độ được biết nhờ mặc khải đặc biệt[1]. Như vậy để biết các tôn-giáo-ngoài-kitô có giá trị cứu độ hay không, hãy xem các tôn-giáo-ngoài-kitô có mặc khải hay không. Nếu không có mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô, các tôn-giáo-ngoài-kitô không có sự can thiệp của Thiên Chúa, nghĩa là, tôn-giáo-ngoài-kitô chỉ là công trình của con người, và như vậy nó không có giá trị cứu độ. Còn nếu các tôn-giáo-ngoài-kitô có mặc khải, thì đó là công trình của Thiên Chúa và các tôn-giáo-ngoài-kitô có giá trị cứu độ.

A. CÁC TÔN-GIÁO-NGOÀI-KITÔ CÓ MẶC KHẢI

            Thiên Chúa mặc khải cho con người chứ không cho một cơ cấu; nên khi đặt câu hỏi “các tôn-giáo-ngoài-kitô có mặc khải không”, hàm chứa, “những người sáng lập các tôn giáo đó có được mặc khải không? những người trong các tôn giáo đó có nhận lãnh mặc khải không? cơ cấu tôn-giáo-ngoài-kitô có khả năng bảo tồn và lưu chuyển mặc khải không?”.

            Để biết Thiên Chúa có mặc khải trong các tôn-giáo-ngoài-kitô không, sẽ xét về mặt lý thuyết có gì ngăn trở Thiên Chúa mặc khải nơi các tôn giáo ngoài-kitô không, nếu không có mâu thuẫn nội tại thì sẽ xem thực tế Thiên Chúa có mặc khải nơi các tôn giáo ngoài-kitô không!

1. Khả hữu về mặt lý thuyết

            Trong mục này, trước tiên tìm hiểu về khái niệm mặc khải, kế tiếp xem những người sống trong các tôn-giáo-ngoài-kitô nghĩ gì về vấn đề mặc khải nơi các tôn giáo của họ, và sau cùng xét Thiên Chúa trên nguyên tắc có thể mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô không.

a. Khái niệm về mặc khải

            Theo N. Jung, mặc khải là Lời của Thiên Chúa dạy dỗ và chứng thực[2]. Theo K. Barth, mặc khải là hành vi tối thượng của ân sủng Thiên Chúa, ở đó Ngài ban chính Ngài cho người ta biết; đức tin là nhận biết và chấp nhận sự kiện này[3]. Theo L. S. Thornton, mặc khải là một hoạt động thần linh, qua đó Đấng Tạo Hóa thông ban chính mình cho con người và khi làm như vậy, Ngài gợi cho con người đáp trả và cùng hành động [4]. Theo Geoffrey Parrinder, khuynh hướng thời đại này cho rằng mặc khải là hành vi hay sự tự tỏ lộ chính mình của Thiên Chúa[5]; hiểu như vậy mặc khải không chỉ là một kho chân lý được chứa trong Kinh Thánh, mà còn là hành vi sống động và liên tục của Thiên Chúa.

            Theo đức Giáo hoàng Phaolô VI, mặc khải là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người: “Mặc khải, là mặc khải siêu nhiên mà chính Thiên Chúa đã có sáng kiến thiết lập với nhân loại, có thể được trình bày như cuộc đối thoại trong đó, Lời Thiên Chúa tự diễn tả mình bằng việc nhập thể và sau đó bằng Tin Mừng”[6].

            Theo hiến chế Mặc Khải của công đồng chung Vatican II, “trong mặc khải, Thiên Chúa vô hình, vì lòng thương yêu vô bờ bến của Ngài, đã ngỏ lời với con người như thể với bạn hữu và trò chuyện với họ nhằm đưa họ vào trong thông giao với Người và để nhận họ vào trong sự thông giao đó” (DV.2). Những hàng đơn sơ này của công đồng, cho thấy mục đích của mặc khải là giúp đưa con người vào sống trong sự thông giao, hiệp thông với Thiên Chúa. Một lần nữa lại thấy ở đâu có mặc khải thì ở đó có ơn cứu độ nếu người ta đáp trả!

            Như vậy mặc khải là việc Thiên Chúa tỏ lộ chính mình Ngài cho con người, để con người được sống trong hiệp thông với Ngài. Có thể nói mặc khải là bước khởi đầu của ơn cứu độ. Khi Thiên Chúa mặc khải chính Ngài, thì con người biết lòng nhân từ vô biên của Ngài, biết về ý định cứu độ con người của Ngài, và cũng nhờ mặc khải mà con người biết chính mình hơn. Mặc khải là việc Thiên Chúa tỏ lộ chính Thiên Chúa và con người cùng ý định của Ngài cho con ngườí!

            Các nhà thần học còn chia ra làm nhiều loại mặc khải, chẳng hạn như mặc khải tiên khởi, mặc khải thiên nhiên, mặc khải lương tâm, mặc khải triết lý, mặc khải siêu nhiên, mặc khải tiên tri, mặc khải lịch sử, mặc khải phổ quát, mặc khải riêng tư.

·        Mặc khải tiên khởi[7] là mặc khải Thiên Chúa tỏ lộ cho những con người đầu tiên, nói một cách cụ thể là cho ông bà nguyên tổ. Mới thoạt nói, thấy khái niệm này đơn giản nhưng thực tế rất phức tạp vì mỗi tác giả giải thích mỗi khác, mỗi người xác định cho nó những đặc điểm về nguồn gốc, người được hưởng, sự cần thiết và sự lưu truyền của mặc khải này theo quan điểm của họ[8].

·        Mặc khải tự nhiên là mặc khải được ghi trong trật tự thiên nhiên, nó hiện hữu ngay trong việc tạo dựng. Mặc khải thiên nhiên biểu lộ Thiên Chúa như chủ của thế giới, trong tương quan nhân quả. Mặc khải thiên nhiên khám phá một Thiên Chúa hiện diện và Thiên Chúa ngôi vị, nhưng mầu nhiệm ngôi vị này vượt khỏi nó. Mặc khải thiên nhiên đạt tới ngưỡng cửa mầu nhiệm nhưng không thể vào được... vì tội của con người, vì sự kiêu ngạo, vì sự yếu đuối của con tim, người ta luôn có khuynh hướng lầm lẫn chủ tể thiên nhiên với thiên nhiên[9].

·        Mặc khải siêu nhiên tiến gần Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi, tác giả của trật tự siêu nhiên. Mặc khải siêu nhiên có lời đáp trả trực tiếp là đức tin; đức tin giúp con người gặp gỡ, hướng về thị kiến Thiên Chúa hằng sống. Mặc khải siêu nhiên coi mầu nhiệm đời sống thâm sâu của Thiên Chúa là đối tượng. Nó khai mào một cuộc đối thoại, tình bạn, sự hiệp thông, sự chia sẻ những điều thiện hảo giữa Thiên Chúa và tạo vật.

·        Mặc khải phổ quát và mặc khải đặc biệt. Mặc khải phổ quát là mặc khải mà mọi người có thể nhận thấy, mặc khải cho mọi người. Mặc khải này bao gồm mặc khải tự nhiên và mặc khải lương tâm. Mặc khải đặc biệt gồm cả mặc khải huyền nhiệm, mặc khải triết lý, mặc khải lịch sử, mặc khải riêng tư, mặc khải công khai.

·        Mặc khải triết lý, mặc khải khôn ngoan là điều Thiên Chúa muốn tỏ lộ cho con người qua khả năng lý trí được ban cho con người với nỗ lực suy tư của họ.

·        Mặc khải huyền nhiệm (mặc khải thần bí) là những gì Thiên Chúa ban cho ai đó để dẫn họ tới đời sống kết hợp đặc biệt với Thiên Chúa. Những nhà thần bí thường có lời giải thích những biến cố lịch sử. Mặc khải lịch sử được thể hiện rõ ràng nơi lịch sử dân Do Thái, và các tiên tri là những người giải thích lịch sử trên vị thế của Thiên Chúa[10].

·        Mặc khải tiên tri là mặc khải cho một cá nhân nhưng nhằm cho cả cộng đoàn. Với mặc khải này, cá nhân được mặc khải “bắt buộc” phải trở thành chứng nhân, loan báo mặc khải này cho dân[11].

·        Mặc khải riêng tư là mặc khải cho một cá nhân để họ được cứu độ khi họ sống ngoài Kitô giáo[12]; mặc khải riêng tư còn được dùng để gọi mặc khải xảy ra sau khi các tông đồ chết (mặc khải cộng đồng) và không nằm trong kho tàng đức tin (depositum fidei); mặc khải cộng đồng được trao cho Giáo Hội bảo quản và truyền bá, còn mặc khải riêng tư thì không chính thức được trao cho Giáo Hội, nhưng dù vậy nó vẫn nhắm tới mọi người[13].

            Quan niệm mặc khải riêng tư là mặc khải vẫn là cho tất cả nhưng không được ký thác cho Giáo Hội, nghĩa là, không nằm trong depositum fidei, có sau khi các tông đồ chết, là của K. Rahner. Để biện minh cho từ ngữ ngài dùng, ngài đã phân biệt mặc khải trước và sau đức Kitô xuất hiện. Trước khi đức Kitô xuất hiện người ta phải sẵn sàng đón nhận một mặc khải mới từ Thiên Chúa, Đấng có thể thiết lập một giao ước mới để cứu độ con người[14]. Còn sau và từ khi đức Kitô xuất hiện, thời đại mới và cuối cùng đã xuất hiện; hành vi và chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người đã đạt đến kỳ điểm cuối cùng và chung cuộc. Chính vì thế với thời đại Kitô, người ta không còn phải chờ mong bất cứ cái gì có thể thay đổi điều kiện cứu độ con người nữa. Trước đức Kitô xuất hiện người ta không chỉ có thể chờ nhưng phải chờ mong sự thay đổi; còn hôm nay Kitô hữu chỉ phải chờ sự tỏ hiện của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người vào ngày phán xét cuối cùng. Thần học hiện sinh về khả thể mặc khải và mặc khải tương lai của Thiên Chúa đối với con người trước đức Kitô đã được thay thế bằng nền thần học cánh chung đối với Kitô hữu. Như vậy không có nghĩa, thời này không còn mặc khải nào nữa. Ngay trong thời đại cuối cùng này vẫn có thể có mặc khải cho cá nhân và mặc khải đó cũng có thể ảnh hưởng đến thân thể Giáo Hội, nhưng mặc khải này không thay đổi điều kiện cứu độ vì điều kiện này đã được đức Yêsu làm nên trọn[15]. Theo K. Rahner, Thánh Linh có thể tác động trên Giáo Hội qua một phần tử nào đó trong Giáo Hội để loan báo cho Giáo Hội biết điều Thánh Linh đòi hỏi lúc này. Theo K. Rahner, điểm chính yếu của mặc khải riêng tư[16] sau thời tông đồ là: Thiên Chúa gïợi cho một phần tử trong Giáo Hội để truyền mệnh lệnh của Ngài cho Giáo Hội trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể[17].

            Theo K. Rahner, khả thể của mặc khải riêng tư bằng thị kiến hoặc bằng kinh nghiệm thính giác, là hiển nhiên trên nguyên tắc với một kitô-hữu. Vì Thiên Chúa là thực thể hữu vị tự do, Ngài có thể tỏ ban chính Ngài cho một tinh thần thọ tạo, không chỉ qua công trình của Ngài nhưng cũng còn bằng Lời tự do và hữu vị của Ngài nữa[18]. Mặc khải riêng tư tiên tri không chỉ liên hệ với cá nhân người được thị kiến nhưng còn được gởi tới Giáo Hội hay một phần lớn Giáo Hội để cổ võ một sự sùng kính đặc biệt nào đó, hoặc để khuyến khích ăn năn, giáo huấn về điều gì đó, cảnh cáo chống lại một vài học thuyết, khuyến khích một giáo thuyết hay một cách sống, v.v... Trong dòng lịch sử Giáo Hội, người ta thấy có những mặc khải riêng tư thuộc loại này, và chúng đã ảnh hưởng rất nhiều trên Giáo Hội[19]. Nếu một khi Thiên Chúa đã nói và sự kiện đã được thiết lập qua kiểm chứng, thì mọi người phải lắng nghe, vâng phục và tin tưởng theo mức độ sứ điệp liên quan đến[20].

            Gút lại, có thể chia mặc khải ra làm ba cấp độ: mặc khải phổ quát, mặc khải đặc biệt cấp một và mặc khải đặc biệt cấp hai. Mặc khải phổ quát gồm mặc khải qua thiên nhiên và qua lương tâm, mặc khải đặc biệt cấp một gồm mặc khải triết lý và mặc khải huyền nhiệm, và mặc khải đặc biệt cấp hai là mặc khải qua lịch sử và đức Kitô. Các phân chia này cũng tương đối và có tiêu chuẩn là phương tiện mặc khải[21]. Mặc khải lịch sử ở đây được hiểu là những biến cố trong lịch sử dân Israel và có lời đi kèm để giải thích!

            Nhìn dưới nhãn quan Kitô giáo, ba cấp độ mặc khải này đều hàm chứa trong Kinh Thánh:

·        mặc khải qua thiên nhiên (St.1), qua lương tâm (Rm.1,1 8tt),

·        mặc khải khôn ngoan (trong văn chương khôn ngoan của Kinh Thánh, thường thuộc thời sau lưu đày, năm 539 TCN[22]), mặc khải huyền nhiệm (với các thị kiến, đặc biệt nơi các tiên tri),

·        mặc khải lịch sử, qua các biến cố và đặc biệt nơi đức Yêsu Kitô; đức Yêsu là mặc khải tối hậu.

            Nơi Do Thái giáo và Kitô giáo, công trình tạo dựng, Luật, Khôn Ngoan, những can thiệp của Thiên Chúa trong dòng lịch sử dân Israel, đều là mặc khải, đều là những điều kỳ diệu qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con ngườí!

            Bây giờ trở lại vấn đề, cụ thể xem các tín hữu nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô nghĩ gì về mặc khải?

b. Niềm tin của các tín hữu ngoài-kitô

            Sự kiện không thể chối cãi là những tôn giáo lớn như Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo, đều có Kinh Thánh; chẳng hạn như Ấn Độ giáo có kinh Veda, Hồi giáo có kinh Koran, Do Thái giáo có Cựu Ước. Người đạo Bàlamôn coi Rig-veda là Cruti, nghĩa là Lời mặc khải[23]; người Hồi giáo coi kinh Koran là Lời Thiên Chúa “Koran là Lời Thiên Chúa, được viết trong sách, được gìn giữ trong trí nhớ, được lập lại bằng lưỡi, được mặc khải cho vị tiên tri. Những lời loan báo, việc sao chép, việc đọc kinh Koran của chúng ta là được tạo thành, trong khi đó Koran thì không được tạo thành”[24].

            Hồi xưa khi các học giả kitô giáo được hỏi: kinh Koran có được mặc khải không? Thường có câu trả lời là không! Ngày nay với khoa tôn giáo đối chiếu, một số học giả Kitô giáo muốn đặt lại vấn đề và nghi ngờ câu trả lời không của những người trước! Đứng trên khía cạnh thuần túy khoa học để khảo sát, nghĩa là không thuộc phe phái hay quan điểm tôn giáo nào, người ta ghi nhận rằng:

·        với người Hồi giáo thì Koran là sách mặc khải, còn Veda và Tân Ước thì không được mặc khải;

·        còn đối với người Do thái giáo thì Cựu Ước được mặc khải còn Tân Ước, Veda, Koran không được mặc khải!

Mỗi người có một lập trường dựa trên tôn giáo họ theo, coi điều mình tin là đúng, được mặc khải, còn điều người khác tin là không được mặc khải! Khoa học về các tôn giáo, cũng còn gọi là khoa học tôn giáo đối chiếu, nghiên cứu về nguồn gốc, sự hình thành và phát triển của các tôn giáo, những điểm dị đồng giữa các tôn giáo giúp có những dữ kiện để người ta dễ dàng suy tư hơn về vấn đề này. Những người làm công việc đối chiếu giữa các tôn giáo không phải là những người chủ trương tất cả các tôn giáo đều như nhau; nhưng khi làm công việc này, họ không đứng trên một quan niệm tôn giáo nào, họ coi tất cả các tôn giáo đều như nhau, nghĩa là có những điểm đúng và những điểm sai (xét trên những mặt thuần túy lịch sử hoặc nhân loại).

            Với phương pháp hiện tượng luận, Th. P. Van Baaren cho rằng các tôn-giáo-ngoài-kitô được mặc khải[25]. Như vậy vấn đề hiện tại còn lại, trên quan điểm Kitô giáo, có thể bảo vệ ý kiến cho rằng Thiên Chúa cũng mặc khải cho nhân loại ở ngoài truyền thống Do Thái không? Người theo tôn-giáo-ngoài-kitô cho rằng tôn giáo họ theo được mặc khải, nghĩa là, Thiên Chúa đã nói với họ và họ cũng có Kinh Thánh, vậy điều họ cho là được mặc khải có thật là được Thiên Chúa mặc khải không?

c. Thiên Chúa tự do mặc khải

            Thiên Chúa có thể mặc khải cho các người sống trong các tôn-giáo-ngoài-kitô không? Nói cách khác, với những điều kitô-hữu biết về Thiên Chúa và những điều Thiên Chúa mặc khải, kitô-hữu có tìm thấy điều nào cho thấy Thiên Chúa không mặc khải nơi tôn giáo ngoài kitô không?

            Thiên Chúa là nhất thể tam vị, Ngài tự do trong mọi sáng kiến và hoạt động của Ngài, Ngài muốn mặc khải cho ai, ở đâu là tùy ý Ngài, không gì cấm cản được Ngài.

i. Kitô giáo vẫn ưu việt

            Giả như Thiên Chúa mặc khải nơi tôn-giáo-ngoài-kitô, thì Kitô giáo có còn tính ưu việt nữa không, hay Kitô giáo cũng ngang hàng với các tôn giáo khác và đức Kitô cũng ngang hàng với đức Phật, đức Mahomet, Zarathoustra?

            Nếu các tôn-giáo-ngoài-kitô cũng được mặc khải, Kitô giáo vẫn giữ được tính ưu việt, nghĩa là, vẫn là phương tiện cần thiết để được cứu độ (LG.14), vì đức Kitô vẫn là Lời mặc khải trong các tôn-giáo-ngoài-kitô, và hơn nữa Ngài cũng là mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa. Đức Kitô vẫn là chóp đỉnh mặc khải mà các tôn khác phải vươn tới.

ii. Sai lầm không đến từ Thiên Chúa

            Nếu Thiên Chúa mặc khải cho tôn-giáo-ngoài-kitô thì tại sao có những sai lầm trong các tôn giáo đó? Tại sao các tôn giáo đó không có chân lý như Kitô giáo? Nếu cùng một Thiên Chúa mặc khải thì tại sao những chân lý đó không hòa hợp được với nhau?

            Những gì sai lầm trong các tôn-giáo-ngoài-kitô không đến từ Thiên Chúa, nghĩa là những điều đó không là những điều được mặc khải! Những điều không thể dung hợp, hoặc đối kháng với chân lý được mặc khải trong Kitô giáo, cũng được coi như không đến từ Thiên Chúa; Chỉ những gì hay hoặc tốt nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô mới được coi là những điều Thiên Chúa mặc khải mà thôi. Chính những sai lầm hoặc những chân lý chưa trọn vẹn nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô, giúp người ta nhận ra tính ưu việt của Kitô giáo.

            Nếu chấp nhận có mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô, người ta thấy những chân lý và sự kiện có các nhà thần bí được giải thích dễ dàng hơn: “tất cả những gì tốt đẹp đều đến từ Thiên Chúa”.

            Tóm lại, người ta đã không tìm được lý do để kết luận “trên nguyên tắc” Thiên Chúa không thể mặc khải nơi tôn-giáo-ngoài-kitô.

2. Thiên Chúa đã mặc khải

            Trên nguyên tắc không gì ngăn cản Thiên Chúa mặc khải cho các tôn-giáo-ngoài-kitô nhưng cụ thể thì sao? Thiên Chúa có mặc khải nơi tôn-giáo-ngoài-kitô không? Thực tế Thiên Chúa đã mặc khải ngoài Kitô giáo; hơn nữa, trong các tôn-giáo-ngoài-kitô có giá trị mặc khải; và có thể kết luận “Thiên Chúa đã mặc khải trong các tôn giáo ngoài-kitô”.

a. Mặc khải ngoài Kitô giáo

            Cùng đích của con người, là sống thiết thân với Chúa. Sau khi mối tương quan thân mật với Ngài bị chính con người phá hủy, tự sức con người không thể nối lại mối tương quan ấy, nghĩa là, con người không thể tự mình cứu độ mình được! Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn là người có sáng kiến nối lại tương giao với con người. Lịch sử cứu độ đặc biệt bắt đầu với ơn gọi Abraham, nhưng trước khi Abraham xuất hiện, Thiên Chúa đã can thiệp trong dòng lịch sử của con người.

i. Trước Abraham

            Ngay sau khi con người đầu tiên phản bội, Thiên Chúa đã đi tìm con người và ngỏ lời với con người đầu tiên, dù con người lẩn tránh Thiên Chúa (St.3, 9-10). Trong lần gặp gỡ này, ơn cứu độ đã được hứa ban cho con người (St. 3, 15).

            Hênok được Kinh Thánh ca ngợi, cho rằng ông đã đi với Thiên Chúa (St.5, 22-24). Như vậy chúng ta thấy Thiên Chúa không ngừng hiện diện với con người. Trong giao ước Thiên Chúa ký kết với Noê và gia đình ông, giao ước này không chỉ gồm Noê và gia đình, nhưng bao gồm tất cả chúng sinh ở với họ: “Này là dấu ta đặt giữa ta và các ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở với các người, đời đời mãi mãi” (St.9, 12.15-17). Tương quan giữa con người và Thiên Chúa đã được chính Thiên Chúa cương quyết nối lại: Ngài không ngừng ngỏ lời, đối thoại và tỏ hiện với con ngườí! Ngài làm tất cả để cứu con người.

ii. Balaam tiên tri dân ngoại

            Sau biến cố Thiên Chúa kêu gọi Abraham, Ngài vẫn tỏ mình cho dân ngoại như trong trình thuật Balaam. Balaam là tiên tri của dân ngoại bên bờ sông Phơrat, ông đã có tương quan khá mật thiết với Thiên Chúa dù ông không phải người Israel. Thiên Chúa đã dạy ông không được trù ẻo dân Israel, vì Israel là dân đã được Thiên Chúa Yahweh chúc phúc; ông đã vâng lời Thiên Chúa (Ds. 22, 2-14). Với Balaam người ta thấy Thiên Chúa đã tỏ mình cho tiên tri dân ngoại để can thiệp vào vận số của con dân Israel; nếu Balaam đã có tương quan với Thiên Chúa như vậy, chắc chắn ông cũng đã truyền đạt ý định của Thiên Chúa cho những người đến với ông hay những người tới thỉnh cầu ý kiến của ông!

iii. Đấng Kitô là người ngoại

            Với Kyrô vua xứ Batư, tiên tri Ysaya nói là Thiên Chúa đã xức dầu phong vương để ông giải phóng dân Israel khỏi làm nô lệ ở Babylon! Kyrô là một người ngoại, làm vua dân ngoại, nhưng Thiên Chúa đã chọn ông, tuyển chọn ông, đã nói với ông (Ys.44, 28; 45, 1). Kyrô được Thiên Chúa phong vương, nhờ ông mà dân Israel được trở về, ông đã thực hiện ý định Thiên Chúa nơi dân Israel; như vậy không có lý gì khiến người ta phủ nhận ý kiến cho rằng cũng chính vua được xức dầu này đã thực hiện ý Thiên Chúa nơi dân tộc ông, tức dân Ba-tư. Có thể nói: qua vị vua được Thiên Chúa xức dầu này, Thiên Chúa đã nói và cai trị không những dân Israel mà thôi, nhưng còn cả dân Batư nữa.

            Như vậy, Thiên Chúa không chỉ mặc khải cho dân ngoại qua việc tạo dựng, qua lương tâm, qua sự khôn ngoan do lý trí tìm kiếm, nhưng còn bằng những lời hoặc bằng chính con người Thiên Chúa chọn và ngỏ ý, tỏ bày ý định của Ngài cách đặc biệt. Có thể nói Thiên Chúa mặc khải cho Noê và gia đình ông, và qua đó cho tất cả mọi người và mọi sinh vật trên đất, là mặc khải tiên tri.

            Những lý chứng trên cho thấy Thiên Chúa đã mặc khải cho dân ngoại theo cách thức và lề lối của họ, để cứu độ tất cả nhân loại, vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của cả dân Do thái lẫn dân ngoại, Đấng “muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết sự thật” (1Tm. 2, 4). Cũng trong bầu khí này, Lời Kinh Thánh trong thư gởi Do Thái “Ngày xưa nhiều lần nhiều cách Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua các tiên tri; vào thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã nói với chúng ta nơi một người Con” (Hb.1, 1), không chỉ đúng với dân Do Thái nhưng còn đúng với cả dân ngoại nữa. Dầu vậy người ta cũng phải thêm rằng, cả khi chấp nhận Thiên Chúa nói với dân ngoại theo “kiểu của Thiên Chúa và cũng là kiểu của họ”, người ta vẫn thấy rằng qua biến cố Thiên Chúa mặc khải cho dân riêng Ngài, Ngài cũng mặc khải cho cả dân ngoại nữa. Điều này người ta thấy rõ khi:

·        Yavê Thiên Chúa giải phóng dân riêng ra khỏi AiCập, và qua biến cố này, “dân AiCập sẽ biết rằng Ta là Yavê” (Xh.14,18);

·        Quân Philitinh chiếm được hòm bia Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã đánh phạt những nơi nào có sự hiện diện của hòm bia. Dân chúng đã sợ hãi và đem trả hòm bia lại cho con dân Israel sau khi đã tỏ lòng tôn kính hòm bia và Thiên Chúa dân Israel thờ qua việc cúng tế (kiểu của những dân này) (1Sam.5-6)

b. Mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô

            Các tôn giáo ngoài-kitô có mặc khải không? Người ta có thể xét

mặc khải phổ quát qua thiên nhiên và lương tâm;

mặc khải triết lý;

mặc khải huyền nhiệm;

mặc khải qua lịch sử và lời giải thích;

mặc khải nơi Đức Yêsu Kitô.

            Mặc khải phổ quát qua thiên nhiên và lương tâm, dành cho tất cả mọi người, nên không thành vấn đề. Mặc khải nơi Đức Yêsu là độc nhất, nên cũng khỏi phải bàn. Như vậy chỉ cần lưu ý mặc khải đặc biệt cấp một[26] và một phần mặc khải đặc biệt cấp hai[27], nghĩa là, mặc khải huyền nhiệm tiên tri và mặc khải lịch sử có lời giải thích biến cố[28].

            Theo R. Latourelle[29], mặc khải Kitô giáo phải là tiêu chuẩn để biết các tôn giáo ngoài-kitô có mặc khải không. Nói như vậy không phải là đánh giá thấp các tôn-giáo-ngoài-kitô, nhưng đó là cách duy nhất để xác định và lượng giá mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô; bởi vì đức Kitô là chóp đỉnh của mọi mặc khải, nên nhờ Ngài mà người ta có thể xác định và phân biệt những hình thức mặc khải khác nhau[30].

            Sẽ so sánh giáo lý hoặc niềm tin của những tôn giáo khác với đức tin Kitô giáo để biết xem tôn-giáo-ngoài-kitô đó có mặc khải không.

i. Dấu chỉ và thực tại

            Trong thời xa xưa và ngày nay cũng vẫn còn có những người cúng tế “thần cây đa”, “thần đá”, v.v... Tín ngưỡng này không hiếm trong niềm tin bình dân của những người Việt Nam.

            Theo M. Éliade, những cây và những đá được thờ không phải chúng được thờ vì chúng là cây là đá, nhưng chúng được thờ bởi vì chúng biểu lộ cái gì không còn là cây là đá mà là cái gì thánh, một cách hoàn toàn khác (ganz andere)[31]. Niềm tin bình dân này tuy được diễn tả cách tập thể tại một số nơi nhưng nó không là tôn giáo đúng nghĩa, vì không có một nền giáo lý diễn đạt niềm tin của họ, dầu vậy nó cũng cho người ta thấy có niềm tin vào một cái gì siêu việt, và một cách nào đó có thể nói, niềm tin này cũng có giá trị cứu độ.

            Có thể đồng ý với triết gia Kierkegaard: “Lời nguyện có thể là không chân thực khi cầu nguyện với Thiên Chúa chân thực, nhưng người ta cũng có thể cầu nguyện trong chân lý mặc dù người ta dâng lời cầu nguyện trước một ngẫu tượng[32].

            Đây là “sự thần hiển” của những thế lực chống Thiên Chúa hay là “sự thần hiển” của chính Thiên Chúa? Theo thiển kiến, nếu không chứng minh được đó là sự thần hiển của ma qủy, thì cứ giả sử chúng tự Thiên Chúa mà đến.

ii. Chân lý và sự thật

            Ở phương đông các hình thức và hệ thống tôn giáo chỉ có giá trị “lại gần” chân lý. Chẳng hạn ở Trung Hoa, ba tôn giáo (Khổng-Phật-Lão) tuy là ba trong hệ thống nhưng chỉ là một trong cách sống, cách cư xử. Ở Ấn Độ cũng vậy, Ramakrishna nói: “Hữu thể là đơn nhất nhưng có nhiều tên gọi... Bạn hãy gọi như bạn muốn và cầu nguyện với Ngài theo hình thức thích hợp với bạn hơn”[33]. Quan niệm tương đối này được thấy gần như hầu hết nơi các tác giả lớn:

·        ngón tay chỉ mặt trăng, đừng nhìn ngón tay mà nhìn điều được chỉ (Phật);

·        nơm để đơm cá, đặng cá hãy quên nơm; dò là vì thỏ, đặng thỏ hãy quên dò; bè để qua sông, qua sông hãy bỏ bè; lời là vì ý, đặng ý hãy quên lời (Trang Tử);

Với người đông phương, chân lý là cái gì không nắm bắt như nắm bắt một đồ vật. Lời diễn tả chỉ nói lên phần nào thực tại sâu thẳm chứ không gói trọn, bó chặt, giam cầm được thực tại. Nếu có thái độ độc đoán tưởng rằng mình nắm chân lý trong tay thì chẳng khác những người mù xem voi: ai cũng cho mình đúng và chỉ có mình đúng thôi, còn người khác là sai lầm!

            Với quan niệm tương đối này về vấn đề tôn giáo[34], có người cho rằng mọi tôn giáo đều tốt tuy dù bàn tay có ngón dài ngón ngắn.

iii. Kinh nghiệm Tuyệt Đối nơi các tôn giáo ngoài-kitô

            Những người theo đạo Khổng không tôn thờ đức Khổng nhưng coi Khổng Tử như người dẫn đường, như vị thầy. Quan niệm này không chỉ của những người theo đạo Khổng nhưng là của chung những người Trung Hoa, họ coi đức Khổng là “vạn thế sư biểu”. Người theo đạo Khổng cho là theo đạo của những bậc tiên vương: thờ Trời và tế Trời. Niềm tin vào Thượng Đế được diễn tả trong những sách cổ nhất của Trung Hoa: “(Vua Thuấn) làm lễ phần sài tế Thượng Đế”[35]. Sách Trung Dung cũng nói: “lễ Giao, lễ Xã là lễ để tế Thượng Đế vậy[36]”. Những lời trên trong sách Trung Dung cho thấy: ngay cả lễ tế đất (lễ Xã) cũng là lễ tế Thượng Đế như lễ Giao vậy. Những người đi theo đường lối của Khổng Tử (đạo Khổng) tin vào Thượng Đế nhưng họ chú trọng đến những gì cụ thể; họ đưa vào thái độ sống, cách sống của con người để biết người nào đó có sống đạo không! Người Trung Hoa quan niệm như vậy cũng không khác tư tưởng của thánh Yoan: “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối” (1Yn.4, 20).

            Người theo đạo Khổng, “đạo thờ Trời”, phải làm theo ý Trời. Những bậc tiên vương thánh vương của dân Trung Hoa cũng luôn làm theo ý Trời. Các vị khi đem binh đi chinh phạt nước nào thì cũng xác tín đó là mệnh Trời, ý Trời muốn mình làm như vậy[37]. Người càng làm lớn, càng phải sống đạo, và đạo phải biểu lộ nơi mình; Điều này được thấy nơi những vị vua Trung Hoa, họ coi mình như người thay Trời hành đạo; kế đến là những người quân tử, họ cũng có nhiệm vụ lớn đối với dân nước: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”[38]. Và muốn đạt được điều ấy thì phải bắt đầu từ chính mình: “cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả, tiên trì kỳ quốc; dục trì kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia; dục tề kỳ gia thiên hạ giả, tiên tu kỳ thân; dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm; dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý; dụ thành kỳ ý giả,tiền trí kỳ tri; trí tri tại cách vật”.

            Hồi còn thời quân chủ, vua tôi Việt Nam cũng thờ Trời tế Trời, gọi là lễ tế Nam Giao.

            Đạo Lão do Lão Tử vạch ra. Người theo đạo Lão cũng không tôn thờ Lão Tử nhưng coi Lão Tử như người đi trước dẫn đường (đạo)! Ý tưởng then chốt trong đạo này là Đạo, và Đạo này không thể diễn tả nỗi:

“Đạo khả đạo phi thường Đạo,

Danh khả danh phi thường Danh” (Đạo Đức Kinh, 1).

Đạo là nguồn gốc của vạn sự vạn vật “vô danh vạn vật chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu (ĐĐK.1)”. Người tin vào Đạo, sẽ sống theo Đạo. Thái độ sống của những người theo Đạo (đạo Lão) thường là vô vi, nhưng vô vi không phải là không làm gì cả “Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi” (ĐĐK.37, 1).

            Đặt vào trong bầu khí thời đạo Khổng và đạo Lão phát sinh, người ta thấy hai “đạo” này biểu lộ hai cách cư xử khác nhau, cứ bình thường người ta coi một lối cư xử là tích cực và lối kia là tiêu cực; Mới thoạt nhìn người ta tưởng chừng chúng không thể dung hợp được với nhau, nhưng thực chúng không hoàn toàn mâu thuẫn nhau:

“xưa nay xuất xử thường hai lối,

mãi thế rồi ta sẽ tính đây” (Nguyễn Công Trứ).

Niềm tin của những người theo đạo Khổng và Lão tuy khác nhau nhưng giống nhau; một tin vào Trời môït tin vào Đạo; Trời và Đạo tuy được gọi là hai nhưng cũng là một! Cách sống, cách cư xử của hai đạo cũng không khai trừ nhau và có thể dung hợp nơi một người.

            Khi nghiên cứu đạo Khổng và Lão, người ta thấy khái niệm về mặc khải rất đơn sơ[39] nếu không muốn nói là không có; thế nhưng những điều các đạo dạy người ta thấy rất uyên thâm và rất gần với Kitô giáo.

            Các tôn giáo huyền nhiệm ở Ấn Độ trổi vượt ở nét phản tỉnh. Mặc khải được hiểu như một soi sáng nội tâm nhằm giải phóng con người khỏi u mê lầm lạc[40]. Nếu so sánh các tôn giáo “tiên tri” với các tôn giáo “khôn ngoan”, người ta thấy ý niệm mặc khải rất rõ nơi các tôn giáo tiên tri, còn trong tôn giáo khôn ngoan thì không rõ. Mặc khải được hiểu như một khải ngộ (soi sáng nội tâm) không chỉ là cái biết bằng trí não nhưng còn hàm chứa một sự cảm nghiệm sâu xa, nó phần nào cho thấy thực tại con người cảm nghiệm.

            Tuyệt Đối trong Ấn Độ giáo là một thực tại người ta không thể tri giác hoàn toàn, vượt trên khả năng lãnh hội của con người. Tuyệt Đối này “mắt không thể đạt tới, cả lời và lý trí cũng vậy.... Cái ấy không phải là cái ta biết, cũng không phải là cái ta không biết”[41]. “Chẳng có gì cao hơn và thấp hơn Ngài. Chẳng có gì nhỏ hơn và cũng chẳng có gì lớn hơn.... Ngài biết tất cả, còn Ngài thì chẳng ai biết được”[42]. Nhờ quan niệm về Tuyệt Đối như vậy, nên “các hiện hữu đáng quý đối với chúng ta không phải vì tình yêu của các hiện hữu đó, nhưng bởi vì tình yêu của sinh vật Tối Cao mà các hiện hữu đáng quý”[43]. Cũng chính trong Upanisad này người ta đọc thấy lời cầu nguyện: “xin dẫn con từ nơi tối tăm tới ánh sáng, từ sự chết đến sự sống, từ cái không thực đến cái thực”[44]. Với những lời trong các Upanisad này, người ta có cảm tưởng Tuyệt Đối được diễn tả là môït Thực Tại Tuyệt Đối Hữu Vị; và như vậy, đâu có xa với Thiên Chúa Kitô giáo?

            Những người theo đạo Phật coi chư Phật như những bậc thầy chứ không tôn thờ chư Phật[45], chính vì vậy Phật tử “không cầu xin một ân huệ vật chất hay tinh thần nào khi đảnh lễ tượng Phật mà chỉ bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ của mình đến lý tưởng siêu việt mà bức tưọng tiêu biểu... Phật tử cũng đảnh lễ cây bồ đề, không phải để lòng tôn sùng thờ tự cái cây, mà xem đó là tượng trưng của sự giác ngộ. Dầu có nhiều nghi thức lễ bái trong các buổi lễ, người tín đồ phật giáo không tôn sùng đức Phật như một thần linh[46]. Theo quan niệm của Phật giáo “đức Phật không khi nào và không thể nào ban bố những ân huệ cho người cầu nguyện. Để được cứu rỗi người phật tử không nên cầu nguyện mà phải lãnh trách nhiệm, cố gắng trau dồi đức hạnh, kiên trì tu tập, để đạt tự do và trong sạch”[47].         

            Nếu người theo đạo Phật cho rằng đức Phật chỉ là người dẫn đường, là bậc thầy chứ không như đức Yêsu vừa là đường, là sự thật và là sự sống (Yn.14, 6), thì họ tin vào ai? Phải chăng đạo Phật chủ trương vô thần? Đạo Phật phát sinh là do hoàng tử Gautama, một người khi nhận biết cái khổ mà chúng sinh phải chịu, đã tìm đường giúp con người thoát khỏi cảnh khổ cực này. Như vậy mục đích của Phật giáo là diệt khổ, mục đích của phật tử là được giải thoát khỏi khổ cực, và để đạt được như vậy họ phải được giác ngộ, nhận biết chân lý, tránh được vô minh; chân lý mà người ta nhận ra đó là: mọi khổ cực con người có là do dục mà ra cả, thế nên để thoát khổ, con người phải diệt dục! Đạo Phật chú trọng về khía cạnh thực tế, làm sao để con người thoát khổ, hơn là tìm nguyên nhân siêu hình; đạo Phật tìm những biện pháp giúp con người hết khổ, chứ không bận tâm tìm hiểu xem ai là Đấng đã tạo ra vũ trụ này[48]. Người phật tử không tìm thấy bất cứ một lý do nào để chống đối việc thờ nhiều thần thánh bởi vì ý niệm về một Thượng Đế hay ghen tuông hoàn toàn xa lạ với họ. Như vậy thật là một sai lầm vô cùng lớn lao khi mô tả Phật giáo như một tôn giáo vô thần- nếu hiểu vô thần như phủ nhận sự hiện hữu của Thượng Đế[49].

            Đạo Phật tuy không để ý đến vấn đề Đấng Tạo Hóa nhưng qua những giáo lý để giúp con người sống tốt, bớt khổ và được giải thoát... rất sâu xa; chẳng hạn như “bát chính đạo”. Đặc biệt là phái Phật giáo sùng tín chủ trương rằng Bakti thay thế- hoặc ít là bổ túc- con đường trí tuệ[50].

            Ở Việt Nam đầu thế kỷ XX xuất hiện đạo Cao Đài, những người trong tôn giáo này cho rằng tôn giáo của họ được Thánh Thần mặc khải; Đấng Tối Cao họ thờ cũng chính là Yahweh của dân Israel, là Cha của đức Yêsu Kitô[51]. Những người theo tôn giáo này cho rằng đạo Cao Đài là dự định của Đấng Tối Cao nhằm thâu tóm tất cả các tôn giáo lớn trên hoàn vũ; họ coi đức Yêsu, đức Phật, đức Khổng Tử, Môsê là những người được Đấng Tối Cao sai tới, nhưng điểm tới của tất cả những tôn giáo ở Đông Tây trong quá khứ là đạo Cao Đài!

            Hồi giáo, một tôn giáo xuất hiện ở phương đông vào thế kỷ thứ VII sau đức Yêsu, tôn thờ Thiên Chúa của dân Do Thái. Những người theo đạo Hồi cho rằng đức Yêsu cũng là một vị tiên tri, nhưng vị tiên tri lớn nhất là Mahomet, người được Thiên Chúa mặc khải Lời và những lời này được chép laị trong kinh Koran. Với nhãn quan Kitô giáo, dù đạo Hồi có những sai lầm nhưng cũng có những điểm tích cực như tôn thờ Thiên Chúa độc nhất, giáo lý dạy làm lành lánh dữ và có nhiều nét tương đồng với Kitô giáo! Khoa tôn giáo đối chiếu cho cái nhìn khách quan về những điểm này.

            Những hàng viết về giá trị Kitô giáo của các tôn-giáo-ngoài-kitô trên đây rất thô sơ mộc mạc, và nó chỉ có tính gợi ý để dẫn tới một lập trường. Công việc nghiên cứu về vấn đề này rất bao la và phức tạp, cần có sự đóng góp của nhiều người. Để gút lại vấn đề giá trị của các tôn-giáo-ngoài-kitô, xin mượn lời của đức Hồng Y Daniélou: “truyền thống công giáo dứt khoát kết án những sai lầm hư nát nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô như thờ ngẫu tượng, phiếm thần, nhị nguyên. Truyền thống công giáo coi tất cả những điều đó như là lỗi thời khi đức Kitô, chân lý cao hơn đã đuợc bày tỏ. Nhưng truyền thống công giáo không phủ những giá trị tôn giáo đích thực nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô. Những giá trị tôn giáo này diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa- Đấng không ngừng cứu giúp con người. Những giá trị tôn giáo này cũng có thể được coi như “viên đá chờ đợi” đối với Do Thái giáo và Kitô giáo. Thánh Phaolô nói trong Công Vụ các sứ đồ: Thiên Chúa đã để các dân đi theo đường lối của họ, nhưng Ngài đã không ngừng gởi những chứng từ đến với họ, bằng cách ban cho họ mưa từ trời xuống cùng mùa màng hoa trái”[52].

            Tới đây người ta có thể khẳng định: Thiên Chúa đã mặc khải cho các tôn-giáo-ngoài-kitô. Nhưng nếu các tôn-giáo-ngoài-kitô được mặc khải, vậy tại sao có những sai lầm nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô? Vấn đề này sẽ được giải quyết trong phần tôn giáo ngoài-kitô là phương tiện cứu độ.

B. TÔN GIÁO NGOÀI-KITÔ LÀ PHƯƠNG TIỆN CỨU ĐỘ

            Các tôn-giáo-ngoài-kitô có là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người không?

            Chúa Yêsu dạy: “Không phải những kẻ nói Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21). “Có nhiều kẻ từ đông tây tới dự tiệc Nước Trời, còn con cháu trong nhà thì bị quẳng ra ngoài” (Mt.8, 11-12). Không phải cứ là kitô-hữu, cứ theo Kitô giáo, cứ là Công Giáo, là được cứu độ, nhưng những người được cứu độ là những người thực hiện ý định của Thiên Chúa! Vì thế, các tôn giáo ngoài-kitô, nếu là phương tiện cứu độ, thì cũng là phương tiện thứ yếu.

1. Những khó khăn

            Có hai yếu tố làm các nhà thần học khuynh hướng tiêu cực cho rằng các tôn-giáo-ngoài-kitô không là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ:

·        những sai lầm trong các tôn-giáo-ngoài-kitô;

·        các tôn-giáo-ngoài-kitô thường là hệ thống đóng kín với Tin Mừng đức Yêsu Kitô.

a. Sai lầm

            Người ta có thể liệt kê vài sai lầm trong giáo lý nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô, chẳng hạn:

·        Đạo Phật chủ trương luân hồi, nghĩa là, con người chết có thể đầu thai làm người hay làm con vật nếu họ không được giải thoát lên cõi niết bàn!

·        Hồi giáo coi đức Yêsu chỉ là một tiên tri lớn, chứ không phải là Thiên Chúa; đạo Công Giáo cũng như bao đạo khác, đều có điểm tới là Hồi Giáo. Mahomet là tiên tri lớn hơn đức Yêsu, vượt trên đức Yêsu!

·        Đạo Cao Đài cũng cho rằng đạo Công Giáo cũng là một trong các đạo khác, đức Yêsu cũng chỉ là một tiên tri lớn như bao các tiên tri lớn khác mà thôi!

            Khi bàn về mặc khải trong đạo Hồi, W. M. Watt cho rằng kinh Koran của Hồi giáo, xét về một khía cạnh nào đó và theo một ý nghĩa nào đó, là sản phẩm của sáng kiến thần linh và được mặc khải. Khi Watt dùng chữ “theo một ý nghĩa nào đó” nghĩa là ông chấp nhận có sai lầm trong kinh Koran[53]. Còn theo R. Latourelle, các tôn giáo lớn cứu độ như Ấn giáo, Phật giáo, là hoa trái của ân sủng cứu độ và là những kiểu mẫu giải thích ân sủng này, nhưng bởi vì thiếu tiêu chuẩn nhận định nên những lời giải thích mà các tôn giáo đó đề ra gồm cả những yếu tố nhân loại, những hàm hồ, những trệch đường, những sai lầm cùng với những yếu tố có giá trị thực[54]. Theo R. Latourelle, các tôn giáo là hoa trái của ân sủng cứu độ, bởi vì con người là con người lịch sử nên ân sủng cứu độ này được biểu lộ ra trong các nghi lễ, trong việc thực hành, trong ngôn ngữ; chính dưới tác động ân sủng này mà con người tìm hiểu trong lần mò, linh cảm thấy cách mơ hồ mầu nhiệm cứu độ. Hiểu như vậy các tôn giáo cứu độ duy trì một quan hệ tích cực đối với mặc khải thần linh, nhưng nội dung của nó phải được xác định và giải thích. Và chính mặc khải Kitô giáo là tiêu chuẩn nhận định đâu là công trình của ân sủng, và nguyên tắc giải thích là chính Thiên Chúa nơi đức Yêsu Kitô[55].

            Những chân lý và những giá trị tôn giáo đích thực nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô đều đến từ Thiên Chúa- nguyên nhân mọi sự tốt lành, còn những sai lầm và “thái độ đóng kín đối với Kitô giáo” là do con người!

b. Đóng kín với Kitô giáo

            Một điều rất khó giải quyết với những người nghiêng về lập trường tích cực, là sự kiện các tôn giáo ngoài-kitô ngăn cản các tín hữu trong các tôn giáo đó tin vào Đức Yêsu.

            Do Thái giáo sẽ giúp có câu trả lời.

i. Dothái giáo

            Cựu Ước của Dothái giáo, là lời Thiên Chúa mặc khải cho con người, và như vậy không thể sai lầm. Những điều này là đối tượng câu nói của đức Yêsu “trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết cũng không qua khỏi lề luật, trước khi mọi sự thực đã xảy ra” (Mt.5, 18). Nhưng nơi Do Thái giáo, không chỉ có Kinh Thánh, mà còn nhiều điều nữa như tập tục của tiền nhân, và đôi khi người ta coi tập tục tiền nhân trên cả linh truyền của Thiên Chúa (Mt.15, 1-20)! Người theo Do Thái giáo quá nô lệ vào luật nên không hiểu đúng lệnh truyền của Thiên Chúa (Mt.12, 1-14). Khi họ giải thích Lời Chúa như vậy, nghĩa là họ đem ý của con người, ý của họ làm ý của Thiên Chúa! Qua ánh sáng của đoạn Lời Chúa trên, người ta có thể kết luận: những gì sai lầm và thái độ đóng kín trước Tin Mừng của đức Yêsu Kitô đều đến từ con người, và con người là nguyên nhân của những sự đó. Con người ở đây hiểu là con người bị ảnh hưởng của tội!

            Do Thái giáo có Kinh Thánh Cựu Ước là mặc khải của Thiên Chúa, nhưng chỉ với Cựu Ước, Do Thái giáo chưa lãnh nhận trọn vẹn mặc khải. Đáng lẽ mặc khải Cựu Ước phải giúp họ tiếp nhận đức Yêsu nhưng họ đã từ chối Ngài vì thành kiến và tập tục tiền nhân (Yn.5, 46-47; 1, 11 Mt.15, ltt).

            Dothái giáo không tiếp đón Đức Yêsu, là thực trạng làm thánh Phaolô suy nghĩ và buồn phiền nhiều (Rm. 9-11). Tuy vậy theo thánh nhân, họ vẫn là dân rất được yêu quý bởi đã được tuyển chọn; Thiên Chúa đã không ân hận gì vì đã ban ơn và kêu gọi họ (Rm.11, 28-29).

            Họ cũng đã đáp trả mặc khải của Thiên Chúa bằng việc tin vào lời hứa của Thiên Chúa ban cho cha ông họ[56]. Nếu việc từ chối tin vào đức Yêsu không là do lỗi họ, họ vẫn được Thiên Chúa cứu độ!

ii. Các tôn giáo ngoài-kitô

            Các tôn-giáo-ngoài-kitô có những sai lầm nhưng cũng có những chân lý, có những yếu tố mặc khải. Những yêú tố mặc khải, chân lý đến từ Thiên Chúa nhưng những sai lầm đến từ con người, là công trình của con người. Sở dĩ vậy là vì con người đã đi quá những điều Thiên Chúa mặc khải, con người muốn có một hệ thống hợp lý chắc chắn. Họ chưa hoàn toàn bình tâm lắng nghe Thánh Thần, họ chưa chấp nhận những điều Thiên Chúa mặc khải như nó là. Đây là khuynh hướng chung của con người đã phạm tội hoặc như thái độ của Adam và Eva muốn được như Thiên Chúa mà độc lập với Thiên Chúa!

            Cái khó khăn cho những người làm công tác thần học về tôn-giáo-ngoài-kitô là phải nhận định xem đâu là mặc khải của Thiên Chúa và đâu là yếu tố nhân loại; câu trả lời trên chỉ là một soi sáng giúp biết hướng nghiên cứu và cũng cho thấy giá trị không thể thay thế của mặc khải Kitô giáo!

2. Tôn giáo- phương tiện cứu độ thứ yếu

            Câu hỏi “các tôn-giáo-ngoài-kitô có là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người không?” trở thành “các tôn-giáo-ngoài-kitô có là dụng cụ Thiên Chúa dùng cứu độ con người không?”, và “Thiên Chúa có mặc khải cho những người trong các tôn-giáo-ngoài-kitô không?”. Nếu Thiên Chúa đã mặc khải trong các tôn-giáo-ngoài-kitô, thì những người trong các tôn-giáo-ngoài-kitô có thể đáp trả tùy tự do của họ, và do đó họ có thể được cứu rỗi, và như vậy các tôn-giáo-ngoài-kitô cũng là phương thế Thiên Chúa dùng để cứu độ con người sống trong tôn giáo đó.

            Vì Thiên Chúa mặc khải Ngài trong mỗi tôn giáo theo mức độ khác nhau, nên giá trị cứu độ của mỗi tôn giáo cũng khác nhau. Nơi Kitô giáo, mặc khải đã đạt đến đỉnh cao nơi đức Yêsu Kitô, nên Kitô giáo là phương tiện cứu rỗi cần thiết (cf. L.G.14); còn các tôn giáo khác, có thể nói, là phương tiện cứu rỗi cần thiết theo mức độ.

            Trong phần trình bày về lập trường thần học các tôn-giáo-ngoài-kitô người ta đã thấy các tôn-giáo-ngoài-kitô có những yếu tố mặc khải và cũng có những yếu tố thuần túy nhân loại, có những chân lý nhưng cũng có sai lầm. Chính nhờ những yếu tố mặc khải mà các tôn-giáo-ngoài-kitô có giá trị cứu độ! Những yếu tố nhân loại và sai lầm nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô có thể trở thành cơ cấu ngăn cản con người tiếp nhận Tin Mừng đức Yêsu Kitô- Đấng không chỉ hoàn tất lề luật và các tiên tri của Israel nhưng còn của các tôn giáo và dân tộc khác nữa[57].

            Nơi Kitô giáo, tuyệt đỉnh mặc khải là đức Yêsu Kitô; con người được cứu độ khi đáp trả mặc khải này bằng tin vào đức Yêsu. Nơi các tôn giáo khác người ta được cứu rỗi nhờ tin vào Tuyệt Đối qua mặc khải trong các tôn giáo họ theo. Sau đây sẽ tìm hiểu giá trị cứu độ của các tôn-giáo-ngoài-kitô và ngay cả của những người không sống trong một tôn giáo nào.

a. Được cứu độ nhờ tin

            “Phương tiện cứu độ” ở đây được hiểu như phương tiện thứ yếu, vì tất cả mọi người, dù người đó là ai chăng nữa, nếu được cứu độ là được cứu độ nhờ đức Yêsu Kitô. Hơn nữa một người được cứu hay không, là do chính thái độ của người đó với Thiên Chúa, với đức Yêsu Kitô, với mặc khải của Ngài. Như vậy, “được cứu độ” là một biến cố có tính cá nhân giữa Thiên Chúa và chính đương sự chứ không do một cơ cấu tôn giáo. Con người có được cứu độ hay không, là tùy người đó có đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa mặc khải qua lương tâm, qua vũ trụ thiên nhiên, qua sự khôn ngoan và chân lý Thiên Chúa đã ban cho lý trí nhận ra, qua mặc khải Ngài ban cho một số người để từ người đó đến với nhiều người, qua mặc khải đặc biệt Ngài tỏ lộ nơi một dân tộc.

            Con người đáp trả mặc khải này bằng đức tin, vì “không có đức tin thì vô phương làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Hb.11, 6).

b. Giá trị cứu độ của các tôn giáo

            Đức tin là lời đáp trả của con người đối với Thiên Chúa mặc khải, bằng việc ưng thuận và dấn thân trọn vẹn. Việc đáp trả này nói theo ngôn từ của thánh Phaolô là “sự vâng phục của đức tin”[58]. Thiên Chúa mặc khải cho con người theo mức độ tùy ý Ngài, và con người cũng đáp trả theo mặc khải Thiên Chúa ban.

i. Người sống theo lương tâm

            Những người sống theo lương tâm ở đây, muốn chỉ đặc biệt những người không nhận biết Thiên Chúa. Họ còn được gọi là người vô thần. Với những người này, Giáo Hội công giáo dạy rằng “tất cả những kẻ chưa nhận biết Thiên Chúa rõ ràng nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi” (LG.16).

            Những người này cũng đã lãnh nhận mặc khải phổ quát qua thiên nhiên và lương tâm. Tuy không nhận biết Thiên Chúa nhưng họ đã đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa- dù họ không biết- bằng cách vâng nghe tiếng lương tâm. Công Đồng cũng dạy: “nhờ lương tâm, con người nhận thức và hiểu biết những mệnh lệnh của lề luật Chúa... Vì vậy không ai bị cưỡng bách hành động trái với lương tâm, cũng như không ai bị ngăn cấm hành động theo tiếng lương tâm nhất là trong lãnh vực tôn giáo” (D.H.3). Kitô hữu có luật tình yêu, người Do Thái giáo có thập giới, còn người theo lương tâm sống theo luật được ghi khắc trong lòng (cf. Rm.2, 15).

            Nơi những người “sống theo lương tâm” này, còn phải kể những người không sống trong một tôn giáo nào, nhưng họ tin nhận có một Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối. Những người này đã nhận ra Thiên Chúa và tin tưởng nơi Ngài. Đây là những người mà Công Đồng đã đề cập đến: “Con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể từ các tạo vật nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên lý và cứu cánh mọi sự” (Rm.1, 20; cf. D.V.6).

            Như vậy những người sống theo tiếng lương tâm vẫn được Thiên Chúa ban ơn cứu độ dù họ không có ở trong cơ cấu tôn giáo nào! Có thể nói mà không sợ sai lầm: họ được cứu độ nhờ đức Yêsu Kitô và qua lương tâm của họ.

ii. Các tôn giáo ngoài-kitô

            Tín hữu đạo Cao Đài, ï tin vào Thượng Đế. Với họ, Đấng ngự nơi Cao Đài chính là Yavê của Israel và là Cha của đức Yêsu. Tuy họ có nhiều sai lầm nhưng cũng vẫn được những cơ cấu tôn giáo giúp đỡ để sống niềm tin vào Đấng Tuyệt Đối[59].

            Với các tôn giáo đông phương như Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, tôn giáo phản ảnh cách suy nghĩ và diễn tả văn hóa của mỗi dân tộc. Điều này muốn nói, ngay khi người ta diễn tả cùng một thực tại, mỗi dân tộc có những cách diễn tả khác nhau!

            Với người đông phương, hư vô là nền tảng của mọi hiện hữu, là “nơi” cuối cùng của tất cả, thậm chí của cả vô hữu; như vậy Hư Vô có đặc tính siêu hình mà triết lý kitô gán cho Thiên Chúa. Đối với người tây phương, Hư Vô tuyệt đối là một khái niệm khó hiểu; còn đối với người đông phương Hư Vô là nền tảng, con đường của tư duy[60]. Lão giáo và Khổng giáo nhấn mạnh đến khía cạnh sống của con người, cũng như Phật giáo, có những lời dạy bảo và những con đường tập luyện sống tốt, thành nhân và hữu dụng với đời! Nếu đem so sánh những lời của Khổng, Lão và đức Phật với văn chương khôn ngoan Cựu Ước, theo khía cạnh nhân loại mà nói, người ta thấy chúng không kém uyên thâm và ý vị! Theo thiển kiến, nơi những tôn giáo này người ta có thể tìm thấy nhiều điểm tương đồng với giáo lý Kitô giáo! Ấn Độ giáo đặt nặng niềm tin vào Tuyệt Đối và khía cạnh nghi lễ, và điều này không hoàn toàn xa lạ với Kitô giáo[61].

            Ơn cứu độ cho những người sống trong các tôn-giáo-ngoài-kitô đã được Công Đồng đề cập đến: “những kẻ đang tìm đến Thiên Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bởi vì chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự, và vì là Đấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người được cứu rỗi. Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi” (LG.16). Công Đồng khẳng định những người sống trong các tôn-giáo-ngoài-kitô được cứu độ qua lương tâm, nhưng không đề cập đến khía cạnh cứu độ qua tôn-giáo-ngoài-kitô, họ vẫn thuộc về dân Thiên Chúa. Sở dĩ vậy vì công đồng chưa thấy vấn đề này được giải quyết rõ ràng, nên để ngỏ vấn đề này cho các nhà thần học!

            Trong các tôn-giáo-ngoài-kitô phải kể đến Hồi giáo[62], Công Đồng cho rằng “họ giữ đức tin của Abraham; cùng với chúng ta, họ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, nhân từ, Đấng phán xét loài người trong ngày sau hết” (LG.16).

iii. Một minh họa

            Sau khi đã xét vấn đề mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô, chúng ta có thể kết luận: các tôn-giáo-ngoài-kitô có giá trị cứu độ tùy theo mức độ chúng mở ra với tin mừng đức Yêsu Kitô. Một tôn giáo càng là một hệ thống chặt chẽ theo kiểu con người, càng khó đón nhận tin mừng đức Yêsu Kitô, càng có ít giá trị cứu độ, bởi vì ở đó yếu tố con người đã ngăn cản con người đón nhận mặc khải! Trên nguyên tắc một tôn giáo càng có nhiều mặc khải, càng dễ đón nhận đức Yêsu như điểm tới của mặc khải.

            Nếu được dùng đường biểu diễn để diễn tả giá trị cứu độ nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô chúng ta sẽ trình bày như ở hình bên cạnh:

trục tung chỉ giá trị cứu độ;

trục hoành để ghi giá trị mặc khải nơi các tôn giáo theo thứ tự:

·        người sống theo lương tâm không nhận biết Thiên Chúa,

·        người sống theo lương tâm và nhận biết Thiên Chúa,

·        các tôn-giáo-ngoài-kitô như Cao Đài, Phật giáo, Ấn Độ giáo, Khổng và Lão giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo,

·        Kitô giáo và đặc biệt Công Giáo. Công giáo có giá trị mặc khải nhất (các tôn giáo được xếp trước sau chỉ có tính cách gợi ý và thí dụ).

Đường biểu diễn chỉ giá trị cứu độ của các tôn giáo là một nhánh hyperbol nhận giá trị cứu độ của Kitô giáo công giáo làm đường tiệm cận. Đây chỉ là các diễn tả biểu trưng.

C. VIỄN TƯỢNG MỚI

            Với câu trả lời trên về các tôn-giáo-ngoài-kitô, một cái nhìn mới xuất hiện trong tương quan với các tôn giáo ngoài-kitô. Một số vấn đề như tự do tôn giáo, đối thoại tôn giáo, truyền giáo, đức Yêsu Kitô và tương quan giữa Giáo hội công giáo với các tôn-giáo-ngoài-kitô sẽ được đề cập, nhưng trước hết nói sơ qua về những khó khăn đã gặp phải trong lập trường tích và tiêu cực về tôn-giáo-ngoài-kitô.

1. Dung giải những khó khăn

            Với các thần học gia chủ trương các tôn giáo ngoài-kitô đầy dẫy những sai lầm nên không thể là công trình của Thiên Chúa cũng như không thể nằm trong chương trình của Thiên Chúa được, xin trả lời tóm tắt:

·        những sai lầm và khuyết điểm trong các tôn giáo ngoài-kitô không đến từ Thiên Chúa, nhưng đến từ con người và là công trình của con người;

·        các tôn giáo ngoài-kitô vẫn là phương tiện cứu độ “thông thường”, “cần thiết theo mức độ” cho những người sống trong tôn giáo đó, khi họ theo tôn giáo đó với ý hướng ngay lành.

Câu trả lời này, cũng có thể được dùng để trả lời những người cho rằng các tôn giáo ngoài-kitô là dụng cụ Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, nhưng đã không trả lời được vấn nạn về những sai lầm trong các tôn giáo ngoài-kitô!

            Sự kiện có các nhà thần bí cũng như có những điểm giáo lý tương đồng giữa các tôn-giáo-ngoài-kitô và Kitô giáo cũng có thể giải thích ổn thỏa với câu trả lời này, vì những điều tốt lành đó đều đến từ Thiên Chúa- nguồn mọi sự tốt lành.

2. Truyền giáo

            Một số nhà truyền giáo quan niệm rằng tất cả những người không được rửa tội đều không được cứu độ, nên vì bác ái Kitô giáo, họ cố gắng rửa tội cho nhiều người hết sức có thể, ngay cả khi đương sự không đồng ý! Ngày nay với quan niệm về ơn cứu độ các dân ngoại của Công Đồng Vatican II, người ta tôn trọng tự do con người hơn, đặc biệt về khía cạnh tự do tôn giáo.

            Theo Công Đồng, con người có quyền tự do tôn giáo; nghĩa là, con người không bị lệ thuộc vào áp lực cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác trong những giới hạn chính đáng (DH.2)[63].

            Dù con người có quyền tự do tôn giáo[64] và cho dù các tôn-giáo-ngoài-kitô cũng là phương tiện cứu rỗi “theo mức độ”, thì không phải vì đó mà Kitô hữu được lơ là, chểnh mảng việc rao giảng tin mừng đức Yêsu Kitô cho những người chưa nhận biết Ngài! Mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng là mệnh lệnh của đức Yêsu, và như vậy không ai có quyền từ chối hoặc trốn tránh.

            Thực sự, tiếng những người rao giảng tin mừng đức Yêsu Kitô đã vang đến cùng trái đất, nhưng vẫn còn nhiều người chưa tin nhận đức Yêsu! Để tin vào đức Yêsu Kitô, ngoài việc được nghe rao giảng, còn cần ơn của Thánh Thần Thiên Chúa.

            Giả sử ơn Thánh Thần luôn đủ, thì sự kiện nhiều người không chấp nhận tin mừng đức Yêsu buộc người ta phải suy xét:

gương mặt đức Yêsu có được trình bày trung thực khả dĩ có thể chấp nhận không?

hay gương mặt Ngài đã được tô vẽ theo kiểu riêng khiến không thể chấp nhận được?

Trong phần tìm hiểu về các tôn-giáo-ngoài-kitô, cùng một Thực Tại Tuyệt Đối được diễn tả theo những cách khác nhau của mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa. Vậy để tin mừng đức Yêsu Kitô được những người trong những nền văn hóa khác nhau dễ chấp nhận, phải trình bày tin mừng đức Yêsu Kitô theo não trạng và cách suy nghĩ khả dĩ người ta có thể chấp nhận được!

            Hơn nữa, nếu các tôn-giáo-ngoài-kitô có những yếu tố được mặc khải, thì những người truyền giáo phải khai thác những điều đó và cho thấy Tin Mừng đức Yêsu không hủy bỏ nhưng làm tôn giáo họ đang theo nên trọn hảo! Chính vì vậy phải tích cực tìm hiểu, nghiên cứu các tôn-giáo-ngoài-kitô, xem đâu là yếu tố được mặc khải, đâu là yếu tố con người nơi các tôn giáo đó. Nếu hiểu được não trạng của từng dân tộc và những điều chân thật nơi tôn giáo họ đang theo, người ta sẽ trình bày Tin Mừng đức Yêsu sáng sủa và dễ được chấp nhận hơn!

            Như vậy, công tác truyền giáo trong hoàn cảnh hôm nay bao gồm cả công tác “hội nhập văn hóa”! Nhận ra những nét đẹp kitô giáo nơi các nền văn hoá và tôn-giáo-ngoài-kitô là công việc của các thần học gia của thế kỷ hiện tại, đây là công việc khó khăn và rộng lớn, đòi sự cộng tác của nhiều người và không thể hoàn thành một sớm một chiều!

3. Vị thế ưu việt của đức Yêsu Kitô

            Dù những người sống trong tôn-giáo-ngoài-kitô không tin đức Yêsu là Đấng mang lại ơn cứu độ cho họ, nhưng thật sự, ai được cứu rỗi cũng được cứu nhờ đức Yêsu Kitô! Dù người ta biết hay không biết, đức Yêsu vẫn là điểm tới của những yếu tố tốt lành nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô. Đức Yêsu là đỉnh cao và là Đấng hoàn tất mọi mặc khải, kể cả những mặc khải xảy ra sau biến cố Yêsu Kitô!

            Các tôn-giáo-ngoài-kitô là “phương tiện cứu độ”, mặc dù chỉ là phương tiện cần thiết theo mức độ, vậy Kitô giáo có còn là tôn giáo trỗi vượt trên các tôn-giáo-ngoài-kitô không? Và nếu trỗi vượt thì trổi vượt về phương diện nào?

            Đứng trên phương diện nhân loại, nếu so sánh giữa hai nếp sống của hai người bình thường, một công giáo, và một ngoại đạo, người ta thấy khó có thể nói ai sống tốt hơn ai! Chính vì nếp sống của người Kitô hữu không làm cho người ngoại nhận thấy ưu việt tính của Giáo Hội công giáo nên khi rao giảng Tin Mừng, khi mời gọi họ tin vào đức Yêsu Kitô, người ta thường gặp câu trả lời: “vào đạo để làm gì? những người công giáo đâu có sống tốt hơn chúng tôi?”!

            Nói trên nguyên tắc, người công giáo phải sống tốt hơn người ngoại, vì họ lãnh nhận mặc khải trọn vẹn hơn! Kitô hữu phải sống khác một người ngoại đạo vì họ thấy ý nghĩa cuộc đời, thấy cùng đích đời họ rõ hơn. Cứ lý mà nói, người công giáo dễ được cứu độ hơn người ngoại, vì họ theo con đường đúng nhất; nhưng thực tế, mỗi người được cứu độ hay không là do thái độ sống, cách mỗi người đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày! Chắc chắn Giáo Hội công giáo trổi vượt trên các tôn giáo khác, và điều này thể hiện đặc biệt trong nội dung mặc khải. Kitô giáo có những nét mặc khải đặc thù mà các tôn giáo khác không có!

Những điều không là mặc khải Kitô giáo

            Mặc khải Kitô giáo không là một ngộ thuyết, một tri thức huyền bí chỉ dành cho một thiểu số người và không liên quan gì đến lịch sử nhân loại. Mặc khải Kitô giáo cũng không là một sự khải ngộ đơn thuần của Thần Khí, thông ban trực tiếp những bí mật thần linh trên trời. Mặc khải Kitô giáo cũng không là một kinh nghiệm không rõ ràng về thần linh: một sự gặp gỡ khôn tả mà người ta không biết nó làm sao và cũng không biết diễn tả thế nào! Mặc khải Kitô giáo cũng không là một học thuyết về con người nhằm bàn về ý nghĩa con người, cuộc hiện hữu và tiến bộ của con người117.

Nét đặc biệt của mặc khải Kitô giáo

            Mặc khải Kitô giáo là mặc khải mang tính lịch sử, xảy ra trong lịch sử và với những biến cố có lời giải thích. Cuộc Xuất Hành khỏi Aicập được dân Thiên Chúa xác tín rằng chính Thiên Chúa là người chủ động trong cuộc ra đi này. Các tiên tri cũng như bao người (nơi các truyền thống Yaviste, Eloiste, Đệ Nhị Luật, tư tế, ký sự) đã suy tư trên những biến cố này cũng như bao biến cố trong lịch sử dân Israel và đã nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa. Mặc khải của Do thái giáo và cũng là của Kitô giáo xảy ra trong dòng lịch sử kèm theo lời giải thích. Mặc khải này có tiến trình là lời hứa và sự hoàn tất lời hứa trong lịch sử[65]. Những mặc khải trong các tôn giáo không-kitô, tuy cũng xảy ra cho một người nào đó trong dòng lịch sử, nhưng không phải là những biến cố xảy ra nơi lịch sử của một dân tộc và có thể kiểm chứng lịch sử này qua khoa học. Có thể nói, mặc khải Kitô giáo khởi đầu với mặc khải phổ quát, nhưng với Abrahm, Thiên Chúa đã can thiệp đặc biệt và trực tiếp hơn để chuẩn bị cho cuộc tỏ hiện trọn vẹn của Ngài nơi Đức Yêsu Kitô.

            Mặc khải của Do Thái giáo chưa hoàn toàn là mặc khải của Kitô giáo. Mặc khải Kitô giáo trổi vượt nhờ biến cố Yêsu Kitô. Nơi Đức Yêsu Kitô, Thiên Chúa mặc khải trọn vẹn cho con người. Đức Yêsu vừa là mầu nhiệm mặc khải, vừa là mầu nhiệm được mặc khải. Ngài vừa là người mặc khải, vừa là đối tượng mặc khải. Không có một tôn giáo nào mà người sáng lập coi mình là đối tượng đức tin như Kitô giáo. Nơi Kitô giáo, gặp gỡ Đức Yêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa:

“ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga. 14, 9)

“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga. 14, 6).

Đức Yêsu không chỉ là người sáng lập tôn giáo, nhưng Ngài là chính lịch sử và tuyệt đối trong lịch sử[66].

            Mặc khải Kitô giáo với Đức Yêsu Nazarét là điểm độc đáo trổi vượt trên tất cả các mặc khải khác, dù đó là mặc khải gì đi nữa và trong bất cứ tôn giáo nào. Mặc khải là việc Thiên Chúa đi vào dòng lịch sử con người; nhưng với biến cố Đức Yêsu Kitô, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người, bằng cách mang lấy thân xác con người: Thiên Chúa là người, và người này là Thiên Chúa. Đức Kitô là sự hiển lộ tột đỉnh của Thiên Chúa[67].

            Mặc khải Kitô giáo là nhiệm cục cứu độ con người, được chính Thiên Chúa Ba Ngôi thực hiện. Ngôi Cha khai sáng, ngôi Con thực hiện, và Thánh Thần nội tâm hoá, hiện thực hoá và bảo đảm cho mặc khải này được giải thích cách trung thành. Nhiệm cục này được chuẩn bị bằng lời hứa, giao ước, lề luật, đền thờ cũng như bằng biến cố xuất hành, vào đất hứa, v.v.; nhưng đặc biệt với các sấm ngôn của tiên tri, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho biến cố đức Yêsu Kitô là chóp đỉnh mặc khải. Tất cả mặc khải trong Cựu Ước của Do Thái đã được biến cố Yêsu Kitô vượt qua, làm nên trọn121.

            Việc bảo toàn mặc khải qua những đặc ân linh ứng, lưu truyền mặc khải, giải thích mạc khải. Đây là công trình của Thánh Thần Thiên Chúa chứ tự sức con người không làm nổi!

            Nhờ đặc ân linh ứng, lời con người trở thành Lời Thiên Chúa; và nhờ đặc ân không thể sai lầm được ban cho huấn quyền trong Giáo Hội, lời Thiên Chúa được giải thích trung thành!122. Với đặc điểm này của mặc khải Kitô giáo, có thể nói, sở dĩ tôn-giáo-ngoài-kitô có những sai lầm là vì nó không được ban những đặc ân này.

            Các tôn-giáo-ngoài-kitô cũng chứa đựng những yếu tố mặc khải. Câu khẳng định này không đưa đến một thái độ lừng khừng, coi tôn giáo nào cũng tốt như nhau; trái lại niềm xác tín tính ưu việt của mặc khải Kitô giáo và Giáo Hội công giáo, giúp kitô-hữu can đảm và mạnh dạn đối thoại với các tôn-giáo-ngoài-kitô, nhằm tìm ra đâu là chân lý và giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa trong sự viên mãn của Ngài. Khi xác tín mặc khải Kitô giáo đã được thể hiện nơi đức Yêsu Kitô, kitô-hữu không được tự mãn cho rằng mình đã khám phá trọn vẹn những gì Thiên Chúa bày tỏ nơi Con Một Ngài, nhưng phải khiêm nhượng ý thức, Thần Khí Thiên Chúa có thể hoạt động nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô và cách nhìn của những dân tộc này có thể giúp khám phá những phong phú của mặc khải đức Yêsu hơn. Khi nhận ra các tôn-giáo-ngoài-kitô sở hữu những yếu tố mặc khải, kitô-hữu tìm thấy ý nghĩa của việc đối thoại với các anh em sống trong tôn-giáo-ngoài-kitô hơn, và giúp đối thoại trong niềm hy vọng và tin tưởng lẫn nhau hơn!

            Chúng ta đã tìm hiểu giá trị cứu độ nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô bằng cách duyệt qua những lập trường khác nhau trong dòng lịch sử, sau đó tìm hiểu vấn đề mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô; chính yếu tố mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô đã giúp nhận ra giá trị cứu độ của các tôn-giáo-ngoài-kitô; nhưng không phải tất cả các tôn giáo đều chứa đựng những yếu tố mặc khải như nhau, vì nơi tôn-giáo-ngoài-kitô người ta cũng nhận ra những yếu tố nhân loại! Chính những yếu tố con người này đã ngăn cản người ta đón nhận Tin Mừng đức Yêsu Kitô, và nó là nguồn gốc những sai lầm!

            Các tôn-giáo-ngoài-kitô có những yếu tố mặc khải không đồng nhau, nên giá trị cứu độ của mỗi tôn giáo cũng khác nhau. Nhiệm vụ của chúng ta trong tương lai là làm sáng “mặc khải trọn vẹn nơi đức Yêsu” bằng cách tìm ra những giá trị mặc khải nơi các tôn-giáo-ngoài-kitô, và khi làm được như vậy, sẽ giúp có nhiều người trong các tôn-giáo-ngoài-kitô tin nhận đức Yêsu hơn!

 

AD MAIOREM DEI GLORIAM


 

SÁCH THAM KHẢO

Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse, TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968, FV. 27

F. CAYRÉ, Précis de Patrologie, t. I, PARIS 1927

E. CONZE, Buddhism its essence and development, OXFORT 1951

bản dịch của NGUYỄN HỮU HIỆU, Tinh Hoa và sự phát triển của Đạo Phật, VẠN HẠNH 1969

E. CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non chrétiennes, CERF 1965

J-A. CUTTAT, Expérience chrétienne et spiritualité orientale, DDB 1967- FV. 56

J. DANIÉLOU, Dieu et nous, PARIS 1965

J. DANIÉLOU, Holy pagans of the Old Testament, 1957

H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l’histoire, CERF 1974

P. DE SURGY, Les grandes étapes du mystère du salut, OUVRIÈRE 1969

J. DOURNES, trong UNAM SANCTAM 61, pp. 84ss

A. DREXEL, Ngôi Lời Nhập Thể, GHHV- không ngày (cours ronéotypé)

ĐẠI HỌC, bản dịch của PHẠM NGỌC KHUÊ, xb. BGD.1967

M. ÉLIADE, Le sacré et le profane, NRF-GALLIMARD 1965

M. HEINRICHS, Théologie catholique et pensée asiatique, CASTERMAN 1965

KINH PHÁP CÚ, bản dịch của THÍCH TRÍ ĐỨC, xb. PHẬT HỌC VIỆN TRUNG THẦN- CHỢ LỚN 1959

KINH THƯ, bản dịch của THẨM QUỲNH, BGD xuất bản

H. KRAEMER, Religion and Christian Faith, LONDERS 1956

R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB. 1966

R. LATOURELLE, La spécificité de la révélation chrétiennes,

trong STUDIA MISSIONALIA, vol. 20 (1971)-GREGORIANA-ROMA 1971

J. MASSON, Valeurs religieuses de l’Hindouisme,

trong UNAM SANCTAM 61, pp.161ss

M.T. NÀRADA, Buddha and his teachings,

bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật Pháp, SAIGON 1971

R. PANIKKAR, Le mystère du culte dans l’Hindouisme et le Christianisme, CERF 1970

G. PARRINDER, Revelation in others Scriptures,

trong STUDIA MISSIONALIA, vol.20 GREGORIANA-ROMA 1971

HOÀNG SỸ QÚY, Triết sử Ấn Độ, tập I, HGVD-SAIGON không ngày

K. RAHNER, Visions and Prophecies, HERDER-FREIBURG 1963, Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 10

H. R. SCHLETTE, Towards a Theology of Religions, LONDON 1966, Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 14

TRƯƠNG VĨNH THÀNH, Pháp Chính Truyền,

La constitution religieuse du Caodaisme, DERVY 1953

G. THILS, Propos et Problèmes de la théologie des religions non chrétiennes, CASTERMAN 1966

TRUNG DUNG, bản dịch của TẠ THANH BẠCH, xb. KHAI TRÍ 1960

J-H. WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde, CERF 1970

 

 


HOME    THẦN HỌC    TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ          TGN1          TGN2

 

 

Chúc bạn an vui hạnh phúc.

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

[email protected]

 



[1]J. H. WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde, CERF 1970, p. 171

[2]N. JUNG, art. “Révélation”, DICT. THÉOL. CATH., t. 13, c. 2586 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 84

[3]K. BARTH, Dogmatique, vol. II, t. 2 Gottes Offenbarung als Aufhebung der Religion trích bởi G. THILS, op. cit., p. 46

[4]L. S. THORNTON, Revelation in the modern world, OXFORD UNIV. PRESS 1950, pp. 60. 194 trích bởi G. PARRINDER, Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA, vol. 20, GREGORIANA-ROMA 1971

[5]G. PARRINDER, ibidem, p. 103

[6]PAUL VI, Ecclesiam suam, n. 72 trích bởi H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l’histoire, CERF 1974, p. 29

[7] Révélation primitive

[8]G. THILS, op. cit., p. 100

[9]R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, pp. 362-363 cité par G. THILS, op. cit., p. 13

[10]R. LATOURELLE, art. cit., trong STUDIA MISSIONALLA, vol. 20, p. 47

[11]J-H. WALGRAVE, op. cit., p. 171

[12]Ibidem

[13]K. RAHNER, Visions and Prophecies, HERDER-FREIBURG 1963, col. QUESTIONES DISPUTATAE 10, pp. 19-20. 23

[14]Ibidem, p. 24

[15]Ibidem, p. 24-25

[16] Mặc khải riêng tư có tính tiên tri.

[17]Ibidem, p. 27

[18]Ibidem, p. 13

[19]Ibidem, p. 19

[20]Ibidem, p. 23

[21] Khi có tiêu chuẩn khác thì người ta có cách phân chia và có tên gọi khác, chẳng hạn như theo thời gian thì có mặc khải tiên khởi, mặc khải thời Cựu Ước, mặc khải Tân Ước...

[22] TCN: Trước Công Nguyên

[23]E. CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, PARIS-CERF 1965, p. 31 trích bởi G. THILS, op. cit, p. 109

[24]A. M. WENSINCK, The muslim Creed, 2nd. édition, CASS-LONDON 1965, p. 189 trích bởi G. PARRINDER, art. cit., STUDIA MISSIONALIA, vol. 20, pp. 101-102

[25]Th. P. VAN BAAREN, Voorstellingen van openbaring, phaenomenologisch beschouwd, UTRECHT 1951 trích bởi J-H WALGRAVE, op. cit., p. 170

[26] mặc khải triết lý và mặc khải huyền nhiệm tiên tri

[27] mặc khải lịch sử với lời giải thích, và mặc khải nơi Yêsu Kitô.

[28] Mặc khải triết lý, được các giáo phụ cho là công trình của Logos spermatikos.

St. JUSTIN, Apol. I, 46; II, 10. 13 trích bởi G. THILS, op. cit., pp. 96ss

Cf. R. HOLTE, Logos spermatikos, STUDIA THEOLOGICA 12 (1958), pp. 109-168.

[29] giáo sư tại đại học giáo hoàng Grégoriana ở Roma.

[30] R. LATOURELLE, La spécificité de la révélation chrétienne, trong STUDIA MISSIONALIA, vol. 20, GREGORIANA 1971, p. 69

[31] M. ÉLIADE, Le sacré et le profane, nrf-GALLIMARD 1965, p. 15

[32]É. CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, CERF 1965, p. 58

[33]A. HOLPIAU, Pourquoi tant de religions, PARIS 1955, pp. 58ss

cf. M. HEINRICHS, op. cit., pp. 72-73

[34] Người không ưa cho đây là lập trường ba phải, người chấp nhận lại cho đây là lập trường bao dung.

[35] Hữu năng điển trẫm tam lễ. Tam lễ ở đây là tế trời, tế đất, tế bách thần.

KINH THƯ, Thuấn Điển, 23; bản dịch của THẨM QUỲNH, BGD xb, p. 53

[36] Giao Xã chi lễ, sở dĩ sự Thượng Đế giã.

TRUNG DUNG, 19; bản dịch của TẠ THANH BẠCH, KHAI TRÍ SG 1960, p. 43

[37] KINH THƯ; bản dịch của Thẩm Quỳnh, pp. 214-218

Tôi là tiểu tử đã dùng được người có lòng nhân, dám xin kính thưa ý Đấng Thượng Đế để dẹp thời loạn (Vũ Thành 2); Kính theo mệnh trời, nên ta đến phương đông dẹp loạn, để dàn ông, đàn bà, dân gian được vui (Vũ Thành 8).

[38] ĐẠI HỌC; Bản dịch của PHẠM NGỌC KHUÊ, BGD. 1967, pp. 14-16

[39] Làm sao để biết mệnh Trời, ý Trời?

Vua Thành Vương tìm ý Trời bằng cách coi bói rùa: “Ninh Vương di ngã đại quy bảo, thiệu thiên minh tức mệnh viết. . . ” (Vua Ninh Vương- tức Vũ vương- để lại cho ta con rùa to rất quý, dùng để xem mệnh trời, định các việc xấu tốt)

cf. KINH THƯ, Đại các 3, bản dịch của Thẩm Quỳnh, BGD xb, p. 253

[40]cf. J-H. WALGRAVE, op. cit, p. 44

[41]Kena-Upanisad, I, 3 trích bởi HOÀNG SỸ QUÝ, Triết sử Ấn Độ, tập I, HGVD-SG, p. 33

[42]Svetâsvatara-Upanisad III, 9, 19

[43]Brhad Ar. Up., IV, 5, 3-6 trích bởi J. MASSON, Valeurs religieusesse l’Hindouisme, UNAM SANCTAM 61, pp. 16ss

[44]Ibidem, Brhad Ar. Up., I. 3, 28

[45]Kinh pháp cú, c. 276

dịch giả THÍCH TRÍ ĐỨC, Phật Học Viện Trung Phần, CHỢ LỚN 1959

cf. NARADA M. T., Buddha and His teachings, bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, đức Phật và Phật pháp, SG. 1971, p. 291

[46]NARADA M. T., op. cit, pp. 289-290

[47]Ibidem, p. 291

[48]E. CONZE, Buddhism its essence and development, OXFORD 1951

bản dịch của NGUYỄN HỮU HIỆU, Tinh Hoa và sự phát triển của đạo Phật, VẠN HẠNH -SG. 1969, p. 71

[49]Ibidem, p. 77

[50] Trước người ta cho rằng đó là con đường duy nhất để được cứu độ.

Để thấy rõ hơn giá trị tôn giáo của Phật giáo, có thể đọc lại các sách của E. Cornélis và J. Masson, J. Cuttat trong những sách đã trích dẫn trong bài này.

[51]Phối Sư TRƯƠNG VĨNH THÀNH, Pháp Chính Truyền, la constitution religieuse du Caodaisme, DERVY 1953, p. 14

[52]J. DANIÉLOU, Dieu et nous, GRASSET-PARIS 1956, p. 16

[53]cf. G. PARRINDER, Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA vol. 20 (1971), GREGORIANA-ROMA 1971, p. 104

[54] R. LATOURELLE, La spécificité de la Révélation chrétienne, Studia Missionalia, pp. 72-73

[55] Ibidem, p. 73

[56] H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l”histoire, CERF 1974, pp. 88-89

[57] Cf. R. C ZAEHNER, At sundry times, LONDORES 1958, p. 184

trích bởi J-H WALGRAVE, op. cit., p. 173

Xem thêm ý kiến của một số thần học gia công giáo họp tại Bambay được J. NEUNER xuất bản với tựa đề Christian Revelation and World Religions, tại LONDON

[58] H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l’histoire, CERF 1974, p. 85

[59] Xem thêm ýkiến về các tôn-giáo-ngoài-kitô của P. DE SURGY, Les grandes étapes du mystère du salut, OUVRIÈRES 1969, pp. 201-202

[60] KIRATO NISHIDA, A Study of Good, TOKYO 1960, pp. 212. 216

KIRATO NISHIDA, Intelligibility and the philosophy of nothingness, được dịch và giới thiệu bởi Schinzinger. Trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., pp. 27-28

[61] Cf. R. PANIKKAR, Le mystère du culte dans l’Hindouisme et le Christianisme, CERF 1970- COGITATIO FIDEI 53

[62] Cha A. Drexel, giáo sư tại Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đàlạt, cho rằng: “Hồi giáo công nhận một mặc khải nào đó, và cũng chứa đựng những yếu tố mặc khải, nhưng xét toàn thể, nó không phải là một tôn giáo mặc khải, và phần lớn do con người tạo ra”[62]. Như đã nói, các tôn-giáo-ngoài-kitô có những yếu tố nhân loại và những yếu tố mặc khải, có tôn giáo có nhiều có tôn giáo có ít. Tôn giáo nào có nhiều yếu tố mặc khải thì có nhiều giá trị cứu độ hơn.

[63] Với ánh sáng của nền thần học các tôn-giáo-ngoài-kitô, các nhà truyền giáo có thể an tâm không sợ những người theo tôn-giáo-ngoài-kitô sa hỏa ngục, bởi vì các tôn-giáo-ngoài-kitô cũng là phương tiện cứu độ cho những người sống trong tôn giáo đó!

[64] Nghĩa là được phép và có bổn phận phải tìm kiếm Thiên Chúa và theo tôn giáo nào mình thấy đúng nhất.

117 R. LATOURELLE, La spécificité de la Révélation Chrétienne, STUDIA MISSIONALIA, GREGORIANA- ROMA 1971, p. 42

[65] Ibidem, pp. 48-49

[66] Ibidem, p. 53

[67] Ibidem, pp. 50-51

121 Ibidem, pp. 58. 54

122 Ibidem, p. 55