HOME     LINH ĐẠO     TỰ THUẬT CỦA THÁNH YNHà         TUTHUAT1          TUTHUAT2

 

 

NGƯỜI LỮ HÀNH THÀNH LOYOLA

 

Thủ Bản Tự Thuật của Thánh I-Nhã Loyola

 

 

do cha Hoàng Văn Lục (Sesto Quescetti), S.J. dịch

 


 

MỤC LỤC

 

 

Lời tựa của Cha Luis Goncalves Da Camara. 3

Tĩnh Dưỡng và Hoán Cải (1521 – 1522) 5

Hiệp Sĩ của Thánh Mẫu ở Monserrate (1522). 8

Chúa Dạy I-Nhã tại Manrêsa (1522 – 1523) 10

Hành Hương Ðến Thánh Ðịa (1523) 16

Trên Ðường Trở Về (1523 – 1524) 20

 

 

 


 

 

 

Lời tựa của Cha Luis Goncalves Da Camara

 

1.  Vào buổi sáng thứ sáu ngày 4 tháng 8 năm 1553, trước ngày lễ Ðức Mẹ Xuống Tuyết, khi Cha I-Nhã đang ở trong vườn gần nhà gọi là 'nhà công tước.' Tôi trình bày với Cha một số vấn đề của tâm hồn, trong đó có vấn đề ham danh. Ðể giúp tôi giải quyết vấn đề đó, Cha khuyên tôi: nên nhiều lần qui về Chúa tất cả những gì tôi có và dâng cho Chúa tất cả những gì tốt đẹp có thể có trong đời tôi, và cảm tạ Chúa với nhận thức rằng tất cả các ân huệ đó thuộc về Ngài. Nghe Cha nói, tôi được an ủi nhiều. Không cầm nổi nước mắt, Cha kể lại chuyện chính Cha suốt hai năm đã phải đau khổ vì tật xấu này, đến độ lúc sắp sửa lên tầu ở Barcelôna để đi Giêrusalem, Cha không dám nói với ai Cha sắp đi đâu. Cha nói thêm rằng, về điểm đó, từ lúc ấy trở về sau Cha thấy tâm hồn hết sức bình thản.

            Một hai tiếng đồng hồ sau chúng tôi đi dùng cơm. Ðang khi ngồi bàn ăn, có Cha I-Nhã, Cha Polancô và tôi, Cha nói rằng: Cha Nadal và nhiều Cha khác trong Dòng đã nhiều lần xin Cha làm một công việc mà Cha chưa quyết định làm. Tuy nhiên, sau khi đã nói chuyện với tôi và cầm trí một lúc trong phòng, Cha cảm thấy được thúc dục và xác tín đến độ Cha đã nhất quyết phải làm (theo cách Cha nói thì thấy Thiên Chúa đã soi sáng rõ ràng cho Cha phải làm việc đó!).  Ðó là việc trình bày những gì xảy đến trong tâm hồn Cha từ xưa đến nay. Cha cũng đã quyết định tôi là người sẽ được Cha tiết lộ những việc đó.

 

2.  Hồi đó Cha đau rất nặng. Thường thì ngài không dám tính sẽ sống thêm được một ngày. Khi nghe người ta nói: “Tôi sẽ làm việc này trong vòng hai tuần lễ hoặc tám ngày,” thì Cha thường tỏ vẻ ngạc nhiên và hỏi: “Vậy hả, anh chắc sẽ sống được đến ngày đó sao?” Tuy nhiên, lần đó ngài nói rằng ngài hy vọng sống thêm được ba bốn tháng nữa để hoàn tất công việc đó. Ngày hôm sau tôi hỏi Cha xem ngài muốn chừng nào bắt đầu? Cha bảo tôi phải nhắc Cha mỗi ngày, cho đến khi Cha có sức khỏe và giờ rảnh để bắt tay vào việc. Nhưng vì bận rộn nhiều việc và không có thì giờ rảnh, nên Cha lại bảo tôi phải nhắc ngài mỗi Chúa Nhật. Vào tháng chín Cha gọi tôi, và bắt đầu kể chuyện về cuộc đời ngài và các lỗi lầm của thời thanh niên một cách rõ ràng, rành mạch, không bỏ xót một chi tiết nào. Cũng trong tháng đó, Cha lại gọi tôi ba, bốn lần nữa và kể chuyện đến khúc nói rằng Cha định ở lại Manrêsa ít hôm, từ đoạn đó thấy chữ tôi viết có vẻ khác trước.

 

3.  Cách thức Cha kể chuyện thì giống như cách Cha làm mọi việc khác. Nghĩa là hết sức rõ ràng, khiến cho những công việc xảy ra trong quá khứ có vẻ như đang xảy ra bây giờ. Hơn nữa không cần phải hỏi ngài điều gì. Bởi vì cần gì để hiểu rõ câu chuyện thì Cha nhớ và nói hết. Không nói gì cho Cha biết, tôi biên chép tất cả, trước hết là những điểm chính, rồi sau mới viết lại đầy đủ hơn, đó là bản văn đang có đây. Tôi đã cố gắng tránh không viết chữ nào mà Cha đã không dùng.  Chỉ sợ thất bại ở một điểm: là khi cố gắng trung thành chép lại các lời Cha nói, đôi khi tôi đã không làm nổi bật được một vài lời nói của Cha.

            Như vậy, tôi đã soạn tài liệu này kể từ tháng 9 năm 1553 như đã kể trên. Từ đó cho đến khi Cha Nadal về, tức là ngày 18 tháng 10 năm 1554, Cha I-Nhã hay xin hoãn lại vì đau yếu hoặc vì bận viêc nọ việc kia. Cha thường nói: “Việc này xong thì con lại nhắc Cha nhá!”  Khi xong việc rồi, tôi nhắc Cha, nhưng Cha lại bảo: “Bây giờ bận việc này nữa, xong rồi thì con nhớ nhắc Cha lại.”

 

4.  Lúc về nhà, thấy công việc đã bắt đầu rồi, Cha Nadal mừng lắm, và bảo tôi phải luôn luôn nhắc Cha I-Nhã. Ngài còn nói nhiều lần với tôi rằng bây giờ không có việc gì quí hơn mà Cha I-Nhã có thể làm cho Dòng, vì đó là góp phần vào việc thành lập Dòng. Chính ngài đã nhiều lần nói với Cha I-Nhã như thế, và Cha I-Nhã bảo tôi, khi nào xong về vụ tìm nguồn lợi để thành lập truờng rồi thì tôi nhắc Cha lại.  Nhưng vụ đó xong rồi, thì lại phải chờ cho hết vụ về Prester John, và lại còn việc gửi thư từ cho xong.

      Vậy, chúng tôi lại tiếp tục công việc và bắt đầu vào ngày mùng 9 tháng 3. Ít lâu sau, Ðức Thánh Cha Giuliô III bắt đầu nguy tử và ngày 23 thì băng hà. Vậy Cha hoãn lại công việc đó cho đến khi có Ðức Thánh Cha mới. Khi có rồi (tức là Ðức Giáo Hoàng Marcelô), thì Ðức Thánh Cha mới cũng lại đau và băng hà nữa. Cha lại phải hoãn đến khi tấn phong Giáo Hoàng Phaolô IV. Sau đó vì trời nóng bức và bận rộn nhiều việc nên Cha bị trở ngại cho đến ngày 21 tháng 9 là khi Cha bắt đầu định sai tôi đi Tây Ban Nha. Tôi nài nỉ ngài giữ lời hứa với tôi, thì ngài hẹn gặp tôi vào sáng ngày 22 tại Tháp Ðỏ. Lễ xong tôi đến hỏi Cha xem đã đến giờ chưa.

 

5.  Ngài bảo tôi đi Tháp Ðỏ trước chờ ngài đến sau. Tôi đoán chắc phải chờ lâu. Ðang khi đứng ngoài sân nói chuyện với một trợ sĩ đã hỏi tôi một điều gì đó, thì Cha đến và trách tại sao không vâng lời chờ Cha tại Tháp Ðỏ. Rồi suốt ngày hôm đó Cha không muốn nói gì. Về sau chúng tôi lại năn nỉ, thì Cha tới Tháp Ðỏ và lại tiếp tục kể chuyện, vừa kể vừa đi lại như các lần trước. Muốn quan sát bộ mặt của Cha tôi hay tới gần ngài, thì ngài bảo: “Hãy giữ luật.” Một lúc sau, quên lời dặn tôi lại đến gần Cha, hai, ba lần ngài lập lại lời đó rồi bỏ luôn. Nhưng cuối cùng Cha trở về Tháp Ðỏ rồi kể chuyện tiếp. Tuy nhiên, vì từ mấy hôm trước tôi đang chuẩn bị lên đường - Cha đã gặp tôi kẻ chuyện lần chót là ngày trước khi tôi đi - nên không thể viết ra đây đủ tại Roma được. Tôi đem theo bản tóm tắt, và tại Genova, vì không có người viết chữ Tây Ban Nha, nên tôi đọc bằng tiếng Ý Ðại Lợi.

 

Tài liệu này được viết xong tại Genova, tháng 12 năm 1555.

 

 

 


 

Tĩnh Dưỡng và Hoán Cải (1521 – 1522)

 

1.  Từ thời niên thiếu cho đến năm 26 tuổi, I-Nhã chỉ lo chạy theo những chuyện vớ vẩn của người đời, đặc biệt ham mê võ thuật và ao ước được danh tiếng trước mặt người ta.

            Một hôm đang khi bị quân Pháp bao vây thành Pamplôna, tất cả mọi người đều đồng ý đầu hàng để thoát chết, vì thấy không thể nào chống cự lại được. Nhưng I-Nhã đưa ra mọi lý lẽ và thuyết phục được vị chỉ huy trưởng là cứ chống trả. Dù không mấy đồng ý, tất cả các sĩ quan thấy khí phách của I-Nhã cũng lấy làm vững tâm hơn.  Ðến ngày tấn công, trước khi giao chiến, I-Nhã xưng tội với một người đồng đội. Trận đánh kéo dài một lúc lâu thì I-Nhã bị trúng đạn, một chân bị gẫy và chân kia cũng bị thương khá nặng.

 

2.  Thấy I-Nhã ngã gục, lập tức cả đơn vị trong thành đầu hàng.  Sau khi chiếm được thành, quân Pháp đối sử tử tế với I-Nhã. Sau khi lưu lại tại Pamplona độ mười lăm ngày, họ đặt ông trên một cái cáng và khiêng về đến tận nhà ở thành Loyola.

            Thấy I-Nhã nằm lâu ngày và đau rất nặng, người nhà đã nhờ nhiều y sĩ khắp vùng đến chữa trị. Họ thấy nguyên nhân chưa khỏi vì xương chân của ông chưa được ráp lại đúng chỗ, và họ quyết định mổ chân lại một lần nữa. Thế là I-Nhã bị làm thịt lần thứ hai. Suốt cuộc giải phẫu, cũng như lần trước, và lần sau đó nữa, I-Nhã không hề thốt ra một tiếng nào, chỉ thấy ông nắm chặt hai bàn tay vì đau điếng.

 

3.  Tình trạng sức khoẻ càng ngày càng trầm trọng, I-Nhã không thể ăn ống được gì và có những triệu chứng sắp chết. Vài ngày trước lễ Thánh Gioan, vì các y sĩ không mấy hy vọng I-Nhã sẽ thoát chết, nên người nhà đề nghị ông xưng tội. Sau khi nhận các bí tích rồi, trước ngày lễ Thánh Phêrô và Phaolô, các y sĩ nói rằng, nếu trước nửa đêm không thấy dấu hiệu nào cho thấy bệnh nhân khá hơn, thì coi như chắc chắn sẽ chết. I-Nhã thường sùng kính Thánh Phaolô, nhờ ơn Chúa, vào đúng nửa đêm, bệnh nhân cảm thấy bớt đau, và ngày hôm sau thì hết nguy hiểm.

 

4.  Dần dần các miếng xương dính lại với nhau, nhưng dưới đầu gối lại thấy có một miếng khác lòi ra trên miếng kia, khiến chân bị rút ngắn lại và có một cái gò trông rất khó coi. Vì đã quyết tâm theo hư danh thế gian, nên I-Nhã hỏi y sĩ có thể cắt bớt miếng xương xấu xí kia được không. Họ trả lời có thể được nhưng sẽ đau đớn hơn lần trước, vì xương đã lành rồi và việc cưa bớt lại rất công phu. Thế là I-Nhã quyết định chịu cực hình chỉ vì thích như thế. Nghe vậy, ông anh hết hồn bảo rằng, chính ông dù khoẻ mạnh cũng không dám chịu đau đớn ngần ấy. Thế mà I-Nhã đã chịu được như mấy lần trước.

 

5.  Sau khi cắt bớt miếng thịt và cưa xương, để chân khỏi rút ngắn quá, suốt ngày các y sĩ đã xoa nhiều thứ thuốc và kéo chân dài ra bằng các thứ dụng cụ hành hạ bệnh nhân. Tuy nhiên, Chúa ban cho I-Nhã lấy lại sức khoẻ, dù chân vẫn chưa đi được khiến bệnh nhân phải nằm giường.

            Không thể làm gì được, nhưng thấy khoẻ mạnh I-Nhã xin người nhà đem đến mấy cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp đọc chơi cho đỡ buồn, vì ông mê đọc những chuyện phù phiếm viển vông này. Nhưng vì trong nhà không có cuốn tiểu thuyết nào, nên người nhà mang cho ông một cuốn sánh nhan đề: “Cuộc Ðời Chúa Kitô” và cuốn “Ðời Sống Các Thánh” viết bằng tiếng Tây Ban Nha.

 

6.  Ðọc đi đọc lại, đôi khi I-Nhã cảm thấy thích thú. Lâu lâu bỏ sách xuống một bên, ông suy nghĩ đến những gì đã đọc, có khi lại nghĩ sang những chuyện mà ông thường hay nghĩ. Trong số những chuyện vớ vẩn này, có một chuyện thu hút ông đến độ ông mơ màng suốt ba bốn tiếng đồng hồ liền mà không hay. Ông tưởng tượng đến những công việc mà ông sẽ thực hiện để hầu hạ một tiểu thơ kia, rồi cách thức để đi đến nơi nàng ở, những bài thơ và những lời lẽ ông sẽ nói với nàng, và cả những trận đánh thắng quân thù để dâng tặng nàng. Ông say mê và tự phụ quá, nên thấy rằng những việc như thế không thể nào không thực hiện nổi. Vì nàng không phải là một bá tuớc hay công tước phu nhân, nhưng chắc còn phải còn cao sang hơn thế nữa!

 

7.  Tuy nhiên Thiên Chúa soi sáng giúp I-Nhã bỏ rơi những chuyện tưởng tượng đó và nghĩ đến những gì ông đang đọc trong sách. Ðọc về Cuộc Ðời Chúa và các Thánh, thỉnh thoảng ông dừng lại và tự hỏi mình: “Giá mà tôi cũng làm được những việc như Thánh Phanxicô (thành Assisi) hay Thánh Ða-Minh đã làm thì sao?” Như thế, ông suy niệm về nhiều việc lành có thể làm được, cũng không thấy khó khăn cho lắm! Mỗi lần như thế, ông lại tự nhủ: “Thánh Phanxicô đã làm việc này thì tôi cũng phải làm được! Thánh Ða-Minh đã làm được việc kia thì tôi cũng phải làm!” 

            Hai loại tư tưởng trên gây ra những phản ứng khác nhau. Lúc nghĩ đến chuyện đời, I-Nhã cảm thấy rất thích thú, nhưng khi hết nghĩ đến thì ông cảm thấy khô khan và trống rỗng. Trái lại, lúc nghĩ đến việc đi chân không đến Ðất Thánh, không ăn uống gì trừ rau cỏ và sống khắc khổ như các Thánh đã sống thì ông cảm thấy rất phấn khởi, không những trong lúc nghĩ đến, mà cả khi hết còn nghĩ đến nữa, ông vẫn cảm thấy vui và hài lòng.

 

8.  Lúc bấy giờ ông chưa để ý phân tích kỹ các phản ứng khác nhau đó. Cho tới khi nhận ra, thì ông lấy làm lạ! Suy nghĩ và tự hỏi tại sao sau khi nghĩ đến việc này thì thấy buồn, nhưng sau khi nghĩ đến việc kia lại thấy vui. Như thế, ông mới khám phá ra hai phản ứng khác nhau và ảnh hưởng trên tâm hồn: một thứ do ma quỉ bày ra, còn một thứ khác do Thiên Chúa soi sáng.

 

9.  Nhờ đọc sách và cảm nhận được cuộc đời mình dưới một luồng sáng mới, I-Nhã ý thức cần phải ăn năn hối cải. Từ đó ông cảm thấy có ý muốn noi guơng các Thánh, muốn làm những gì y hệt như các Thánh đã làm, nhờ ơn Chúa giúp. Có một việc ông muốn làm trên hết: đó là khi nào khoẻ mạnh lại, ông sẽ đi tận Giêrusalem đồng thời tự đánh tội và nhịn ăn với tất cả lòng sốt mến của một tâm hồn hăng say.

 

10. Nhờ ý muốn Thánh thiện này, các chuyện phù phiếm kia dần dần bị quên lãng, và I-Nhã được củng cố tinh thần bởi một thị kiến thiêng liêng như sau:

            Một đêm kia khi thức giấc, ông nhìn thấy hình dạng Ðức Mẹ với Chúa Hài Ðồng trong một lúc lâu. Nhờ xem thấy hình ảnh đó, ông cảm thấy tâm hồn phấn khởi lạ thường, đồng thời ghê tởm tất cả quãng đời quá khứ, đặc biệt là những đam mê xác thịt. Ông có cảm tưởng tất cả những hình ảnh cũ bị tẩy xoá trong tâm hồn. Từ giây phút đó trở đi (cho đến tháng 8 năm 1553 khi cuốn sách nầy được viết), không một lần nào ông nghĩ đến các đam mê xác thịt mà lấy làm thích thú nữa. Với kết quả như thế, thì chắc là thị kiến do Chúa mà đến, mặc dù I-Nhã chưa dám định quả quyết, nhưng chỉ kể chuyện đã xảy ra thôi. Tuy nhiên, ông anh và tất cả mọi người trong nhà nhìn thấy cách thức cư xử bên ngoài, đều nhận thấy được rằng I-Nhã đang thay đổi bên trong.

 

11. Tuy nhiên, ông cứ điềm nhiên tiếp tục đọc sách và nghĩ đến những việc ông sẽ làm. Mỗi lần nói chuyện với người trong nhà, ông chỉ nói đến Chúa để giúp đỡ họ. Vì đọc sách thiêng liêng thấy có ích lợi, I-Nhã nẩy ý muốn chép một số đoạn chính trong đời sống của Chúa và các Thánh. Ông lấy một tập vở và bắt đầu biên chép các đoạn sách. Lời Chúa ông viết bằng mực đỏ, lời Ðức Mẹ ông viết bằng mực xanh rất cẩn thận. Giấy thì láng và có hàng kẻ, chữ thì đẹp vì I-Nhã viết chữ đẹp. Suốt ngày I-Nhã chỉ lo chép sách và cầu nguyện.  Ông thấy phấn khởi, nhất là khi nhìn lên bầu trời và các vì sao. Nhìn nhiều lần và nhìn rất lâu, nhờ đó mà ông cảm thấy đủ nghị lực để phục vụ Chúa. Ông hay nghĩ đến dự tính đi Giêrusalem, và mong chóng được bình phục để lên đường.

 

12. Ông dự tính thêm sau khi đi Giêrusalem về, ông sẽ sống khắc khổ tại một đan viện khổ tu ở Sevilla. Ông sẽ giấu tên để khỏi được kính nể và ông sẽ chỉ ăn rău cỏ mà thôi. Nhưng sau đó lại nghĩ có thể sống khắc khổ khi đi khắp thiên hạ, thì lại cảm thấy không còn muốn dừng chân tại đan viện, vì e rằng sẽ không được phép tự hành hạ mình đủ. Dù vậy khi sắp sửa lên đường đi tới Burgos, ông đã nhờ một người ở hỏi dùm luật lệ ở đan viện, và ông thấy hài lòng. Tuy nhiên vì những lý do nói trên, và vì lúc bấy giờ ông chỉ nghĩ đến việc sắp sửa ra đi, còn việc vào đan viện thì khi nào về mới tính, nên không mấy để ý đến!

            Vì thấy tạm khoẻ lại rồi và có thể lên đường được, I-Nhã nói với ông anh: “Thưa anh, Công Tước Najera, như anh biết, đã hay tin em khỏi rồi. 'Có lẽ em nên đi thăm ông hiện đang ở Navarrete.'” Ông anh đã đưa I-Nhã đi vào một phòng, rồi tiếp đến sang phòng thứ hai, và với tất cả niềm trìu mến, cố gắng thuyết phục em đừng lao mình vào một cuộc phiên lưu nguy hiểm. Ông nhắc nhở I-Nhã rằng: “Bao nhiêu người đang tin tưởng em, bao nhiêu công việc cao trọng em có thể làm,” và còn thêm nhiều lời lẽ tương tự với mục đích thuyết phục I-Nhã bỏ ý định tốt đẹp. I-Nhã trả lời khéo, dù không nói dối, bởi vì về điểm này ông thường rất cẩn thận, và cuối ông cũng tránh né và từ giã được ông anh.

 

 

 


 

Hiệp Sĩ của Thánh Mẫu ở Monserrate (1522)

 

13. Thế là I-Nhã cưỡi một con la cái lên đường với một người anh, tới tỉnh Onate, gần đó có nhà thờ Ðức Mẹ là nơi hành hương, dọc đường I-Nhã thuyết phục người anh vui lòng ghé nhà thờ, thức đêm cầu nguyện để lấy sức mạnh tinh thần mà đi tiếp. Sáng hôm sau hai người chia tay, người anh tới thăm một người chị ở Onate và I-Nhã lên đường đi Navarete.

            Tới nơi, và nhớ ra rằng nhà người công tước mắc nợ người một số tiền, thì I-Nhã viết giấy xin lãnh số tiền đó. Người thủ quĩ trả lời là lúc bấy giờ không đủ tiền để trả. Nghe như thế, ông công tước bảo viên thủ quĩ thiếu tiền ai thì thiếu, chứ trả cho một người dòng họ Loyola, thì không thể nào thiếu được. Hơn nữa ông công tước còn muốn ban cho I-Nhã chức quan phó, gọi là để tưởng nhớ công lao trong quá khứ. Lãnh tiền rồi, I-Nhã chia một phần cho một số người đã có công với ông, phần còn lại ông đưa người ta tu bổ và trang hoàng thêm một tượng Ðức Mẹ đã bị hư hại. Xong việc, I-Nhã cho hai người ở ra về và cưỡi la rời Navarrete hướng về Monserrate.

 

14. Trên đoạn đường này, có xảy ra một việc cần được trình bày để thấy cách thức Chúa hướng dẫn tâm hồn I-Nhã, một tâm hồn vẫn thô sơ, mặc dù rất ước ao được biết cách thức để phục vụ Chúa. Xin nhắc lại I-Nhã đã quyết tâm sống khắc khổ với mục đích làm đẹp lòng Chúa, hơn là chuộc tội. Khi nhớ đến một việc khổ hạnh các Thánh đã thực hiện, I Nhã quyết định làm theo, và còn có ý định sẽ làm khổ hơn thế nữa. Mỗi lần quyết định như vậy, ông cảm thấy an vui, nhưng chưa biết phân tích các động lực trong tâm hồn, ông cũng không hiểu các nhân đức khiêm nhường, bác ái, kiên nhẫn là gì, nhất là đức khôn ngoan chỉ dẫn các nhân đức kia. Ông chỉ muốn thực hiện các công việc lớn lao bởi vì các Thánh đã làm như thế cho sáng danh Chúa, chứ ông không hề bận tâm xét đến hoàn cảnh đặc biệt trong đời sống các Thánh.

 

15. Vậy khi I-Nhã đang đi trên đường thì một người Mauri cỡi la theo kịp. Hai người vừa đi vừa nói chuyện với nhau, từ chuyện này bắt sang chuyện khác, cuối cùng họ nói về Ðức Mẹ. Người Mauri đồng ý Ðức Mẹ mang thai không do người đàn ông, nhưng không tin dù sinh con Ðức Mẹ vẫn còn đồng trinh. Người Lữ Khách đưa ra nhiều bằng cớ nhưng vẫn không thể nào làm cho người Mauri bỏ lập trường nghịch đạo của mình.

            Bỗng người Mauri vọt tới trước và I-Nhã không còn thấy người đó nữa. Người lữ khách bắt đầu suy nghĩ đến cuộc nói chuyện với người Mauri vừa qua. Trong thâm tâm, ông cảm thấy bất mãn với chính mình, vì cho rằng đã không làm đủ bổn phận, đồng thời cảm thấy nổi giận vì cho rằng đáng lý ông không thể chịu một người Mauri nói những điều chướng tai về Ðức Mẹ như thế, và ông nghĩ mình có bổn phận dàn xếp chuyện này. Ông đã tính chạy theo người Mauri cầm dao găm đâm hắn mấy cái vì những lời lẽ hắn đã nói. Nhưng ông do dự một lúc lâu, không biết bổn phận đòi hỏi ông nên làm gì. Trước khi vọt tới trước, người Mauri đã nói rằng hắn sẽ đi đến một làng xa hơn một chút, gần đường chính rẽ sang con đường phụ.

 

16. Vì không biết quyết định ra sao, nên I-Nhã thả cương con la để nó đi tự do tới ngã ba: nếu con la quặt vào đường phụ, ông sẽ kiếm người Mauri và sẽ đâm hắn, còn nếu nó tiếp tục đi trên con đường chính, thì ông sẽ bỏ qua. Mặc dù làng nằm ngay bên cạnh đường chính, chỉ cách xa khoảng bốn chục bước, và đường đi tới làng thì tốt và rộng hơn đường chính, nhưng Chúa đã khiến con lừa bỏ con đường làng, và tiếp tục đi vào con đường chính.

            Tới một làng khá lớn trước khi tới Monserrate, I-Nhã dừng lại, mua một cái áo thô để mặc trên đường đi Giêrusalem. Người mua thứ vải làm bao, loại thưa có nhiều gai, và nhờ người ta may một cái áo dài tới chân. Người mua thêm cây gậy đi hành hương, một cái bầu đựng nước và treo tất cả lên cốt yên la. Người còn mua đôi giầy vải và chỉ đi một chiếc ở chân đau thôi, không phải để lập dị nhưng vì chân này còn phải băng bó, mặc dù cưỡi la, đến tối thì thấy sưng lên, chân đó mới phải đi giầy.

 

17. I-Nhã lại lên đường đi tới Monserrate và như thường lệ, ông suy nghĩ đến những việc phi thường ông sẽ làm để phục vụ Chúa. Vì trí tưởng tượng còn đầy những hình ảnh thấy trong sách kể chuyện các hiệp sĩ, ông nẩy ý bắt chước họ và quyết định cởi bỏ quần áo thường mặc và mang huy hiệu Chúa Kitô, canh thức suốt đêm trước bàn thờ Ðức Mẹ tại Monserrate, không ngồi, không nằm, nhưng đứng hoặc quỳ, y như một hiệp sĩ.

            Ông vừa cỡi la, vừa suy nghĩ đến ý định ông sẽ thực hiện. Tới nhà thờ Monseratte, sau khi cầu nguyện, và bàn hỏi với một Cha linh hướng, trong ba ngày I-Nhã viết ra mọi tội lỗi trên một tờ giấy rồi xưng tội. Ông còn điều đình với Cha linh hướng cho đan viện giữ lại con la, còn cái gươm và con dao găm thì ông treo trên bàn thờ Ðức Mẹ. Trước đó I-Nhã chưa trình bày ý định cho linh mục nào biết; đây là người đầu tiên biết câu chuyện.

 

18. Vào buổi tối ngày hôm trước lễ Ðức Mẹ Truyền Tin tháng 3 năm 1522, I-Nhã lén lút đi tìm một người nghèo. Tìm được rồi, ông cởi quần áo ra và đưa cho anh ta, mặc áo thô như đã ước ao, trở về nhà thờ quì gối trước bàn thờ Ðức Mẹ và thức suốt đêm khi quì, khi đứng, gậy cầm trên tay!

            Sáng sớm hôm sau để người ta khỏi nhận ra, và vì sợ gặp nhiều người quen kính nể, ông không đi đường tới thẳng Bacelôna, nhưng đi đường vòng quanh tới một phố nhỏ tên là Manrêsa. Ông tính sẽ ở lại đó vài ngày trọ tại nhà thương thí, để ghi chép một số ý tưởng vào một tập vở mà ông luôn đem theo và giữ gìn cẩn thận; tập vở này nâng đỡ tinh thần ông rất nhiều.

            Ði khỏi Monserrate chừng một trăm dặm, I-Nhã thấy một người chạy theo hỏi có phải ông đã đem quần áo cho một người nghèo, như anh này nói không. I-Nhã trả lời có và rưng rưng nước mắt thương xót người nghèo vì thấy người ta làm khó dễ anh, nghi ngờ anh ăn cắp.

            Dù I-Nhã đã hết sức cẩn thận để tránh người ta tôn kính, nhưng sau một thời gian không lâu, họ bắt đầu đồn đãi về công việc ông làm tại Monserrate. Danh tiếng ông tràn ra và thổi phồng lên vượt xa sự thật, rằng ông đã từ bỏ bao nhiêu là lợi lộc, v.v.


 

Chúa Dạy I-Nhã tại Manrêsa (1522 – 1523)

 

19. Tại Manrêsa, mỗi ngày I-Nhã đi ăn xin, không ăn thịt và uống rượu dù người ta vẫn cho. Vào ngày chủ nhật thì ông không ăn Chay và uống chút rượu, nếu có ai cho. Vì trước kia, ông thường chăm sóc mái tóc rất cẩn thận theo thời trang, nay I-Nhã quyết định để tóc mọc lên tự nhiên, không cắt không chải và cũng không thay đổi gì ngày cũng như đêm. Về móng tay và móng chân cũng vậy, vì trước kia đã săn sóc kỹ lưỡng, nên bây giờ không cắt và không ngó ngàng tới nữa.

            Tại nhà thương thí, nơi ông trọ, đã nhiều lần giữa ban ngày I-Nhã thấy ở gần mình, trên không trung một hình bóng hết sức hấp dẫn làm cho ông rất phấn khởi. Ông không thấy rõ nó có hình dạng gì nhưng có vẻ giống một con rắn với nhiều chấm lấp lánh như là những mắt của nó, dù đó không phải là mắt. Thấy hình dạng này I-Nhã rất lấy làm thích thú và phấn chấn, càng thấy nhiều thì lại càng cảm khích nhưng lúc nó biến mất thì lại thấy buồn chán.

 

20. Trước kia chưa có kinh nghiệm về đời sống thiêng liêng nội tâm, I-Nhã vẫn bình an và luôn luôn vui vẻ. Trong những ngày ông thấy hình bóng kia thì hình như một thời gian trước khi nó bắt đầu, I-Nhã bị dày vò mãnh liệt vì một tư tưởng nảy sinh trong tâm hồn. Người thấy cả cuộc đời mình cực khổ và hình như có ai nói trong thâm tâm: 'Làm sao anh có thể chịu đựng một cuộc đời cực khổ như thế này suốt 70 năm còn lại trong đời anh?' Tuy nhiên, hiểu rằng đó là tiếng nói thù địch, I-Nhã rất cương quyết trả lời trong thâm tâm: 'Ðồ khốn nạn, mày làm gì bảo đảm tao sống được thêm một tiếng đồng hồ nữa?'

            Thế là ông thoát được cơn thử thách và tìm lại được bình an. Ðó là lần đầu tiên ông gặp thử thách sau khi thay đổi cuộc sống. Chuyện này xảy ra trong khi đang vào nhà thờ nơi ông đi dự lễ hát, giờ kinh chiều và kinh tối cử hành trọng thể, ông đã tham dự sốt sắng và rất lấy làm phấn khởi. Khi đi xem lễ hằng ngày, ông thường đọc gẫm bài Thương Khó và được an vui trong lòng.

 

21. Tuy nhiên sau cuộc thử thách kể trên, I Nhã bắt đầu cảm nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn, có khi cảm thấy khô khan, không còn thấy thích dự lễ hay đọc kinh nữa. Ðôi khi bất thình lình ông cảm thấy ngược lại và có cảm tưởng là sự khô khan và buồn phiền được cất đi như khi người ta cởi áo choàng ra. Thấy sự thay đổi đó, mà từ xưa đến giờ chưa bao giờ xảy đến, I-Nhã tự hỏi: 'Cuộc đời mới này làm sao đây?'

            Hồi đó, tại Manrêsa có một bà rất già về số tuổi cũng như về số năm phục vụ Chúa. Khắp cả Tây Ban Nha ai cũng biết tiếng, cả vua công giáo (danh hiệu là hoàng đế Carlos V) đã từng mời vào yết kiến. Một hôm đang đàm dạo với lính mới của Chúa, bà nói với ông: 'Ước gì một ngày nào, Chúa tôi, Ðức Giêsu Kitô sẽ hiện ra cho chú!' Hiểu câu nói theo nghĩa đen, I-Nhã kinh ngạc trả lời: 'Lẽ nào Ðức Kitô lại hiện ra cho cháu?' Cứ một tuần I-Nhã xưng tội và rước Mình Thánh Chúa một lần.

 

22. Tuy nhiên trong đời sống thiêng liêng, I-Nhã đã phải khổ sở rất nhiều vì lòng bối rối. Mặc dù tại Monserrate đã xưng tội phạm suốt đời rất cẩn thận sau khi viết tất cả trên giấy như đã kể trên. Ðôi khi I-Nhã vẫn cảm thấy đã quên không xưng vài tội, do đó ông rất khổ tâm. Mặc dù xưng tội lại lần nữa, vẫn chưa thấy hài lòng. Ông đi tìm vài người đạo đức có thể giúp ông chữa trị tâm trạng bối rối nhưng không có cách nào thoát khỏi. Cuối cùng một linh mục giáo sư hay giảng tại nhà thờ chính toà, và là một người đạo đức đã bảo ông trong toà giải tội là cứ viết ra tất cả những gì nhớ được. I-Nhã đã làm như vậy, nhưng sau khi xưng tội rồi thì cơn bối rối lại còn phức tạp hơn nữa, khiến ông phải rất khổ sở.

            Mặc dù ý thức lòng bối rối gây hại cho mình, và nên vượt qua tình trạng đó, ông cũng không làm sao thoát khỏi. Ðôi khi ông nghĩ cách chữa trị là nhờ Cha linh hướng nhân danh Chúa Kitô ra lệnh đừng xưng lại tội cũ nữa, nhưng lại không dám đề nghị với Cha linh hướng như thế.

 

23. Tuy nhiên, mặc dù không đề nghị, Cha linh hướng ra lệnh đừng xưng lại các tội cũ nữa, trừ khi nhớ tội nào rõ ràng. Nhưng đối với ông tội nào cũng nhớ rõ ràng lắm, cho nên lệnh đó hoàn toàn vô hiệu quả và ông vẫn cảm thấy khổ sở.

            Hồi đó I-Nhã ở trong một phòng nhỏ mà các Cha Ða-Minh đã dành cho ông trong tu viện, mỗi ngày ông quì gối cầu nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ, nửa đêm thức dậy và tiếp tục tất cả các việc đạo đức trình bày trên. Tuy nhiên, những việc đó không giải quyết được lòng bối rối đã gây khổ sở cho ông trong nhiều tháng.

            Một hôm quá khổ tâm đang khi cầu nguyện sốt sắng, I-Nhã rên rỉ lớn tiếng cầu cùng Thiên Chúa: 'Lạy Chúa, xin Chúa cứu thoát con vì con không tìm thấy giải pháp nhờ loài người hay bất cứ cái gì khác. Nếu hy vọng tìm được, con sẵn sàng chịu mọi cực khổ không tiếc. Xin Chúa chỉ cho con tìm ra giải pháp, dù phải chạy theo một con chó con để nó giúp con tìm thấy, con cũng sẵn sàng chạy!'

 

24. Khi bận tâm với những tư tưởng đó, nhiều lần I-Nhã bị cám dỗ kịch liệt muốn tự tử bằng cách lao mình xuống vực thẳm qua một lỗ lớn trên tường phòng ở gần nơi ông quỳ gối cầu nguyện. Nhưng biết việc tự tử là tội, ông lại kêu lớn tiếng rằng: 'Lạy Chúa, con không muốn làm điều gì mất lòng Chúa.' Rất nhiều lần ông lặp lại câu đó, cũng như những lời nói trước. Một hôm, ông nhớ lại một vị Thánh rất ao ước được Chúa ban cho một ân huệ nào đó, thì đã nhịn ăn nhiều ngày cho đến khi được ơn ấy. Sau khi đã suy nghĩ một lúc lâu, ông đã quyết định làm như vậy cho tới khi Chúa giúp ông, hoặc đến khi sắp chếât đói, ông sẽ xin bánh mì ăn.

 

25. Ðó là vào một ngày Chúa Nhật sau khi rước Mình Thánh Chúa. Suốt cả tuần, ông giữ ý định không ăn uống gì hết mà vẫn tiếp tục cầu nguyện như thường, dự các lễ nghi ở nhà thờ, quì gối cầu nguyện và thức dậy lúc nửa đêm. Vào Chúa Nhật sau là ngày xưng tội, vì có thói quen kể cho Cha linh hướng nghe chi tiết các việc ông làm, ông có trình bày vụ nhịn ăn cả tuần qua, Cha linh hướng ra lệnh cho ông chấm dứt vụ nhịn ăn. Mặc dù thấy khoẻ mạnh, I-Nhã cũng vâng theo. Ngày hôm đó cũng như ngày hôm sau thấy thoát khỏi cảnh bối rối. Nhưng ngày kế tiếp, tức ngày thứ Ba đang khi cầu nguyện, lại nhớ đến từng tội cũ, từ tội này đến tội khác, như khi xâu vật gì vào dây, và cảm thấy phải xưng tội đó lại một lần nữa. Sau những tư tưởng đó, lại cảm thấy chán ngấy đời sống khắc khổ và ao ước dứt khoát bỏ cuộc luôn.

            Nhưng lúc đó, Chúa thương giúp ông tỉnh trí khỏi ác mộng. Nhờ Chúa đã dậy vài bài học và cho thu lượm kinh nghiệm về cách thức nhận định các thần loại khác nhau, I-Nhã bắt đầu phân tích các tư tưởng vừa qua từ đâu mà đến, và cuối cùng dứt khoát không còn xưng tội cũ nữa. Từ ngày hôm đó, I-Nhã thoát được cơn bối rối và xác tín rằng chính lòng thương xót của Chúa đã cứu thoát ông.

 

26. Ngoài việc cầu nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ mỗi ngày, I-Nhã dùng thời giờ để giúp đỡ những người ông đến thăm để nói chuyện về đời sống thiêng liêng. Thời giờ còn lại trong ngày, ông nghĩ đến Thiên Chúa và nhớ lại những điều đã đã suy gẫm hoặc đọc trong sách.

            Khi sắp sửa đi nghỉ, nhiều lần ông khám phá ra những điều mới lạ, có những an vui thiêng liêng, thành ra hay mất những giờ ngủ đã quá ngắn ngủi rồi! Ðôi khi suy nghĩ về việc trên, ông thấy đã dùng những giờ nhất định để kết hợp với Thiên Chúa rồi, lại còn nhiều giờ khác trong ngày nữa. Do đó, ông nghi ngờ các tư tưởng thiêng liêng trên không bắt nguồn từ một thần tốt và kết luận không nên để ý tới nó nữa, nhưng tốt hơn là ngủ theo những giờ giấc đã quyết định. I-Nhã vẫn kiêng thịt và quyết định không ăn thịt vì bất cứ lý do nào. Nhưng một buổi sáng, khi mới thức dậy ông thấy rõ ràng trước mắt ông một miếng thịt, mặc dù trước đó không hề nghĩ đến thịt, đồng thời ông ý thức từ nay sẽ sẵn sàng ăn thịt trở lại.

 

27. Mặc dù nhớ rõ sự cam kết dứt khoát kiêng thịt, lần này không thể nghi ngờ phải quyết định ăn thịt trở lại. Sau đó trình bày vấn đề trên cho Cha linh hướng, thì Cha bảo nên xét xem ý định đó có phải là do ma quỉ cám dỗ chăng. Và sau khi phân tích ý định rõ ràng, I-Nhã thấy rõ, không thể nào nghi ngờ quyết định điều đó là phải.

            Hồi đó Chúa đối sử với I-Nhã như thày giáo dạy học trò. Có lẽ vì I-Nhã còn chậm hiểu thô độn, hoặc vì không có ai hướng dẫn, hoặc vì chính Chúa đã ban cho ông ý muốn phụng sự Thiên Chúa. Ông tin tưởng và không nghi ngời chính Chúa muốn đối xử với ông như vậy. Và nếu nghi ngờ điều đó, ông cho là xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ðiều đó có thể thấy được qua năm bằng chứng sau đây:

 

28. Thứ Nhất: Ông rất sùng kính Ba Ngôi Chí Thánh. Mỗi lần I-Nhã cầu nguyện từng ngôi, nhưng vì cũng cầu nguyện cả Ba Ngôi cùng một lúc, nên ông hay tự hỏi Thiên Chúa có Ba Ngôi, sao lại cầu nguyện tới bốn lần? Tuy nhiên, vì cho đó là một thắc mắc không đáng kể, nên ông ít bận tâm đến.

            Một hôm đang đứng trên bậc thang nhà thờ Thánh Ða Minh đọc giờ kinh Ðức Mẹ, trí tuệ của ông được nâng cao hầu như nhìn thấy Ba Ngôi thiên Chúa Chí Thánh dưới hình thức ba phím đàn, khiến ông rớt nước mắt đến độ không còn cử động nổi. Sáng hôm đó ông theo đám rước kiệu từ trong nhà thờ đi ra, và suốt buổi sáng đến giờ cơm, ông không thể nói chuyện về đề tài nào khác trừ Ba Ngôi Chí Thánh, bằng nhiều ví dụ và câu ví khác nhau, lòng tràn ngập hạnh phúc và an vui. Từ đó đến suốt đời, mỗi lần cầu nguyện cùng Ba Ngôi Chí Thánh, ông cảm thấy phấn khởi và hết lòng sùng kính.

 

29. Thứ Hai: Một hôm hiện ra trong trí I-Nhã về cách thức Chúa đã tạo tác nên muôn vật, khiến ông cảm thấy sung sướng tâm hồn. Ông có cảm tưởng nhìn ra một vật trắng, từ đó có những tia sáng tỏa ra, như Thiên Chúa dùng vật đó để tạo thành ánh sáng. Tuy nhiên ông cũng không biết cách giải thích những điều đó, và không nhớ rõ được những hiểu biết thiêng liêng mà Thiên Chúa đã in vào tâm hồn ông.

 

      Thứ Ba: Sau khi ở lại Manrêsa chừng độ một năm, được Thiên Chúa nâng đỡ và hướng dẫn một số linh hồn có kết quả khả quan, I-Nhã lại bỏ bớt những hình thức khắc khổ quá mức, rồi cắt móng tay, móng chân và cắt tóc trở lại.

            Một hôm đang khi xem lễ ở một nhà thờ trong tu viện (vẫn ở Manrêsa) vào lúc linh mục nâng Mình Thánh Chúa lên, ông thấy bằng mắt tâm hồn vài tia sáng từ trên cao xuống. Trong nhiều năm, ông vẫn không giải thích được hiện tượng đó, tuy nhiên những gì ông thấy rõ bằng trí tuệ, đó là cách thức Chúa Kitô, Chúa chúng ta hiện diện trong bí tích chí thánh.

 

      Thứ Tư: Nhiều lần đang khi cầu nguyện, mỗi lần trong một lúc khá lâu, I-Nhã đã thấy bằng mắt tâm hồn, nhân tính của Chúa Kitô. Ðó là hình ảnh một thân thể trắng tinh, vóc dáng trung bình không phân biệt rõ chân tay. Tại Manrêsa, ông đã thấy hình ảnh đó rất nhiều lần, nếu nói là hai mươi lần đến bốn mươi lần, thì không dám cho là sự thật. Ông đã thấy hình đó một lần nữa tại Giêrusalem và một lần khác nữa trên đường đi tới Pađôva. Ông còn thấy Ðức Mẹ dưới hình thức tương tự không phân biệt rõ chân tay.

            Tất cả những điều ông thấy đã củng cố đức tin của ông đến độ ông nghĩ bụng: Mặc dù không có Thánh kinh dạy những chân lý ấy và chỉ dựa trên hình ảnh ông đã thấy, ông vẫn sẵn sàng từ bỏ mạng sống để bênh vực các chân lý đó.

 

30. Thứ Năm: Một hôm ông đi đến một nhà thờ, cách Manrêsa chừng một dặm để cầu nguyện. Trên con đường song song với một con sông, hình như đó là nhà thờ Thánh Phaolô, ông vừa đi vừa đọc kinh, rồi lại ngồi xuống, mắt hướng về con sông chảy dưới thung lũng.

      Ðang khi ngồi tại đó, mắt tâm hồn ông dần dần mở ra. Mặc dù không thấy hình ảnh nào, ông đã am tường nhiều điều, vừa thuộc đức tin vừa văn hoá, dưới một luồng sáng rực rỡ khiến mọi điều trở nên mới mẻ. Không thể trình bày chi tiết những điều ông đã lĩnh hội được lúc đó, mặc dù rất nhiều, chỉ biết rằng ông đã hiểu những điều đó hết sức rõ ràng. Nếu tính chung, tất cả những điều Chúa đã ban và những điều ông đã học hỏi suốt cả cuộc đời, tức là 62 năm qua, ông cảm thấy nó không bằng những điều ông đã lĩnh hội trong lúc đó.

 

31. Sau khi hiện tượng trên kéo dài được một lúc lâu, I-Nhã quì gối trước một thập giá gần đó để cảm tạ Thiên Chúa. Lúc đó ông lại nhìn thấy hình bóng mà ông đã thấy nhiều lần trước mà chưa hiểu rõ, tức là hình bóng có vẻ rất đẹp và có nhiều mắt. Nhưng lần này đang lúc quì gối trước thập giá, ông thấy rõ ràng hình bóng đó không có nhiều màu sắc đẹp đẽ như những lần trước, và hiểu biết hết sức rõ rệt, cũng như xác tín cương quyết đó là ma quỉ. Sau đó nhiều lần hình trên lại hiện ra trong một lúc lâu, nhưng I-Nhã khinh chê và xua đuổi nó bằng cây gậy mà ông thường cầm nơi tay.

 

32. Một hôm tại Manrêsa I-Nhã bị sốt nặng tưởng sắp chết. Ông có cảm tưởng rõ rệt linh hồn sắp lìa khỏi xác. Lúc đó một tư tưởng hiện ra trong đầu óc rằng, ông là người công chính. Ông cảm thấy rất đau buồn và chỉ lo chống lại tư tưởng đó. Nhưng mặc dù cố gắng hết sức, ông không tài nào đánh bại được nó. Khi cơn sốt đã bớt phần nào và không còn nguy hiểm nữa, ông bắt đầu kêu lớn tiếng cho một số các bà thường đến thăm ông, và ông yêu cầu họ vì tình thương của Thiên Chúa, lần sau khi thấy ông sắp chết, xin các bà kêu lớn tiếng bên tai ông: “Ðồ đầy tội lỗi!” để giúp ông nhớ lại các tội lỗi đã phạm đến Chúa.

 

33. Vào một dịp khác, đang đi tàu biển từ Valencia tới Italia, một cơn bão nổi lên, bánh lái tàu bị gãy. Theo I-Nhã cũng như nhiều người khác trên tàu, nếu không có phép lạ thì không thể nào thoát chết được. Trong khi đang xét mình ăn năn tội và dọn mình chết, I-Nhã không quá sợ sệt tội lỗi mình và không sợ mất linh hồn, nhưng ông cảm thấy xấu hổ và đau buồn vì xét thấy đã không xử dụng đúng cách những ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho.

            Một lần khác nữa, hồi năm 1550 I-Nhã cũng đau rất nặng, theo ý ông, cũng như nhiều người khác thì khó thoát chết. Lần đó nghĩ mình sắp chết, I-Nhã vui mừng đến độ chảy nước mắt dòng dòng trong một lúc lâu, có khi lại phải thôi không dám nghĩ đến sự chết nữa, để bớt phấn khởi quá mức như thế.

     

34. Vào đầu mùa đông I-Nhã bị bệnh nặng, nhà chức trách địa phương chở ông vào nhà thân sinh của một ông tên là Ferrere và họ săn sóc rất chu đáo. Nhiều bà có địa vị đến gác đêm vì kính phục ông. Dù khỏi bệnh, nhưng ông vẫn còn rất yếu và hay đau dạ dày. Vì thế, cũng như vì mùa đông năm ấy lạnh lắm, người ta cho ông áo ấm, giầy và nón. Vậy ông lấy hai cái áo ấm, tấm vải thô và một cái nón trùm đầu cũng làm bằng thứ vải đó. Thời đó, từ lâu ông ao ước được gặp những người đạo đức để trao đổi về những vấn đề thiêng liêng. Nhưng rồi sắp đến ngày I-Nhã lên đường đi Giêrusalem.

 

35. Vào đầu năm 1523, ông lên đường đi tới Barcelôna để lên tàu. Mặc dù một số người đã tình nguyện đi với ông cho có bạn, nhưng ông quyết định đi một mình. Một hôm có vài người nài ép ông nhận làm bạn đi đường, vì ông không biết tiếng Ý và cũng không biết tiếng La-Tinh nữa. Họ cố thuyết phục ông để thấy có lợi như thế nào và có thể giúp đỡ ông ra sao. Ông trả lời, dù ngay cả con của công tước Carđôna xin đi theo, ông cũng không chấp nhận. Vì ông muốn thử tập ba nhân đức: tức là đức mến, đức tin và đức cậy. Nếu đem theo một người bạn, khi đói sẽ nhờ người đó giúp đỡ, lúc ngã sẽ nhờ người đó nâng lên, và như thế, ông sẽ tin cậy và thương mến người đó. Trong khi ông chỉ muốn tin cậy và yêu mến vào một mình Chúa mà thôi. Những điều này, I-Nhã không chỉ nói ra miệng, nhưng còn xác tín trong lòng nữa.

            Với những tư tưởng đó, ông có ý định không những đi một mình mà còn không đem theo lương thực nữa. Ông điều đình với ông chủ thuyền và được chủ thuyền cho lên tàu không mất tiền, vì thấy I-Nhã không có tiền, nhưng với điều kiện là phải mang theo một số lượng bánh khô đủ sống, nếu không thì ông chủ thuyền nhất định không cho lên tàu.

 

36. Ðang khi đi xin bánh, I-Nhã lại cảm thấy bối rối và tự trách mình rằng: “Thế mới tin Chúa hay sao? Thế mới là trông cậy Chúa không bỏ rơi anh sao?” Câu tự trách đó thấm thía khiến ông cảm thấy rất khổ sở. Sau cùng không biết phải quyết định ra sao vì thấy bên nào cũng hợp ý, ông quyết định xin ý kiến của Cha linh hướng. Vậy ông trình bày lòng ao ước sống trọn lành, bằng cách làm mọi việc hầu danh Chúa được cả sáng, cũng như những lý lẽ khiến ông phải do dự, và xin Cha cho biết có nên đem theo lương thực hay không. Cha linh hướng khuyên cứ đem theo lương thực.

            Khi đang xin một người phụ nữ, thì bà này hỏi ông sắp sửa lên tàu đi đâu. Ông do dự một lúc trước khi trả lời rồi không dám nói sự thật, ông chỉ nói sắp đi Italia và Roma. Nghe vậy, với vẻ mặt ái ngại bà này nói rằng: “Ông định đi Roma sao? Bao nhiêu người đã đi Roma về mà cũng không biết ra làm sao nữa.” I-Nhã không dám nói đi hành hương tới Giêrusalem vì sợ bị hư danh. Ðó cũng là lý do tại sao ông không bao giờ dám nói với ai quê mình ở đâu và thuộc gia đình nào.

            Kiếm được đủ bánh rồi ông lên tàu. Tới bên bãi biển, thấy trong túi còn năm, sáu đồng, ông móc ra bỏ trên một ghế đá gần bờ biển.

 

37. Trước khi tàu nhổ neo, I-Nhã lưu lại Barcelôna trên hai mươi ngày. Trong thời gian đó theo thói quen, ông tìm cách liên lạc với các người đạo đức, dù họ sống ẩn dật xa thành phố để trao đổi với họ. Tuy nhiên, tại Barcelôna cũng như tại Manrêsa lúc trước, ông không tìm được người nào có thể giúp đỡ ông như lòng ông mong ước. Trừ một người đàn bà tại Manrêsa như đã được nhắc đến trước. Bà này đã nói với ông rằng bà sẽ cầu xin Thiên Chúa cho Chúa Giêsu hiện ra cho ông. Theo ý ông, bà đó đã tiến xa trong đời sống thiêng liêng. Sau khi rời khỏi Barcelôna, ông không còn khao khát tìm kiếm những người đạo đức nữa.

           

 


 

Hành Hương Ðến Thánh Ðịa (1523)

 

38. Suốt chuyến tàu từ Barcelôna tới Gaeta gió thuận thổi rất mạnh, tàu tới nơi trong vòng năm ngày đêm, dù tất cả mọi người đều rất sợ vì bão lớn. Khắp vùng đó người ta sợ dịch hạch, nhưng I-Nhã xuống tàu và đi Roma ngay. Trong số hành khách trên tàu có một người đàn bà với một cô gái mặc quần áo con trai và một thanh niên cùng đi với ông. Họ theo ông vì họ cũng vừa đi vừa xin ăn.

            Tới một nông trại, họ thấy có đông lính đứng chung quanh và một đống lửa. Lính mời họ ăn uống và nài ép họ uống rượu như muốn cho họ say. Rồi lính chia ra nhóm, cho người mẹ và cô gái lên lầu, người lữ khách và thanh niên ở dưới chuồng ngựa. Vào chừng nửa đêm, ông ra ngoài thì thấy hai mẹ con bà kia chạy tới khóc lóc kể rằng lính toan hãm hiếp họ. Ông nổi giận thét lớn: “Chuyện này không thể nào chịu đựng được,” và những câu tương tự khác. Ông nói đanh thép đến nỗi mọi người đều khiếp sợ và không ai dám làm gì ông, trong khi đó chàng thanh niên đã chạy mất rồi, còn lại ba người lên đường ngay giữa đêm hôm ấy.

 

39. Tới một thành ở gần đó thì họ thấy cửa thành đã khóa kín. Vì không sao vào được, nên họ đành ngủ đêm trong một nhà thờ gần đó có nước mưa lùa vào. Sáng hôm sau, dân chúng trong thành cũng không cho họ vào. Ở ngoài thành họ không kiếm được gì ăn, dù họ đã tới xin trọ một nông trại không xa thành. Tại đó, người lữ khách cảm thấy kiệt sức, một phần vì chuyến tàu vất vả, một phần vì những chuyện khác đã xảy ra. Không đi được nữa, ông đành phải ở lại đó, và hai mẹ con bà kia lên đường đi Roma.

            Ngày hôm đó nhiều người ra khỏi thành. Nghe nói bà chủ đất đó sắp tới, ông ra đón bà, bảo đảm với bà rằng ông chỉ đau vì kiệt sức thôi, và xin bà cho phép vào thành để tìm cách dưỡng sức. Bà cho phép ngay, ông liền vào thành hành khất và kiếm được khá nhiều. Nghỉ tại đó hai ngày để lấy lại sức, ông lại lên đường và tới Roma vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá.

 

40. Tại đó, người ta gặp ông và nghe ông nói không có một đồng xu nào trả tiền lên tầu đi Giêrusalem thì họ đưa ra nhiều lý lẽ cho ông hiểu rằng, nếu không có tiền, thì đừng hòng lên tàu đi Giêrusalem được. Tuy nhiên, ông xác tín mãnh liệt không do dự chút nào rằng ông sẽ tìm được cách đi Giêrusalem. Tám chín ngày sau Lễ Phục Sinh, sau khi được Ðức Giáo Hoàng Adrianô VI ban phép lành, ông lên đường đi Venezia. Ông mang theo sáu, bảy đồng tiền vàng, người ta cho ông số tiền đó để trả vé tàu đi Giêrusalem. Ông bằng lòng lấy vì họ làm ông sợ nếu không có tiền thì không đi được.

            Nhưng sau hai ngày rời khỏi Roma, ông thấy rằng mình đã bằng lòng lấy tiền chỉ vì thiếu lòng tin và hết sức hối hận. Ông tự hỏi có nên bỏ lại không. Rốt cuộc ông phân phát rộng rãi cho những người ông gặp, thường là những người nghèo, và phân phát gần hết. Khi gần tới thành phố Venezia ông chỉ còn vài chục đồng cắc. Tối hôm đó, chút đỉnh tiền cắc đã giúp ông rất nhiều.

 

41. Suốt buổi hành trình đi đến Vênêzia, ông phải ngủ ở ngoài đường, bởi vì người ta dùng mọi biện pháp đề phòng dịch hạch. Một buổi sáng tỉnh dậy, ông thấy đang nằm sát một người, người này bỗng nhiên đứng dậy và hốt hoảng chạy mất. Có lẽ vì thấy người lữ khách mặt xanh nhợt giống như người mắc dịch.

            Ði tới Chioggia cùng với một số người khác, I-Nhã được biết người ta sẽ không cho vào thành phố Vênêzia. Cả nhóm quyết định đi Pađôva để lấy chứng chỉ sức khỏe. Người lữ khách đi theo họ nhưng không theo kịp vì họ đi nhanh. Thế là họ bỏ ông bên một cánh đồng khi trời gần tối.

            Tại đó Chúa hiện ra cho ông như mọi khi, khiến ông được an ủi rất nhiều. Vững tâm, sáng hôm sau, ông tới thành Pađôva dù không làm giấy giả để vào thành mà vẫn vào thành được ngay. Lính gác đã không hỏi điều gì, lúc trở ra cũng vậy. Những người đồng hành hết sức ngạc nhiên. Họ đã lấy giấy sức khoẻ trong khi I-Nhã đã không hề bận tâm gì tới điều đó.

 

42. Khi tới Vênêzia, thì lính tới xét giấy của từng không nhưng không ai đụng đến ông. Tại Vênêzia, ông xin ăn và ngủ đêm tại công trường Thánh Marcô. Không lần nào ông tới nhà ông đại sứ của hoàng đế, và cũng chẳng quan tâm đến việc tìm phương tiện qua biển đi Giêrusalem. Xác tín vững vàng rằng Thiên Chúa sẽ lo cho, và không hề nghi ngờ dù người ta đưa ra nhiều lý do và đặt nhiều nghi vấn.

            Một hôm ông tình cờ gặp một người Tây Ban Nha giầu có, người này hỏi ông định làm gì và định đi đâu. Biết ý định của I-Nhã, ông này mời ông về nhà dùng bữa và lưu lại ít hôm chờ ngày lên tàu. Từ khi còn ở Manrêsa, người lữ khách đã tập thói quen lúc dùng cơm không nói chuyện gì mà chỉ trả lời vắn tắt thôi. Nhưng nghe kỹ câu chuyện và để ý đến một số vấn đề, rồi sau bữa ăn, mới tìm cơ hội nói chuyện với người ta về Thiên Chúa. Mỗi lần dùng bữa, ông thường làm như vậy.

 

43. Nhờ thói quen đó mà người trong nhà rất quý mến I-Nhã và nài ép ông ở lại luôn. Ông chủ nhà này đã dàn xếp cho I-Nhã yết kiến lãnh chúa thành phố Vênêzia. Sau khi nói chuyện với người lữ khách, lãnh chúa thành phố đã truyền cho tầu trấn thủ đi tới đảo Cyprus cho I-Nhã đi theo.

            Năm đó rất đông người hành hương tập họp tại Vênêzia để lên tàu đi tới Giêrusalem. Nhưng phần đông phải quay về không đi được vì tình trạng mới, sau khi đảo Rhodes bị thất thủ. Một tàu chỉ chở tối đa 13 người hành hương thôi. Còn tàu trấn thủ thì chỉ chở 8, 9 người thôi. 

            Khi tàu trấn thủ sắp khởi hành, người lữ khách bị đau sốt nặng ít ngày rồi khoẻ lại. Vào ngày tàu nhổ neo I-Nhã lại uống thuốc sổ. Người nhà hỏi y sĩ xem ông có thể lên tàu đi Giêrusalem được không. Y sĩ trả lời rằng nếu muốn đi để được chôn cất tại đó thì được lắm. Tuy nhiên I-Nhã vẫn lên tàu hôm đó và đi liền. Ông ói mửa nhiều, thấy đỡ và bắt đầu khỏi hẳn. 

            Trên tàu người ta làm nhiều chuyện bậy bạ dơ bẩn công khai, I-Nhã khiển trách họ nghiêm khắc.

 

44. Những người Tây Ban Nha khuyên ông không nên nói gì, vì các thủy thủ định bỏ ông trên một đảo hoang. Nhưng Chúa đã thương cho tàu tới Cyprus an toàn. Xuống tàu, hành khách đi đường bộ đến một bến khách gọi là Salinas cách đó khoảng 10 dặm và lên tàu hành hương. Trên tàu này I-Nhã không đem theo lương thực gì trừ niềm hy vọng nơi Thiên Chúa như trong chuyến trước.

            Suốt thời gian này, Chúa đã hiện ra cho ông nhiều lần, khiến ông cảm thấy phấn khởi và vững tin. Ông thấy một vật gì tròn lớn giống như vàng. Ông thấy như vậy từ khi tàu rời Cyprus đến khi tàu cập bến ở Giapha.

            Trên đường đi Giêrusalem, theo phong tục họ cưỡi lừa con. Khi tới chỗ cách thành phố chừng hai chục dặm, một người Tây Ban Nha, hình như thuộc dòng quí tộc tên là Ðiêgô Manes, sốt sắng nói với đám người hành hương hãy chuẩn bị tâm hồn và giữ thinh lặng bởi vì sắp đến chỗ có thể trông thấy Thành Thánh.

 

45. Mọi người thấy đó là ý kiến hay, nên tất cả đều cầm trí. Trước khi tới nơi có thể trông thấy Thành Giêrusalem, họ thấy các tu sĩ tay cầm Thánh giá đang đứng chờ họ, mọi người xuống lừa đi bộ. Lúc trông thấy thành phố, người lữ khách cảm thấy hết sức phấn khởi và vui vẻ khác với cảm tưởng vui vẻ tự nhiên. Mọi người cũng đều cảm thấy như vậy. Mỗi lần đi viếng các nơi thánh ông cũng đều cảm thấy thế.

            I-Nhã có ý định ở lại Giêrusalem để viếng các nơi Thánh và đồng thời giúp đỡ các linh hồn. Vì thế ông đã đem theo sẵn vài lá thư giới thiệu với các Cha bề trên dòng. Ông trình các thư cho Cha bề trên và tỏ ý định ở lại thành phố vì lòng đạo đức. Tuy nhiên về việc kia là giúp các linh hồn, ông không nói gì cả. Bởi vì ông không trình bày điều này với ai bao giờ, trong khi điều thứ nhất ông đã nói với nhiều người rồi.

             Cha bề trên trả lời rằng ông không thấy có cách nào để I-Nhã ở lại. Bởi vì tu viện quá thiếu thốn không đủ nuôi các tu sĩ hiện có, và do đó ông đã quyết định gửi về âu châu một số người cùng một chuyến với các người hành hương. Người lữ khách trả lời rằng ông không muốn nhờ tu viện điều gì trừ việc thỉnh thoảng giải tội cho ông. Bề trên trả lời nếu thế thì được, nhưng yêu cầu ông đợi Cha bề trên giám tỉnh từ trụ sở của dòng ở Giêrusalem đến thăm.

 

46. Vì lời hứa đó, ông lữ khách cảm thấy vững tâm và bắt đầu viết thư cho một số người đạo đức tại Barcêlôna. Hôm trước ngày những người hành hương khởi hành trở về, ông đã viết xong một bức thư và đang viết thêm một bức nữa thì có người đến mời ông vào gặp Cha giám tỉnh mới tới và Cha bề trên.

            Cha giám tỉnh dùng lời lẽ nhã nhặn nói rằng đã nghe ý định của I-Nhã ở lại Ðất Thánh, Cha đã cân nhắc điều đó kỹ lưỡng và theo kinh nghiệm của những người đến trước, Cha xét thấy rằng không tiện. Cha đã cho nhiều người quyết định ở lại, nhưng người này bị bắt người kia chết. Ngoài ra dòng còn phải chuộc lại những người bị bắt. Do đó, Cha yêu cầu I-Nhã chuẩn bị lên đường ngày hôm sau với nhóm hành hương. Ông trả lời ông đã nhất quyết rồi và sẽ không thay đổi ý kiến vì bất cứ lý do gì. Ông dùng lời hoà nhã để Cha giám tỉnh hiểu rằng, dù Cha không bằng lòng ông cũng sẽ không bỏ ý định và sẽ không sợ bất cứ lời đe doạ nào trừ khi có lệnh buộc lương tâm thôi.

            Nghe vậy, Cha giám tỉnh cho ông hay Cha có văn thư Tòa Thánh uỷ quyền cho Cha ra lệnh trục xuất, hoặc cho phép ở lại những người Cha muốn và rút phép thông công những người không vâng lời. Trong trường hợp người lữ khách Cha cho rằng ông không được ở lại.

 

47. Vì Cha tỏ ý muốn đưa văn thư của Tòa Thánh ủy quyền rút phép thông công cho ông coi, thì ông nói ông tin lời hai Cha đáng kính, khỏi cần coi văn thư. Vì Tòa Thánh phán xét như thế nên ông vâng theo.

            Xong vụ này rồi, đang khi về nhà trọ I-Nhã cảm thấy ước ao viếng Núi Cây Dầu một lần chót trước khi ra đi, bởi vì Chúa không muốn ông ở lại Ðất Thánh. Trên núi có một phiến đá Chúa đã đứng trước khi lên trời, ngày nay còn được thấy dấu chân của Chúa. Ông muốn trở lại coi dấu chân của Chúa. Không nói gì với ai và không nhờ người hướng dẫn, ông lén lút bỏ đám người hành hương và tới núi cây dầu một mình.

            Lính gác không muốn cho ông vào, ông cho họ một con dao nhỏ mang theo. Sau khi đọc kinh rất sốt sáng ông lại nảy ý định muốn đi tới Betphage và ông đi liền. Tại đó ông mới nhớ ra rằng khi ở trên núi cây dầu, ông đã quên không nhìn kỹ dấu chân Chúa hướng về phía nào, nên ông trở lại coi. Lần này, hình như ông cho lính gác cái kéo để họ cho vào.

 

48. Ở tu viện người ta khám phá ông đi một mình, các tu sĩ lo lắng sai người đi tìm. Ðang khi từ trên núi cây dầu xuống, ông gặp một người thắt đai giúp việc tại tu viện. Ông này cầm một cây gậy to tướng với vẻ mặt hung dữ như muốn đánh. Tới gần I-Nhã, ông ta tóm lấy, nắm chặt lấy tay kéo theo. I-Nhã không chống cự nhưng người này vẫn cứ nắm chặt và kéo. Trong khi đi như thế về tới tu viện, I-Nhã được thấy Chúa liên miên như từ trên cao và lòng cảm thấy tràn đầy hạnh phúc.

 


 

Trên Ðường Trở Về (1523 – 1524)

 

 

HOME     LINH ĐẠO     TỰ THUẬT CỦA THÁNH YNHà         TUTHUAT1          TUTHUAT2