HOME     LINH ĐẠO     TỰ THUẬT CỦA THÁNH YNHà         TUTHUAT1          TUTHUAT2

 

 

NGƯỜI LỮ HÀNH THÀNH LOYOLA

 

Thủ Bản Tự Thuật của Thánh I-Nhã Loyola

 

 

do cha Hoàng Văn Lục (Sesto Quescetti), S.J. dịch

 


 

MỤC LỤC

 

Trên Ðường Trở Về (1523 – 1524) 2

Những Ngày Học tại Barcelôna và Alcala (1524 – 1527) 4

Bị Ðiệu Ra Tòa tại Salamanca (1527) 8

Những Năm Ðại Học và Những NGười Bạn Tiên Khởi (1528 – 1535) 12

Về Thăm Quê Nhà (1535) 16

Chờ Ðợi Hành Hương Ðất Thánh (1535 – 1537) 18

Năm Ðầu Tại Kinh Thành Muôn Thủa Roma (1538) 20

 

Trên Ðường Trở Về (1523 – 1524)

 

49. Họ khởi hành ngày hôm sau. Tới đảo Cyprus, họ lên những tầu khác nhau. Lúc đó có ba bốn tầu đi Vênêzia, một cái của ông Thổ Nhĩ Kì, một cái khác thì rất nhỏ và cái thứ ba rất sang trọng và lớn mạnh của một người Vênêzia giầu có. Một số hành khách xin ông chủ tàu thứ ba này cho I-Nhã lên tàu của ông. Mặc dù nhiều người năn nỉ và ca tụng người lữ khách, nhưng khi biết ông không có tiền trả, người chủ tàu từ chối. Ông ta bảo rằng nếu là một ông Thánh thì hãy cứ vượt biển theo lối Thánh Giacôbê, và những câu tương tự. Những người bạn kia lại xin được ông chủ tàu nhỏ cho I-Nhã lên tàu.

            Ba cái tàu đều nhổ neo vào cùng một buổi sáng. Suốt buổi sáng có gió thuận thổi, nhưng vào buổi chiều, bão nổi lên khiến ba cái tàu bị đẩy xa nhau. Tàu lớn bị chìm gần đảo Cyprus, nhưng tất cả hành khách đều thoát nạn. Tàu Thổ Nhĩ Kì thì bị đắm cùng với tất cả hành khách trên tàu. Tàu nhỏ bị thử thách rất nhiều nhưng cuối cùng cũng ghé vào bờ được an toàn tại vùng Puglie (phía đông nam xứ Italia). Ðó là vào một mùa đông lạnh buốt, người lữ khách chỉ mặc một cái quần phồng ra, vải thô che thân tới đầu gối, chân đi giầy, một cái áo nịt vải mầu đen đã cũ rách ở nhiều nơi trên vai, và một cái áo choàng ngắn đã sờn.

 

50. I-Nhã tới Vênêzia vào giữa tháng 1 năm 1525, sau khi đã đi biển trọn hai tháng 11, 12 và nửa tháng giêng. Tại Vênêzia, ông lại gặp người đã đón ông về nhà trước khi đi Giêrusalem. Người này cho ông một số tiền là 15, 16 Giuli tức là 1/10 của tiền Ðaca. Ông lấy vải gấp lại nhiều lần và buộc trên mạng mỡ cho đỡ lạnh. Sau khi thấy rõ ý Chúa không muốn cho ông ở tại Giêrusalem, người lữ khách luôn luôn cầm trí suy nghĩ phải làm gì bây giờ, và ông thấy hướng về việc đi học một thời gian để giúp đỡ các linh hồn.

            Vì thế ông quyết định đi Barcelôna và lên đường đi từ Vênêzia tới Gênôva. Một hôm đang đọc kinh trong một nhà thờ lớn tại Ferrara, có một người nghèo đến xin tiền, ông cho một đồng tiền. Liền sau đó lại có một người khác đến xin, thì ông cho anh ta một đồng có giá trị cao hơn; rồi lại một người thứ ba đến xin, ông lại cho một đồng. Thấy ông cho tiền nhiều, những người nghèo cứ nối đuôi đến xin cho tới khi ông không còn một xu dính túi. Ông thành thật xin lỗi họ vì không còn gì để cho họ nữa!

 

51. Thế rồi ông lại lên đường từ Ferrara đi Gênôva. Trên đường ông gặp một toán lính Tây Ban Nha. Họ đối xử tử tế với ông, và khi nghe biết đường ông định đi, thì họ ái ngại cho ông vì đó là đường đi xuyên qua cả hai trại quân của Pháp và Hoàng Ðế. Vào năm đó, quân đội của vua Pháp Francois I và Hoàng Ðế Carlos V đánh nhau để chiếm công quốc Nilan. Họ khuyên ông bỏ đường cái và đi vào một con đường nhỏ họ chỉ cho. Nhưng không nghe lời khuyên của lính, ông cứ đi theo đường cái. Người lữ khách đi tới một làng bị thiêu rụi, và không tìm được người nào cho một miếng ăn.

            Mặt trời lặn rồi ông mới đến một làng có đắp lũy, lính gác bắt ông ngay vì tưởng ông đến dò thám. Nhốt ông vào căn nhà nhỏ gần cổng làng, rồi bắt đầu điều tra như người ta thường làm khi nghi ngờ. Ông trả lời mọi câu hỏi rằng ông không biết gì hết. Họ lột quần áo của ông ra, rồi xét kỹ cho đến đôi giầy cũng như khắp mình ông xem có thư từ gì không. Cuối cùng, thấy không có cách nào để biết điều gì, họ xích ông lại và dẫn tới chỉ huy trưởng. Ông xin lại áo choàng nhưng họ không cho và dẫn ông đi, chỉ cho mặc quần và áo nịt mà thôi.

 

52. Trong khi đi như vậy người lữ khách có cảm tưởng như thấy được Chúa Kitô lúc Ngài cũng bị bắt đem đi như thế, tuy nhiên đó không phải là một thị kiến như các thị kiến khác. Ông bị đem đi qua con đường rộng, không thấy buồn gì cả mà trái lại cảm thấy vui và bình an.

            Ông có thói quen khi nói chuyện với bất cứ người nào thì thưa gởi cách đơn sơ tự nhiên không kính trình gì cả, vì muốn noi gương Chúa Kitô và các tông đồ. Tuy nhiên đang khi bị bắt đi như vậy, ông nghĩ có lẽ nên trình chỉ huy trưởng vì sợ tra tấn nên đổi cách xưng hô trong dịp khó khăn này. Nhưng thấy rõ đó là do ma quỉ xúi dục, ông liền tự nhủ: “Mình sẽ không kính trình gì hết, không khom lưng mà cũng chẳng dở nón.”

 

53. Tới dinh chỉ huy trưởng, họ để ông đứng chờ trong một phòng thấp. Một lúc sau vị chị huy trưởng đến, ông không làm cử chỉ nào kính cẩn, chỉ trả lời một vài tiếng cộc lốc và hết sức chậm chạp. Vị chỉ huy trưởng cho là khùng và bảo lính: “Thằng này khùng rồi. Trả đồ cho nó và đuổi nó đi.” Rời khỏi dinh ông liền gặp một người Tây Ban Nha sống tại đó. Ông này cho I-Nhã ăn uống và cho ngủ qua đêm.

            Sáng hôm sau I-Nhã lại lên đường và đi suốt ngày. Tối đến lính gác trên một cái chồi thấy ông liền xuống bắt. Họ đưa ông tới chỉ huy trưởng là một người Pháp. Chỉ huy trưởng hỏi ông nhiều câu và muốn biết quê ông ở đâu. Khi biết quê ông ở Guipuzcoa, chỉ huy trưởng liền nói: “Quê tôi cũng ở gần đó, chắc quê ông gần Bayonna.” Rồi ông bảo lính: “Ðưa ông này đi, cho ăn uống và đối xử tử tế với ông.”

            Trên đường đi từ Ferrara đến Gênôva, người lữ khách còn gặp nhiều chuyện rắc rối khác nữa, nhưng cuối cùng thì tới được Gênôva. Ở đó có một người quê tại Viscaya, tên là Portunđô, nhận ra ông. Hồi trước khi làm việc trong triều đình Vua Công Giáo họ đã từng gặp nhau. Nhờ ông ta giới thiệu, người lữ khách được lên một tàu đi Barcelôna. Chuyến đi này rất nguy hiểm vì bị một tàu khác đuổi theo và suýt nữa bị bắt.

           


 

Những Ngày Học tại Barcelôna và Alcala (1524 – 1527)

 

54. Về tới Barcelôna, I-Nhã trình bày ý muốn đi học cho cô Isabel Roser và một thày giáo tên Ardêvol, là thày dạy các lớp tiểu học. Cả hai đồng ý với I-Nhã và cho đó là một ý định tốt. Thầy giáo tình nguyện dạy không công, và bà cô tình nguyện kiếm phương tiện sống cho ông.

            Hồi trước ở Manrêsa, người lữ khách quen một tu sĩ, hình như thuộc dòng Bernađô. Tu sĩ này là một người thánh thiện và bây giờ I-Nhã ước ao được sống gần người đó để tiếp tục học hỏi, trao dồi thêm về đời sống thiêng liêng và giúp đỡ các linh hồn. Ông nói với cô Isabel và thầy giáo rằng, nếu ở Manrêsa không được giúp đỡ theo sự mong muốn, ông sẽ trở về và nhờ hai người giúp đỡ. Về tới Manrêsa ông mới biết tu sĩ đó đã qua đời rồi. Ông trở về Manrêsa và bắt đầu học rất chăm chỉ. Tuy nhiên, có một vấn đề gây khó khăn cho ông. Mỗi lần ông bắt đầu cố gắng học thuộc lòng một bài nào, thì lại có những tư tưởng mới về đời sống thiêng liêng và những tư tưởng này làm cho ông thích thú đến độ không thể nào học thuộc bài được. Ông cố gắng xua đuổi tư tưởng đó mà không được.

 

55. Suy nghĩ nhiều về vấn đề đó ông nghĩ bụng: “Lúc cầu nguyện hay đi xem lễ, không bao giờ có những hiểu biết mới đó.” Như thế, dần dần ông hiểu rằng đó là do ma quỷ cám dỗ. Sau khi cầu nguyện, ông đến gặp thầy giáo và xin thầy đi với ông vào nhà thờ Ðức Bà Biển Khơi gần nhà thầy, để nói chuyện. Ông trình bày với thầy giáo kinh nghiệm nội tâm của ông với đầy đủ chi tiết và giải thích lý do tại sao ông rất chậm tiến trong việc học hành. Rồi ông hứa với thầy giáo rằng: “Suốt hai năm bao lâu còn kiếm được bánh mà ăn và nước để uống tại Barcelôna, tôi quyết sẽ không bao giờ bỏ học với thầy.” Sau khi cương quyết hứa như vậy, ông không bao giờ còn bị cám dỗ nữa.

            Từ hồi sống tại Manrêsa, ông vẫn đau dạ dày vì vậy ông bắt đầu đi giầy. Nhưng từ khi lên đường đi Giêrusalem ông không còn đau nữa. Do đó, trong thời gian học hành tại Barcelôna, ông lại nảy ý muốn sống khắc khổ như trước. Ông đục một cái lỗ ở đế giầy, và từ từ nới rộng cái lỗ cho tới khi mùa lạnh đến thì đôi giầy chỉ còn lại cái mũi mà thôi.

 

56. Học xong hai năm, theo nhận xét của một số người thì ông đã tiến bộ rất khá. Thầy giáo nói bây giờ ông có thể theo lớp trung học được và nên đi học tại Alcala. Tuy nhiên ông muốn nhờ một tiến sĩ thần học khảo thi, và ông này cũng khuyên ông như vậy.

            Mặc dù lúc bấy giờ hình như ông đã qui tụ được một số bạn bè rồi nhưng lại lên đường đi Alcala một mình. Tới nơi ông bắt đầu xin ăn, và đã xin như thế lối chừng mười, mười hai ngày, thì một linh mục cùng vài người đi theo thấy I-Nhã xin ăn liền bắt đầu chế nhạo và chọc tức như thiên hạ thường hay nhạo cười những người khoẻ mạnh mà cứ xin ăn. Lúc ấy, có một người đi ngang qua đường - ông này phụ trách nhà thương Antezana mới mở - thấy cảnh khó chịu đó và mời người lữ khách về nhà thương của mình, dành cho một phòng và cung cấp cho mọi đồ dùng cần thiết.

 

57. Ông ở lại Alcala học hành chừng độ một năm rưỡi. Vì ông đã tới Barcelôna vào Mùa Chay năm 1524 và học ở đó hai năm, nên chắc hẳn ông đã đến Alcala vào năm 1526. Tại đó ông học ba cuốn giáo khoa là Luân Lý Học của tác giả Ða Minh Soto, Vạn Vật Học của Albertô Cả và Sách Luận Ðề là tác phẩm thần học nổi tiếng thời đó của tác giả Petrus Lombardus, giáo sư thần học tại Paris, sáng tác vào giữa thế kỷ thứ 12.

            Tại Alcala ông thường hay hướng dẫn Linh Thao và dạy giáo lý. Nhờ đó mà có kết quả thiêng liêng và Thiên Chúa được ca ngợi. Có nhiều người tiến khá xa trong đời sống thiêng liêng và trở nên sốt sắng. Nhiều người khác lại bị thử thách, mỗi người một khác. Có người muốn đánh tội mà không được như có ai cầm tay họ lại. Một số chuyện tương tự như thế gây náo động trong dân chúng, vì có rất đông người tụ họp nơi ông lữ khách dạy giáo lý.

            Từ khi mới về Alcala, I-Nhã làm quen với ông Diego Guia đang sống tại nhà người anh. Người anh này có một nhà in tại Alcala và khá sung túc. Cả hai anh em giúp đỡ I-Nhã có phương tiện để giúp người nghèo, và người anh cho ba người bạn của người lữ khách trọ tại nhà ông. Một hôm người lữ khách xin Deigo cho phương tiện để giúp người nghèo, thì ông này trả lời không có tiền nhưng lại mở một cái rương chứa nhiều đồ đạc và cho I-Nhã lấy nhiều thứ chăn mền màu sắc khác nhau, cùng giá đèn và nhiều đồ khác. Người lữ khách lấy đồ, gói vào một cái khăn và đưa đi giúp người nghèo.

 

58. Như đã kể trước, thiên hạ đồn đãi rất nhiều về người lữ khách tại khắp vùng, người nói thế này kẻ nói thế khác. Những tiếâng đồn đó đến tai viên thanh tra tại Tôlađa. Khi họ tới Alcala, chủ nhà báo tin ngay cho người lữ khách biết và còn cho hay thêm rằng họ gọi nhóm của I-Nhã là “những người mặc áo len thô” và hình như “kẻ giác ngộ nữa,” họ sẽ tiêu diệt cả nhóm. Quả thực các nhân viên thanh tra mở ngay cuộc điều tra về lối sống của nhóm, nhưng không tra hỏi I-Nhã vì lần này họ chỉ đến để điều tra thôi, rồi lại trở về Tôlêđô. Họ trao phó vụ án cho một linh mục đại diện tên là Figueroa hiện có chân trong hội đồng cố vấn của hoàng đế. Vài ngày sau linh mục Ðại Diện triệu tập anh em lại và cho họ biết các nhân viên thanh tra đã điều tra về lối sống của họ. Vì không tìm được gì sai lầm trong giáo lý và lối sống, nên anh em được phép tiếp tục làm việc không ai làm khó dễ. Tuy nhiên vì không phải là tu sĩ nên không ai được mặc đồng phục. Ông ra lệnh cho hai người - ông đưa tay chỉ người lữ khách và Artêaga - phải nhuộm áo màu đen và hai người kia, tức Galixtô và Caceres, nhuộm màu hung hung; còn Juanico, là một thanh niên Pháp, thì có thể giữ nguyên quần áo.

 

59. Người lữ khách hứa tuân theo và nói tiếp: “Họ điều tra chúng tôi làm gì? Hôm nọ một linh mục không chịu trao Mình Thánh cho một người trong nhóm chúng tôi, lấy cớ là người ấy chịu Mình Thánh hàng tuần. Và họ còn làm khó dễ chúng tôi cũng chỉ vì lý do đạo đức. Chúng tôi muốn biết họ có thấy chúng tôi có rối đạo về điểm nào không?” Ông Figueroa trả lời: “Không, nếu họ tìm thấy thì họ đã thiêu sống các anh.” Người lữ khách đáp lại: “Họ cũng sẽ thiêu sống ông luôn nếu họ thấy ông rối đạo.” Nhóm của I-Nhã nhuộm quần áo theo lệnh trên. Mười lăm hoặc hai mươi ngày sau, ông Figueroa chỉ thị cho người lữ khách không được đi chân không, nhưng phải đi giầy. Ông lặng lẽ tuân theo, như trong trường hợp có lệnh rõ rệt.

            Bốn tháng sau lại họ mở cuộc điều tra. Ngoài những lý lẽ cũ có một vụ mới là một phụ nữ quí phái có chồng tỏ ra kính phục riêng người lữ khách. Vào sáng sớm bà đến gặp ông tại nhà thương và để người ta khỏi nhận ra, bà lấy khăm trùm đầu theo phong tục Alcala. Lúc vào nhà thương bà cởi khăn ra vào phòng ông. Tuy nhiên lần đó họ không làm khó dễ nhóm I-Nhã, không đòi ra toà và không nói năng gì cả sau khi vụ án chấm dứt.

 

60. Bốn tháng sau, khi I-Nhã đang ở trong một căn nhà nhỏ ở ngoài nhà thương, một người tùy phái đến gõ cửa và bảo: “Mời anh đi với tôi.” Tới nhà giam, người này xô I-Nhã vào và nạt: “Anh không được ra khỏi đây cho tới khi có lệnh mới!” Ðó là vào mùa hè. Vì không bị kiểm soát gắt gao nên có đông người đến thăm. Ông vẫn tiếp tục làm việc như trước, tức là dạy giáo lý và hướng dẫn linh thao.

            Dù nhiều người đã tình nguyện giúp đỡ, ông không bao giờ chấp thuận nhờ luật sư hay tham tá nào. Ðặc biệt nhờ có bà Têrêsa Cardênas sai người đến thăm và đề nghị nhiều lần can thiệp để I-Nhã được tha. Tuy nhiên, ông không nhận, và luôn nói rằng: “Tôi vào đây vì yêu mến ai, thì Ðấng ấy sẽ lo cho tôi ra, nếu việc ấy hữu ích để phục vụ Ngài.”

 

61. Ông ở nhà tù 17 ngày không ai hỏi han điều gì, và không biết tại sao bị bắt. Sau cùng, linh mục đại diện đến nhà tù, hỏi I-Nhã nhiều chuyện kì lạ, như có phải ông dậy môn đệ nghỉ ngày thứ bảy không? Ông hỏi thêm I-Nhã có quen với hai mẹ con người đàn bà nọ chăng? I-Nhã trả lời có, và trước khi họ lên đường ông có biết ý định của họ ra đi không? I-Nhã trả lời không biết vì đã hứa với họ! Nghe vậy, vị đại diện đặt tay lên vai I-Nhã và vui vẻ nói: “Tôi đến đây để chỉ biết có bấy nhiêu thôi.”

            Quả thực trong số những người theo I-Nhã có hai mẹ con người đàn bà kia, cả hai đều goá chồng, hai người đã tiến khá xa trong đời sống thiêng liêng, đến độ mặc dù thuộc một gia đình quí tộc, họ đã đi bộ đến đền thờ Veronica tại Ruen và không nhờ ai đi theo giúp. Vụ đó đã gây xôn xao tại Alcala. Giáo sư Ciruêlô là người có trách nhiệm giám hộ hai phụ nữ. Vì đinh ninh chính người lữ khách khuyến khích họ đi hành hương, nên đã tố cáo để ông bị bắt giam. Sau khi nghe vậy, ông lữ khách nói: “Ông có muốn tôi nói thêm về vụ này không?” Ông đại điện đáp: “Ðược anh cứ nói.” “Tôi muốn cho các ông biết hai phụ nữ này đã năn nỉ tôi nhiều lần, bởi vì họ muốn đi phục vụ người nghèo tại khắp các nhà thương nhưng tôi luôn luôn ngăn cản họ. Vì người con gái còn rất trẻ và khiến nhiều người chú ý tới cô ta. Tôi đã khuyên họ, nếu muốn thăm viếng người nghèo thì có thể làm ngay tại Alcala, và cũng có thể viếng Thánh Thể Chúa nữa.” Cuộc gặp gỡ chấm dứt, ông Figueroa ra về với lục sự đem theo biên bản.

 

62. Hồi đó Calixtô đang ở Segovia. Mới nghe người lữ khách bị bắt giam. Mặc dù mới khỏi bệnh anh ta đến ngay, và ở lại luôn tại nhà giam. Nhưng người lữ khách bảo anh nên trình linh mục đại diện. Ông tiếp đón anh ta ân cần và cho biết ông sẽ nhốt anh ta luôn, cho đến khi hai phụ nữ trở về xem họ có khai đúng như như lời người lữ khách không. Thế là Calixtô ở tù ít bữa. Nhưng thấy anh ta khó chịu vì chưa khỏi bệnh hẳn, người lữ khách nhờ một người bạn thân can thiệp cho ra.

            Từ khi vào tù đến khi ra, người lữ khách bị nhốt 42 ngày. Hai phụ nữ trở về, lục sự tới nhà giam đọc bản án rằng: “Tù nhân được tự do nhưng ông và các bạn phải ăn mặc như các sinh viên khác, không được giảng dạy đức tin cho đến khi họ học hành đủ trong thời gian bốn năm, vì xét thấy chưa đủ kiến thức.” Thực ra người lữ khách là người có học thức khá hơn các người kia, nhưng chưa có căn bản vững chắc. Ðiều đó ông nói ngay khi có người hỏi đến.

 

63. Bản án khiến ông phân vân không biết phải làm gì. Người ta vô cớ ngăn cản không cho ông giúp các linh hồn chỉ vì chưa học hành đầy đủ. Sau cùng ông đến gặp Tổng Giám Mục Tôlêđô tên là Fonsêca để nhờ giải quyết vấn đề.

            Ông rời khỏi Alcala và gặp Tổng Giám Mục tại Valladolid. Ông kể tỉ mỉ câu chuyện, rồi nói thêm rằng mặc dù bây giờ ông không còn dưới quyền của Tổng Giám Mục nữa và không còn bị ràng buộc theo bản án, ông vẫn sẽ vâng theo chỉ thị của Tổng Giám Mục. Tổng Giám Mục tiếp đón ông niềm nở và khi nghe I-Nhã có ý định đi Salamanca, nơi ông có một số bạn và trường học, thì ông đề nghị nhờ họ giúp đỡ I-Nhã. Trước khi I-Nhã lên đường, ông lại cho bốn đồng tiền vàng.

 


 

Bị Ðiệu Ra Tòa tại Salamanca (1527)

 

64. Sau khi I-Nhã tới Salamanca rồi, một hôm đang lúc cầu nguyện trong một nhà thờ, một phụ nữ đạo đức nhận ra ông, và bà cho biết bốn người thuộc nhóm ông đã kết nạp đã ở đó mấy hôm rồi, và đưa ông đến nhà các bạn ở.

            Ở Alcala, khi người ta ra bản án buộc các bạn ăn mặc như sinh viên, người lữ khách đã nói: “Khi quý ông bảo chúng tôi nhuộm quần áo thì chúng tôi đã tuân theo. Nhưng bây giờ chúng tôi không thể tuân theo lệnh của các ông được vì không có phương tiện mua quần áo mới.” Vậy chính linh mục đại diện đã cho họ quần áo, nón và tất cả đồ dùng sinh viên. Lúc rời Alcala họ ăn mặc theo kiểu đó.

            Tại Salamanca, người lữ khách đã nhờ một Cha Dòng Ða Minh thuộc tu viện Thánh Têphanô làm linh hướng. Mười hai ngày sau khi I-Nhã tới nơi, Cha linh hướng nói với ông: “Một số Cha trong tu viện muốn gặp anh.” Ông trả lời: “Vì Danh Chúa con sẽ đến.” Cha nói thêm: “Vậy thì anh đến dùng bữa trưa ngày Chủ Nhật. Tôi nói trước cho anh hay các Cha muốn biết rất nhiều chuyện về anh.”

            Ngày Chúa Nhật, ông đi với Calixtô. Bữa cơm xong, Cha phụ tá viện trưởng - vì viện trưởng vắng mặt - mời hai Cha khách cùng Cha linh hướng và hình như một Cha khác nữa vào nhà nguyện. Cha phụ tá dùng lời lẽ nhã nhặn nói rằng các Cha đã nghe nhiều điều hay về đời sống đạo đức của các anh và nghe nói các anh đi rao giảng như các Thánh Tông Ðồ. Tuy nhiên, các Cha muốn được biết tỉ mỉ hơn. Vậy trước tiên Cha hỏi họ đã học hành đến trình độ nào. Người lữ khách đáp: “Trong nhóm, tôi là người học nhiều nhất.” Rồi ông nói rõ ràng những điều ông đã học, cũng như về nền tảng học vấn bấp bênh của ông.

 

65. Rồi các Cha hỏi tiếp: “Bây giờ xin các anh cho biết các anh đã giảng những gì?” Người lữ khách đáp: “Chúng tôi không giảng nhưng nói chuyện đơn sơ với một số người, như các người mời chúng tôi dùng cơm.” Cha hỏi tiếp: “Ðược rồi, nhưng các anh nói về những điều thiêng liêng nào? Ðó là những điều chúng tôi muốn biết.” Người lữ khách đáp: “Có khi chúng tôi nói về nhân đức này hoặc nhân đức khác và khuyến khích người ta theo; có khi lại nói về các thói xấu khác nhau và lên án.” Cha lại nói tiếp: “Các anh không có học, mà lại nói về các nhân đức và các thói xấu! Người ta chỉ có thể nói về các đề tài đó hoặc vì đã học hoặc vì Chúa Thánh Thần soi sáng. Nhưng các anh không có học nên chỉ nói vì có Chúa Thánh Thần soi sáng. Vậy chúng tôi muốn biết Chúa Thánh Thần đã soi sáng những gì?” Nghe vậy, I-Nhã bắt đầu dè dặt vì nhận thấy cách lý luận đó không tốt. (Thánh I-Nhã dè dặt vì cách lý luận đó cho thấy Cha phụ tá nghi ngờ họ theo phe lạc giáo Alumbrađô đã bị két án mấy năm trước (1623). Theo phe này thì quan trọng hơn hết là kết hợp với Chúa Thánh Thần, khỏi cần theo chỉ thị của hàng giáo phẩm). Im lặng một lúc, ông lại nói không cần bàn thêm về vấn đề đó nữa. Nhưng Cha phụ tá nói tiếp: “Sao vậy? Trong lúc tư tưởng của ông Êrasmô và nhiều người khác đang đầu độc thiên hạ, thì các anh lại không muốn biện minh cho giáo lý các anh dạy sao?”

 

66. Người lữ khách đáp dứt khoát: “Thưa Cha, tôi sẽ không nói gì thêm trừ khi các bề trên buộc tôi phải nói trước mặt các ngài.” Trước đó, Cha phụ tá có hỏi tại sao Calixtô lại ăn mặc như vậy. Anh ta mặc một chiếc áo ngắn, đội một chiếc nón rộng, cầm một cây gậy và chân đi giầy ống cao đến đầu gối. Vì anh này có vóc dáng cao nên càng có vẻ vụng về. Người lữ khách giải thích rằng tại sao ở Alcala họ đã bị bắt giam và được lệnh ăn mặc như sinh viên, nhưng vì mùa nắng, anh bạn đã lấy áo rộng nhường cho một sinh viên nghèo. Nghe vậy, ông Cha nói lẩm bẩm có vẻ không bằng lòng: “Bác ái thì phải bắt đầu với bản thân chứ!”

            Nhưng để trở lại câu chuyện, thấy rằng không thể bắt người lữ khách nói thêm điều gì nữa, Cha phụ tá kết luận: “Ðược rồi, các anh sẽ ở lại đây. Chúng tôi sẽ tìm cách bắt các anh khai hết.” Lập tức các Cha vội vàng ra về. Trước đó, người lữ khách hỏi rằng họ sẽ ở lại trong nhà nguyện hay ở đâu, thì Cha phụ tá nói phải ở lại nhà nguyện. Khóa tất cả các cửa rồi, các Cha đi thưa chuyện cùng các thẩm phán. Tuy nhiên, hai ông ở lại trong tu viện ba ngày, ăn uống tại phòng cơm của các tu sĩ, nhưng không được biết gì về quyết định của các thẩm phán đối với họ.

            Phòng hai ông ở luôn luôn có đông các tu sĩ đến thăm. Người lữ khách vẫn nói về các đề tài đạo đức như thói quen. Hình như các tu sĩ chia làm hai phe, có nhiều người thông cảm với người lữ khách.

 

67. Sau ba ngày có lục sự đến đưa họ tới nhà giam. Họ không bị nhốt ở phòng dưới với các phạm nhân thường. Nhưng ở trên lầu trong một phòng cũ kỹ lâu năm không có ai ở nên hết sức dơ dáy. Cả hai bị xiềng chung bằng một cái xích, mỗi người bị buộc một chân, và cái xích bị buộc quanh cái cột ở giữa phòng. Cái xích dài chừng hai thước rưỡi, mỗi khi một trong hai người làm gì thì người kia cũng phải lết theo. Hôm đó hai người thức suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, khi người ta biết tin hai người bị giam, thì họ chở tới nhà giam giường ngủ và đủ mọi thứ đồ dùng cần thiết. Luôn luôn có nhiều người đến thăm và người lữ khách nói về Chúa và giúp đỡ họ.

            Ông Frias (có bằng tú tài) đến thẩm tra riêng mỗi người. Người lữ khách trao cho ông tất cả tập vở, tức là bản Linh Thao để ông xem xét. Khi được hỏi có bạn cùng nhóm không, thì hai người trả lời có và chỉ chỗ họ ở. Lập tức theo lệnh của ông tú tài có người đi bắt và đưa vào nhà giam Caceres và Artêaga; cậu Juniatô không bị bắt, sau đó cậu đi tu. Hai người không bị nhốt ở phòng trên, nhưng tại phòng dưới với các phạm nhân khác. Lần này, người lữ khách vẫn không nhờ luật sư hay trợ tá toà án giúp đỡ.

 

68. Vài ngày sau, người lữ khách bị điệu đến trước mặt bốn thẩm phán, gồm ba tiến sĩ là: Santisiđôrô, Paravinhas, Frias và ông tú Frias. Cả bốn người xem xét bản Linh Thao và dò hỏi nhiều câu, không những về đề Linh Thao mà còn cả về những vấn đề thần học nữa. Thí dụ về Thiên Chúa Ba Ngôi và phép Thánh Thể, để xem hai ông hiểu biết như thế nào.

            Trước hết, người lữ khách xin lỗi với lời khai mở đầu. Tuy nhiên theo lệnh các thẩm phán ông nói rành mạch, các thẩm phán không thấy có điều gì đáng trách. Riêng ông tú Frias - trong vụ tra hỏi thường tỏ vẻ khắt khe hơn những người khác - hỏi thêm cách thức giải đáp thắc mắc về giáo luật. Hỏi bất cứ điều gì, người lữ khách vẫn giải đáp, nhưng mỗi lần, ông đều nói rằng ông không biết các tiến sĩ nghĩ như thế nào về các vấn đề ấy.

            Sau đó, họ bảo ông cắt nghĩa điều răn thứ nhất theo cách thức ông hay giảng dạy. Ông bắt đầu ngay và nói dài dòng về điều răn này. Họ không còn muốn hỏi thêm điều gì nữa.

            Trước đó, khi hỏi về Linh Thao, họ hỏi nhiều lần về một điểm, và chỉ hỏi về điểm đó thôi. Trình bày trong các phần đầu linh thao: “Một tư tưởng xấu, lúc nào là tội trọng, lúc nào là tội nhẹ?” Họ muốn xem ông không có học, làm sao quyết định được vấn đề đó. Ông trả lời: “Tôi nói phải hay trái, tùy các ông định liệu. Nếu tôi nói không phải thì các ông cứ kết án lời tôi.” Cuối cùng họ được đưa về nhà giam và không ai bị kết án điều gì.

 

69. Trong số những người đến thăm người lữ khách tại nhà giam, một hôm có Cha Phanxicô Menđôza, hiện là Hồng Y thành phố Burgos, đi với ông tú Frias. Ông thân mật hỏi I-Nhã ở tù thấy làm sao, có lấy làm khó chịu không? I-Nhã trả lời: “Hôm nay có một bà thấy tôi ở tù, bà nói lời thương xót. Tôi có thể trả lời Cha như đã trả lời bà ấy rằng: Nói như vậy, bà chứng tỏ không thích ở tù vì lòng mến Chúa. Tù đâu phải là một tai họa. Nói thật với bà tại Salamanca có bao nhiêu xiềng xích, vẫn chưa đủ để tôi ao ước chịu đựng hầu tỏ lòng mến Chúa.”

            Hồi đó, có một lần tất cả các tù nhân đều vượt ngục, trừ người lữ khách và người bạn không chịu vượt ngục. Sáng hôm sau, người ta thấy hai ông ngồi trước một cánh cửa mở toang không còn người nào khác. Vụ đó đã gây xôn xao trong thành phố, khiến nhiều người thán phục. Lập tức người ta dành cho họ cả một nhà lầu lớn gần đó làm nhà giam.

 

70. Sau khi bị tù hai mươi hai ngày, họ được mời để nghe bản án. Trong lối sống cũng như trong giáo lý của họ không tìm thấy lỗi lầm nào. Vậy họ được tiếp tục giảng dạy giáo lý và nói về Chúa như trước, với điều kiện không được bao giờ quả quyết: “Ðây là tội trọng, đây là tội nhẹ.” Ðó là thời gian bốn năm phải học thêm nữa.

            Sau khi đọc bản án, vì muốn hai ông tuân theo, nên các thẩm phán tỏ ra rất ân cần với họ. Người lữ khách nói rằng: họ sẽ tuân phục bản án nhưng không đồng ý, bởi vì mặc dù không lên án họ về điểm nào, nhưng ngăn cản không cho phép họ nói để giúp đỡ tha nhân theo khả năng của họ. Tiến sĩ Frias tỏ ra xúc động và cố gắng thuyết phục hai ông. Nhưng người lữ khách không bàn thêm điều gì nữa, chỉ nói rằng họ sẽ tuân theo bản án bao lâu còn trong địa phận Salamanca mà thôi.

            Ngay sau khi rời khỏi nhà giam, người lữ khách bắt đầu suy nghĩ và cầu nguyện xin Chúa chỉ cách giải quyết vấn đề. Ở lại Salamanca thì ông sẽ gặp khó khăn: muốn giúp đỡ các linh hồn thì gặp trở ngại vì lệnh không cho quyết định đâu là tội trọng đâu là tội nhẹ.

 

71. Do đó ông quyết định đi Paris học. Tại Barcelôna, khi suy xét có nên học hành và học trong thời gian bao lâu. Tuy nhiên, vấn đề chính là, sau khi học xong, ông có nên đi tu hay đi khắp thiên hạ? Lúc có ý đi tu ông nghĩ ngay đến một dòng nào suy đồi và chưa cải tổ, cốt là để gặp nhiều thử thách, đồng thời nghĩ có lẽ Chúa cũng sẽ giúp đỡ các tu sĩ, và Chúa cũng sẽ giúp ông tin tưởng và sẽ đủ nghị lực để chịu đựng mọi sỉ nhục và xúc phạm sẽ gặp phải.

            Suốt thời gian tại Salamanca, ông vẫn ao ước giúp đỡ các linh hồn. Và để làm việc đó, được học hành thêm cũng như qui tụ thêm một số bạn bè cùng chia sẻ lý tưởng đó, cùng với những người đã theo ông rồi. Sau khi quyết định đi Paris, ông điều đình với các bạn để họ chờ tại chỗ trong khi ông đi xem có tìm được phương tiện để mọi người học hành được không.

 

72. Nhiều người có địa vị cố thuyết phục ông đừng đi nhưng vô ích. Lối chừng mười lăm, hai mươi ngày sau khi ra tù, ông lên đường một mình kéo theo một con lừa nhỏ chở ít sách trên lưng. Tới Barcelôna, tất cả những người quen tìm cách thuyết phục ông đừng đi sang Pháp vì chiến tranh đang diễn ra tại đó. Họ kể cho ông nghe nhiều chuyện cụ thể và còn nói rằng ở đó người ta nướng người Tây Ban Nha, nhưng ông không hề cảm thấy sợ sệt.

 


 

Những Năm Ðại Học và Những NGười Bạn Tiên Khởi (1528 – 1535)

 

73. Vậy I-Nhã lên đường đi bộ đến Paris. Ông tới nơi vào lối tháng hai, theo ông kể chuyện thì đó là vào năm 1528 hoặc 1527. Ông trọ ở một căn nhà với một người Tây Ban Nha và đi học trung học tại trường Montague. Ông học lại chương trình trung học là vì hồi trước ông đã học quá vội, thiếu căn bản. Ông học chung với trẻ em theo phương pháp và chương trình áp dụng tại Paris.

            Tại Barcelôna, có người đã cấp cho người lữ hành một chi phiếu, nhờ đó, tại Paris, một thương gia trả cho I-Nhã 25 đồng tiền vàng. Ông gửi số tiền này nơi một người Tây Ban Nha ở nhà trọ. Ít lâu sau người này tiêu xài hết tiền và không có tiền trả. Thế là hết, Mùa Chay người lữ khách không còn một xu dính túi, vì chính ông cũng đã tiêu chút đỉnh rồi và vì lý do trên, ông phải ăn xin và rời khỏi nhà trọ luôn.

 

74. Ông được tiếp đón tại nhà thương Thánh Giacôbê, bên kia nhà thờ các Thánh Anh Hài. Ðối với việc học hành thì trọ ở nhà thương rất bất tiện. Vì nhà thương cách trường học khá xa. Buổi chiều muốn vào kịp trước khi khóa cổng thì phải về trước giờ Kinh Truyền Tin, và buổi sáng thì phải sáng hẳn rồi mới được ra ngoài. Do đó, ông không thể dự tất cả các giờ học đầy đủ, lại phải thêm một khó khăn nữa là còn phải xin ăn để sống.

            Vì từ gần năm năm nay không còn đau dạ dày nữa, I-Nhã lại sống khắc khổ và ăn chay. Ông trọ tại nhà thương và xin ăn một thời gian, nhưng thấy không mấy tiến bộ trong việc học hành, I-Nhã liền bắt đầy suy nghĩ xem phải làm gì. Thấy một số sinh viên vừa học vừa giúp việc cho các giáo sư quản lý các trường học, ông quyết định đi tìm một người mướn ông.

 

75. Ông tính toán và nghĩ bụng - điều này làm ông phấn khởi - sẽ coi giáo sư là Chúa Kitô, và trong số các học sinh, ông sẽ coi người này là Thánh Phêrô, người kia là Thánh Gioan, v. v. mỗi người là một Tông đồ. Ông nghĩ khi giáo sư sai bảo điều gì ông sẽ nghĩ đó là lệnh của Chúa Kitô; khi nguời khác nói gì thì ông nghĩ đó là lời của Thánh Phêrô, Gioan. Ông rất lo lắng đi tìm việc làm, nhờ ông Castro, một tu sĩ thuộc đan viện Cartusiô quen biết nhiều giáo sư, và nhờ một số người khác nữa.

 

76. Sau cùng, vì không tìm được việc gì, một tu sĩ gốc Tây Ban Nha góp ý kiến cho I-Nhã mỗi năm đi tới xứ Flandres, ở lại đó hai tháng hoặc ít hơn, để quyên tiền sống suốt niên học. Sau khi cầu nguyện, ông thấy giải pháp này hay. Ông đi và mỗi năm đem về được một số tiền đủ để sống thanh bần. Có một năm ông qua nước Anh và quyên về được nhiều hơn các năm trước.

 

77. Sau khi đi xứ Flandres về lần đầu, I-Nhã lại tiếp tục các cuộc đối thoại thiêng liêng hăng hái hơn trước. Ðồng thời hướng dẫn Linh Thao cho ba người tên là Pêralta, Castro và một người khác gốc Bascô tên là Amador đang ở trường Thánh Barbara. Cả ba người này thay đổi sâu xa. Họ phân phát tất cả của cải cho người nghèo, kể cả sách học nữa và bắt đầu đi ăn xin khắp thành phố Paris, ở những nơi người lữ khách trước đây đã ở, như đã kể trên. Vụ này gây xôn xao viện đại học, bởi vì hai người này trước đây có địa vị cao và được nhiều người biết đến. Những người Tây Ban Nha bắt đầu chống đối những người đó, sau khi đưa ra nhiều lý lẽ thuyết phục hai người trở về đại học nhưng vô ích. Thế rồi cả một đám người cầm vũ khí đến nhà thương lôi hai người ra, kéo về đại học và bảo rằng sau khi học xong mới được thực hiện ý định đó.

 

78. Một thời gian sau, Castro trở về Tây Ban Nha giảng tại Burgos và cuối cùng tu dòng Cartusiô tại Valencia. Pêralta thì đi hành hương tới Giêrusalem, nhưng khi đi qua Italia thì gặp một người bà con là sĩ quan trong quân đội, ông liền bị bắt đem đến Tư Dinh Ðức Giáo Hoàng và được lệnh trở về Tây Ban Nha. Việc này xảy ra mấy năm sau chứ không phải ngay thời đó.

            Tại Paris, có nhiều người nói xấu người lữ khách, đặc biệt trong giới người Tây Ban Nha. Giáo sư Gouvera cho hay rằng vì đã làm cho Amador ra điên, nên lần sau I-Nhã đến trường Thánh Barbara, ông sẽ bị “đánh đòn công khai” vì tội mê hoặc học trò.

 

79. Người Tây Ban Nha đã trọ cùng I-Nhã lúc ban đầu, và đã tiêu hết tiền của ông không trả nổi, lên đường về Tây Ban Nha qua đường phố Rouen. Ðang khi chờ tàu nhổ neo thì ông lâm bệnh. Người lữ khách hay tin qua một lá thư ông gửi, và nẩy ý muốn đi thăm và giúp đỡ ông này, hy vọng rằng nhờ dịp này có thể lôi kéo ông ta bỏ thế gian, để hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa.

            Ðể được ơn đó, I-Nhã có ý muốn đi bộ từ Paris tới Rouen, khoảng 25 dặm, đi chân không, nhịn ăn uống. Lúc cầu nguyện về ý muốn này ông cảm thấy sợ sệt. Sau cùng ông vào nhà thờ Thánh Ða Minh cầu nguyện và nhất quyết lên đường theo dự định và không còn sợ là làm như vậy là thử thách Thiên Chúa nữa.

            Sáng hôm sau, ngày lên đường, ông thức dậy và khi bắt đầu mặc quần áo, ông cảm thấy run sợ đến nỗi không mặc nổi áo. Dù kinh hãi như vậy ông lên đường và rời khỏi thành phố khi trời vừa sáng. Ông vẫn sợ sệt cho đến khi đến ấp Argenteuil, cách Paris lối chừng hai dặm, ở đó theo tục truyền có giữ áo Chúa Giêsu. Sau khi đi qua ấp này và bắt đầu leo đồi, thì cơn thử thách tiêu tan. I-Nhã cảm thấy hết sức phấn khởi đến độ ông gào thét và nói chuyện với Chúa trên cánh đồng.

            Ngày hôm đó, sau khi đi mười bốn dặm, ông ở nhà thương với một người ăn mày; ngày thứ hai ngủ trên một đống rơm và ngày thứ ba tới Ruen. Suốt ba ngày, ông không ăn uống và đi chân không, như đã quyết định. Tại Ruen ông an ủi người bệnh, giúp ông ta lên tàu trở về Tây Ban Nha và viết thư giới thiệu ông ta với các bạn ở Salamanca tức là Calixtô, Caceres và Arteaga.

 

80. Về những người bạn này, xin kể vắn tắt về họ. Trong thời gian ở Paris, theo như đã điều đình với nhau, người lữ khách viết thư cho họ nhiều lần và trình bày vấn đề khó tìm cách cho họ tới Paris học hành.  Ông còn viết thư gửi bà Lêônor Mascarenhas nhờ bà giới thiệu Calixtô đến triều đình vua Bồ Ðào Nha để anh ta kiếm được học bổng theo chương trình cấp học bổng tại Paris của Vua Bồ Ðào Nha. Bà Lêônor cấp cho Calixtô thư giới thiệu và tiền bạc tiêu sài.

            Calixtô tới triều đình vua Bồ Ðào Nha, nhưng cuối cùng không đi tới Paris, trái lại anh trở về Tây Ban Nha và đi Châu Mỹ thuộc quyền Hoàng Ðế với một phụ nữ đạo đức. Ông trở về Tây Ban Nha rồi lại đi Châu Mỹ lần thứ hai, khi trở về thì giầu to, mọi người quen anh ta trước kia đều ngạc nhiên.

            Caceres trở về quê ở Segovia và bắt đầu sống như đã quên hẳn ý định tốt lành trước kia.

            Artêga thì được phong chức huân tước. Về sau khi có dòng tại Roma rồi, ông được phong chức Giám Mục và được trao phó cho một địa phận tại Châu Mỹ. Ông viết thư gửi người lữ khách và xin nhường địa phận đó cho một anh em trong dòng. Sau khi nhận được thư từ chối, ông chịu chức Giám Mục và đi Châu Mỹ. Cuối cùng ông chết cách bất ngờ. Số là khi đang nằm trên giường bệnh, có hai chai nước, một chai đựng nước uống theo lệnh y sĩ, còn chai kia đựng thuốc độc. Người ta lấy lầm chai và đưa cho ông uống thuốc độc khiến ông chết.

 

81. Lúc đi Rouen trở về Paris, người lữ khách thấy người ta xôn xao rất nhiều về mình, do câu chuyện liên can đến Castro và Pêralta, và nghe rằng viên thanh tra đã tỏ ý muốn gặp ông. Ngay tức khắc, người lữ khách tìm gặp ông thanh tra và nói rằng hình như ông đã được mời đến, và sẵn sàng tuân theo lệnh ông thanh tra nếu ông có gì dạy bảo. Tuy nhiên, ông xin giải quyết vấn đề mau chóng, và mong rằng vụ này sẽ kết thúc trước ngày lễ Thánh Rêmy là ngày khai giảng. Ông có ý định ghi tên đại học và mong vụ đó sớm kết thúc để tập trung vào việc học. Tuy nhiên, viên thanh tra không gọi I-Nhã nữa, nhưng chỉ nói rằng đã có người kể cho ông ta nghe về công việc của I-Nhã.

 

82. Ít lâu sau là lễ Thánh Rêmy, tức là ngày đầu tháng mười, I-Nhã bắt đầu học với một ông thày tên là Gioan Pêna. Lúc đó ông có ý duy trì nhóm người đã quyết tâm phụng vụ Thiên Chúa, nhưng không muốn tìm thêm người để tiện việc học hành.

            Khi bắt đầu đi học, ông lại bị thử thách như khi còn học tiểu học tại Barcêlôna. Mỗi lần nghe giảng ông không thể tập trung được vì các tư tưởng đạo đức dồi dào đến với ông. Thấy học như thế không có lợi ích bao nhiêu, ông tới gặp giáo sư và hứa sẽ không bao giờ bỏ một giờ học nào bao lâu còn kiếm được bánh mì ăn và nước uống đủ sống. Sau khi hứa như thế, tất cả các tư tưởng đạo đức đến với ông vào các lúc bất lợi đều tiêu tan, và ông có thể tiếp tục học hành đều đặn.

            Thời đó ông thường nói chuyện vói hai cử nhân Phêrô Fabre và Phanxicô Xavier. Về sau, qua Linh Thao ông thuyết phục được hai ông này quyết tâm phục vụ Thiên Chúa.

            Hồi đó, không ai làm khó dễ I-Nhã như trước. Có lần tiến sĩ Fragô nói với ông là ông lấy làm lạ vì thấy ông rất bình thản không bị ai gây khó khăn gì, thì ông trả lời: “Ðó là vì tôi không nói với ai về đời sống thiêng liêng; nhưng một khi học xong chúng tôi sẽ tiếp tục như cũ.”

 

83. Hai ông đang nói chuyện với nhau thì có một tu sĩ đến xin tiến sĩ Fragô kiếm giùm một căn phòng. Vì tại nhà ông trọ, đang có nhiều người chết, có lẽ vì dịch hạch thời đó đang lan tràn tại Paris. Tiến sĩ Fragô và người lữ khách muốn đi xem nhà đó và mời một phụ nữ có kinh nghiệm đi theo họ. Bà vào nhà quan sát một lát thì nói là dịch hạch.

            Người lữ khách cũng vào nhà, thấy có một người nằm đau thì an ủi người ta, và tay đụng đến vết thương của người ấy, một lúc sau ra về một mình. Tự nhiên tay ông bắt đầu đau như đã bị mắc dịch hạch. Cảm tưởng này in sâu vào tâm trí ông đến độ không thể thoát nổi, cho đến khi ông cương quyết đút tay vào miệng và xoay đi xoay lại nhiều lần, tự nhủ rằng nếu tay bị mắc dịch hạch thì bây giờ cho miệng mắc luôn xem sao. Sau khi làm như vậy, ông hết còn cảm tưởng mắc bệnh và tay hết đau.

 

84. Tuy nhiên, lúc về trường Thánh Barbara nơi ông đang trọ và học, người nhà biết ông đã vào căn nhà có dịch hạch thì tránh xa ông và không muốn ông vào nhà. Ông phải ngủ ở ngoài mấy ngày. Theo phong tục tại Paris, các sinh viên đại học năm thứ ba muốn lấy bằng Tú Tài thì phải “lấy đá” như họ nói. Vì muốn “lấy đá” phải mất một số tiền, nên sinh viên không lấy nổi. Người lữ khách do dự có nên lấy hay không. Vì không quyết định được nên ông nhờ Giáo Sư giúp ý kiến. Giáo sư khuyên ông lấy thì ông lấy. Tuy nhiên, vẫn có người chỉ trích ông, ít nhất một người Tây Ban Nha để ý đến việc đó.

            Hồi đó tại Paris, I-Nhã bắt đầu đau dạ dày rồi. Cứ mười lăm ngày ông lại đau và kéo dài suốt hơn một tiếng. Có lần ông đau suốt mười sáu, mười bảy tiếng. Hồi đó ông đã học hết trung học, vài năm đại học và qui tụ được một số bạn bè thì bệnh tình trở nên càng ngày càng trầm trọng, không tìm được cách nào chữa trị, mặc dù đã thử nhiều cách.

 

85. Các y sĩ nói rằng chỉ có khí hậu ở quê nhà mới có thể giúp ông khỏi bệnh. Các bạn bè cũng bảo như thế và khuyên ông về quê.        

            Hồi đó tất cả các bạn bè đã quyết định họ sẽ làm gì. Họ sẽ đi Vênêzia và từ đó sẽ đến Giêrusalem. Nếu không được phép ở lại Giêrusalem họ sẽ trở về Roma trình diện vị đại diện Chúa Kitô để Ngài sai họ làm việc những nơi Ngài nhận thấy Thiên Chúa sẽ được vinh quang hơn và các linh hồn được lợi ích hơn. Họ cùng đồng ý, tại Vênêzia, họ sẽ chờ tàu một năm, nếu trong năm đó không có tàu đi Trung Ðông, họ sẽ không bị ràng buộc bởi lời khấn đi Giêrusalem nữa, và sẽ trình diện Ðức Giáo Hoàng.

            Cuối cùng người lữ khách chiều ý các bạn. Vì có một số bạn gốc Tây Ban Nha cần giải quyết một số vấn đề nên ông tình nguyện lo giùm. Rồi họ điều đình vói nhau rằng: Sau khi I-Nhã khỏi bệnh, sẽ lo giải quyết các vấn đề đó rồi tới Vênêzia chờ các bạn tại đó.

 

86. Ðó là vào năm 1535, và theo dự định của các bạn thì ông sẽ lên đường vào năm 1537 vào ngày lễ Thánh Phaolô Trở Lại. Tuy nhiên chiến tranh lại bùng nổ và ông phải lên đường vào tháng 11 năm 1536. Truớc khi lên đường, I-Nhã nghe biết rằng, có người tố cáo với các thẩm phán với những lời cáo buộc chống lại ông. Biết được sự kiện, mặc dù người ta đã không nhắm đích danh ông, ông vẫn đích thân đến viên thẩm phán và bảo ông này về những gì ông đã nghe, về cuộc hành trình ông sắp đi và về các bạn của ông. Vậy ông xin các thẩm phán một bản án. Ông thẩm phán nói rằng ông cũng có nghe những điều cáo buộc nhưng chẳng thấy có gì là quan trọng. Ông chỉ muốn xem những gì I-Nhã đã viết, tức là bản Linh Thao. Khi xem xong, ông nhiệt liệt khen ngợi, và xin một bản như người lữ hành đã đưa cho ông. Mặc dù vậy, người lữ hành vẫn khẩn khoản xin ông ta một bản án. Vì ông thẩm phán từ chối nên người lữ khách lại trở lại nhà của ông này với vài nhân chứng và viên chưởng khế để làm biên bản chứng thực sự kiện.


 

Về Thăm Quê Nhà (1535)

 

87. Xong việc, các bạn mua cho I-Nhã một con ngựa và cho ông cỡi ngựa một mình. Trên đường đi ông thấy khoẻ hơn nhiều. Tới quê hương Guipuzcoa, ông bỏ đường cái và rẽ vào một con đường vắng vẻ hơn. Ði một quãng, ông gặp hai người cầm vũ khí tiến về phía ông (đường này có tiếng nhiều kẻ cướp). Ði ngang qua ông một quãng xa, hai người đó lại hấp tấp trở lại đuổi theo ông khiến ông hơi sợ. Dù vậy, ông hỏi thăm ra thì mới biết họ là gia nhân của ông anh đến đón ông về. Hình như khi ông tới thành Bayonne bên Pháp, có người nhận ra ông và báo tin cho ông anh. Rồi gia nhân chạy trước và I-Nhã đi theo sau trên cùng một con đường. Lúc sắp đến quê nhà, I-Nhã gặp hai người tới đón ông và nài ép ông vào nhà ông anh, nhưng ông không chịu. Ông vào ở trong nhà thương và lúc thuận tiện ông đi ăn xin trong vùng đó.

 

88. Tại nhà thương, có nhiều người đến thăm ông. Ông nói chuyện vớùi họ về Thiên Chúa. Nhờ ơn Chúa ông đã gặt hái được nhiều kết quả. Ngay lúc tới nơi ông đã quyết định dạy giáo lý cho trẻ em. Nhưng ông anh chống đối kịch liệt và bảo rằng sẽ chẳng có ai đến học. Ông trả lời là nếu chỉ có một đứa thôi cũng đủ. Sau khi bắt đầu, thì luôn luôn có nhiều người đến học, và cả ông anh nữa. Ngoài việc dạy giáo lý vào các ngày Chủ Nhật và Lễ Trọng, ông còn giảng cho mọi người từ các nơi xa nhiều dặm đến nghe ông giảng và xin ông giúp đỡ linh hồn họ. Ngoài ra ông còn cố gắng sửa một số tệ đoan. Nhờ ơn Chúa, ông dàn xếp được vài chuyện. Thí dụ như thuyết phục được người giữ an ninh áp dụng được biện pháp để cấm đánh bài.

            Còn một tệ đoan nữa như sau. Các cô gái chưa chồng tại miền đó không bao giờ đội khăn, chỉ khi nào lấy chồng mới được đội. Nhưng có nhiều cô sống chung với linh mục, hay những người khác như là vợ của họ. Việc đó coi như cơm bữa đến nỗi những cô đó không mảy may hổ thẹn còn nói công khai họ đội khăn vì người nọ, người kia, và mọi người đều biết như thế.

 

89. Phong tục đó gây nhiều tai hại. Người lữ khách thuyết phục tỉnh trưởng, và xin ông ra lệnh để tất cả các phụ nữ đội khăn, nếu không phải là vợ chính thức, thì sẽ bị phạt theo luật. Nhờ đó mà tệ đoan trên mới bớt dần. Ðối với người nghèo, ông được chính quyền cung cấp thường xuyên cho họ. Ông dạy thêm rằng: Ba lần trong ngày tức là sáng, trưa, chiều nên kéo chuông “Kính Mừng” để nhắc dân chúng cầu nguyện theo phong tục tại Roma.

            Lúc đầu I-Nhã cảm thấy khoẻ mạnh, nhưng về sau lại đau nặng. Khoẻ lại ông quyết định đi lo công việc mà các bạn giao phó. Ông đi bộ mà không đem theo một đồng xu nào. Ông anh thấy vậy, thì vừa bất bình vừa xấu hổ. Tuy nhiên, vào buổi chiều I-Nhã bằng lòng cho ông anh và bà con đi theo ông cỡi ngựa đến ranh giới tỉnh.

 

90. Qua ranh giới tỉnh, ông xuống ngựa, không lấy gì của bà con và đi bộ hướng về Pamplôna. Ông ghé Almazan, quê của Laynez, rồi Saigonuenza, Tolêđô và Valencia. Mặc dù mỗi nơi quê của các bạn, người ta nài nỉ ông nhận nhiều món quà, nhưng ông không lấy gì hết. Tại Valencia, ông gặp Castro, tu dòng Cartusiô. Khi ông tỏ ý muốn lên tàu đi Gênôva, nhiều người đạo đức tại Valencia căn dặn ông không nên đi vì trên biển có tên giặc Râu Ðỏ hoành hành bằng nhiều tàu. Mặc dù người ta kể nhiều câu chuyện cố ý để ông sợ không dám đi, nhưng ông vẫn không do dự chút nào.

91. Ông lên một con tàu và gặp bão như đã kể trước, khi ông suýt chết ba lần. Tới thành phố Gênôva, ông lên đường đi Bologna. Trong chuyến này ông gặp nhiều gian khổ, đặc biệt lúc lạc đường. Ông rẽ vào một con đường ở ven sông, đường thì trên cao còn sông thì ở dưới thung lũng, càng tiến tới thì đường càng hẹp cho đến một lúc không tiến tới được nữa, mà lùi thì cũng không nổi. Vậy ông bắt đầu bò, ông phải bò một khúc dài, mỗi lần nhích lên ông rất sợ té xuống sông. Trong đời ông, đó là lúc gian khổ nhất về thể xác mà ông gặp phải, nhưng cuối cùng ông cũng thoát được.

            Sắp sửa vào thành phố Bologna, đi qua một chiếc cầu gỗ nhỏ, ông lại té xuống. Lúc chỗi dậy ông ướt hết và đầy bùn từ đầu đến chân, khiến cho nhiều người qua lại gần đó cười rộ. Vào thành phố ông bắt đầu đi xin ăn. Nhưng mặc dù đi khắp cả thành, ông không kiếm được đồng xu nào. Ông ở lại Bologna một thời gian vì bị đau ốm, rồi ông lại lên đường đi Vênêzia, và vẫn đi bộ như thường lệ.

 

 


 

Chờ Ðợi Hành Hương Ðất Thánh (1535 – 1537)

 

92. Thời đó tại Vênêzia, I-Nhã tập trung vào việc hướng dẫn Linh Thao và nói về các đề tài thiêng liêng. Trong số những người đáng nhớ nhất đã tập Linh Thao có ông cử nhân Phêrô Cantarênô, ông cử nhân Gasparô Doctis và một người Tây Ban Nha nữa là ông tú Hoces. Ông này hay đến nói chuyện với người lữ khách và cả Giám Mục thành Chieti cũng vậy. Dù thích tập Linh Thao, ông này vẫn trù trừ. Cuối cùng ông quyết định bắt đầu, và sau ba, bốn ngày, ông thú thật với người lữ khách rằng sợ trong Linh Thao sẽ dạy ông một giáo thuyết nào không tốt theo lời một người nào đó đã nói với ông như vậy. Vì thế ông đem theo một số sách để tiện tra cứu trong trường hợp I-Nhã dẫn ông đi lạc hướng. Ông này tập linh thao có kết quả đáng kể và cuối cùng quyết định theo lối sống của người lữ khách. Trong số các bạn đồng hành, ông này là người qua đời trước tiên.

 

93. Tại Vênêzia, người lữ khách lại bị chống đối vì có tin đồn rằng hình nộm của ông bị đốt tại Tây Ban Nha và Paris. Tiếng đồn này lan tràn đến nỗi người lữ khách lại phải ra tòa nhưng bản án lại bênh vực ông.

            Chín người bạn đã tụ họp tại Vênêzia vào đầu năm 1537 và chia nhau giúp việc tại các nhà thương. Hai, ba tháng sau tất cả lên đường đi Roma nhận phép lành của Ðức Thánh Cha để đi Giêrusalem. Tuy nhiên, người lữ khách không đi vì ở đó có tiến sĩ Ortiz và Hồng Y Têatinô. Nhóm các bạn đem theo chi phiếu 200 hoặc 300 đồng bạc mà người ta đã cho để đi Giêrusalem. Họ không lấy tiền mặt nhưng chỉ lấy chi phiếu thôi. Về sau, vì không đi Giêrusalem được, họ trả lại các chi phiếu. Họ trở về Vênêzia như lúc đi, họ đi làm ba nhóm, vừa đi vừa xin ăn. Mỗi nhóm có những người thuộc các quốc tịch khác nhau. Tại Vênêzia, những người chưa làm linh mục thì được chịu chức thánh do giấy phép của Sứ Thần Toà Thánh tại Vênêzia tên là Vêrallô, về sau lên Hồng Y. Họ chịu chức với tư cách tu sĩ khó nghèo và khấn khiết tịnh nghèo khó.

 

94. Vì năm đó chính quyền Vênêzia đã đoạn giao với đế quốc Thổ Nhĩ Kì, nên không có tàu nào đi Trung Ðông. Thấy không có hy vọng đi Giêrusalem trong một tương lai gần, nên các bạn đã chia nhau đi các vùng xứ Vênêzia mà chờ một năm như đã dự định trước kia; hết một năm mà vẫn không có tàu thì họ sẽ đi Roma.

            Người lữ khách trúng thăm đi Vicenza với Favre và Laynez. Tại đó, họ tìm được một căn nhà ở ngoài thành phố, không có cửa lớn và cửa sổ, họ kiếm ít rơm về làm giường ngủ. Mỗi ngày hai lần hai người đi vào thành phố xin ăn, nhưng kiếm được rất ít, khó mà đủ sống. Họ thường ăn bánh mì khô khi kiếm được, người nào ở nhà thì lo nấu bánh mì. Họ sống theo kiểu đó trong bốn mươi ngày, chỉ lo việc cầu nguyện mà thôi.

 

95. Sau bốn mươi ngày, ông cử nhân Gioan Coduri về tới và cả bốn người quyết định bắt đầu giảng. Vậy cùng ngày và cùng giờ, bốn ông vào thành phố, mỗi ông vào phố chợ và bắt đầu lớn tiếng vừa gọi dân chúng vừa lấy nón ra hiệu mời họ tập họp nghe lời giảng. Nhờ các bài giảng mà người ta biết tiếng họ, trở nên đạo đức và cung cấp cho họ phương tiện vật chất dồi dào hơn trước.

            Suốt thời gian ở Vicenza, người lữ khách có nhiều thị kiến thiêng liêng và thấy phấn chấn gần như thường xuyên, khác với thời gian ở Paris. Ðặc biệt trong thời gian chuẩn bị chịu chức và dâng Lễ tại Vênêzia, cũng như trong các chuyến đi đây đó, nhiều lần ông được các vị khách từ trời viếng thăm, giống như khi ở Manrêsa.

            Khi ở Vicenza, hay tin một người bạn ở Bassanô đau nặng sắp chết, mặc dù chính ông lúc đó bị sốt, I-Nhã vẫn lên đường. Ông đi rất nhanh khiến Favre khó khăn lắm mới đi theo kịp. Trong chuyến đi, ông được Thiên Chúa bảo đảm người bạn ông sẽ không chết vì bệnh đó, ông nói như vậy với Favre. Ông tới Bassanô thì bệnh nhân được an ủi lắm và chẳng bao lâu thì khoẻ lại. Sau đó, tất cả các bạn tập họp tại Vicenza. Cả mười người ở chung với nhau trong một thời gian và họ đi ăn xin tại các làng xã gần đó.

 

96. Hết năm chờ tàu, mà không đi được nên các bạn đồng hành quyết định đi Roma. Lần này người lữ khách cũng đi, như lần trước khi các bạn đi Roma, hai người mà họ e ngại lại tỏ ra ân cần với họ. Họ chia làm ba, bốn nhóm. Người lữ khách đi với Favre và Laynez. Trong chuyến này, ông được Thiên Chúa thăm viếng một cách hết sức đặc biệt.

            Ông đã quyết định sau khi chịu chức linh mục, sẽ không làm lễ suốt một năm, để chuẩn bị và cầu xin Ðức Mẹ đặt ông đến cùng Chúa Con. Một hôm khi còn cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một nhà thờ, ông nhận thấy một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, và thấy rõ ràng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Kitô, con của Ngài. Ông không thể nào nghi ngờ điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Con.

     

97. Rồi lúc tới Roma, ông nói với các bạn ông thấy các cửa đều đóng lại, có ý muốn nói rằng tại đó, họ sẽ bị chống đối nhiều. Ông nói thêm: “Chúng ta nên thận trọng, không tiếp xúc với phụ nữ, trừ người quí phái.” Nói về vấn đền này thì sau này Phanxicô thường giải tội cho một phụ nữ, và đôi khi đi thăm bà để hướng dẫn về đời sống đạo đức. Sau một thời gian bà mang thai. Nhưng nhờ ơn Chúa, người ta tìm ra được thủ phạm. Gioan Coduri cũng gặp phải một chuyện tương tự, khi một cô, con thiêng liêng của ông bị bắt quả tang đang ăn ở với một ông đàn ông.

 


 

Năm Ðầu Tại Kinh Thành Muôn Thủa Roma (1538)

 

98. Từ Roma, người lữ khách đi Monte Cassinô để hướng dẫn Linh Thao cho tiến sĩ Ortiz và ở lại đấy bốn mươi ngày. Trong thời gian đó, một hôm ông thấy Hoces đang vào Thiên đàng, thì ông thấy tâm hồn phấn khởi hết sức và nước mắt tràn ra. Nếu nói khác, ông nhận thấy đó là nói dối. Từ Monte Cassinô trở về, ông đem theo Phanxicô Estrađa. Về Roma, ông ra sức giúp đỡ các linh hồn. Thời đó, các bạn còn ở lại vườn nho, ông hướng dẫn Linh Thao cho một số người cùng một lúc. Trong đó, có một người ở gần nhà thờ Ðức Bà Cả và một người ở gần cầu Sixtô.

            Sau đó ông bắt đầu gặp chống đối, và Miguel bắt đầu gây rắc rối nói xấu người lữ khách. I-Nhã làm cho ông ta bị ra toà trước mặt Tổng Trấn và trình cho ông này coi một lá thư của Miguel, trong đó có nhiều lời ca tụng người lữ khách. Ông Tổng Trấn điều tra về Miguel và cuối cùng đuổi ông này ra khỏi Roma. Sau đó đến lượt Muđarra và Berrêđa. Họ rêu rao rằng người lữ khách cùng các bạn đã phải trốn khỏi Tây Ban Nha, Paris và Vênêzia. Cuối cùng, trước mặt ông Tổng Trấn và Sứ Thần lúc đó đang ở Roma, cả hai đều xác nhận nhóm các bạn đều không thấy có gì đáng chỉ trích về lối sống cũng như về giáo lý. Ông Sứ Thần ra lệnh chấm dứt vụ đó, nhưng I-Nhã không bằng lòng, và đòi phải có bản án đàng hoàng.

            Ðiều này đã làm phật lòng ông Sứ Thần, ông Tổng Trấn và những người lúc trước đã ủng hộ người lữ khách. Cuối cùng, vài tháng sau Ðức Giáo Hoàng trở về Roma. Người lữ khách đi gặp Ðức Thánh Cha tại Frascati và trình bày mọi lý lẽ. Ðức Thánh Cha trực tiếp lo vấn đề và ra lệnh cho làm bản án; bản án ủng hộ I-Nhã. Tại Roma, người ta thực hiện một số việc bác ái với sự giúp đỡ của người lữ khách và các bạn, như việc dạy đạo tại nhà Thánh Marta, và nhà các cô nhi. Còn về những chuyện khác Nadal có thể kể thêm.

 

99. Sau khi kể tất cả các việc trên, ngày 20 tháng 10 tôi đã hỏi người lữ khách về Linh Thao và hiến pháp để tìm hiểu Cha đã soạn thảo hai tài liệu đó như thế nào. Cha trả lời Linh Thao không được soạn liên tục, nhưng mỗi lần Cha nhận xét thấy điều gì trong tâm hồn có ích lợi và có thể giúp được người khác, thì Cha viết ra, thí dụ cách thức ghi việc xét mình trên các vạch ngang. Riêng về cách chọn lựa, Cha đã nói với tôi rằng Cha đã rút ra từ những thay đổi trong tâm hồn và tư tưởng từ khi còn ở Loyola, lúc còn đau chân. Về hiến pháp Cha nói tối nay sẽ kể chuyện.

            Ngày hôm đó, trước cơm tối Cha gọi tôi. Cha có vẻ như đang cầm trí hơn lúc bình thường, và một lúc lâu như là để thanh minh, Cha nói rằng: khi kể các chuyện trên, Cha chỉ có ý ngay lành và đơn sơ, và bảo đảm chắc chắn Cha không thêu dệt thêm điều gì. Cha nói thêm rằng từ khi bắt đầu phụng sự Chúa, Cha đã xúc phạm đến Chúa nhiều lần, nhưng không bao giờ Cha cố ý phạm tội trọng mà trái lại Cha càng thêm sốt sắng, nghĩa là ngày càng tìm thấy Chúa dễ dàng. Lần nào, lúc nào muốn gặp Chúa, Cha được gặp ngay. Lúc này, Cha vẫn có nhiều thị kiến đặc biệt như đã kể trước, thấy Chúa Kitô như hình mặt trời. Cha hay thấy các thị kiến này như khi Cha bàn luận về các công việc quan trọng: thị kiến này chuẩn xác các quyết định.

 

100. Lúc làm Lễ hay có thị kiến và khi soạn thảo hiến pháp thì có nhiều thị kiến. Ðiều này có thể xác định chắc chắn, bởi vì mỗi ngày Cha đều viết ra những biến chuyển trong tâm hồn và hiện giờ có đủ các tài liệu đó trong tay. Vậy Cha cho tôi thấy một chồng giấy khá lớn và đọc cho tôi nghe một phần đáng kể. Phần nhiều diễn tả các thị kiến xác chuẩn những điều lệ trong hiến pháp, có khi thấy Chúa Cha, có khi cả Ba Ngôi, có khi Ðức Mẹ đang cầu bầu hoặc đang xác chuẩn các điều lệ.

            Cha kể chuyện đặc biệt về các điều lệ đã quyết định sau khi làm Lễ mỗi ngày suốt bốn mươi phút, mỗi lần chảy rất nhiều nước mắt: Ðó là vấn đề các nhà thờ của dòng có nên có nguồn lợi riêng không?

 

101. Lúc soạn hiến pháp Cha thường áp dụng phương pháp dưới đây: Mỗi ngày, Cha dâng Lễ, trình bày ý định điều lệ đang viết và cầu nguyện về điều đó. Mỗi lần dâng Lễ và cầu nguyện thì không cầm được nước mắt.

            Tôi mong nhìn xem tất cả các giấy tờ viết về Hiến Pháp, và xin Cha để cho tôi xem một thời gian, nhưng Cha không cho.

 

 

HOME     LINH ĐẠO     TỰ THUẬT CỦA THÁNH YNHà         TUTHUAT1          TUTHUAT2