Tôi muốn có một Giáo hội nghèo và cho người nghèo
Suy niệm Đêm Giáng Sinh 2025
Mỗi dịp Giáng Sinh về, chúng ta cảm nhận một bầu khí thân thương, ấm áp nghĩa tình… qua việc cùng nhau làm hang đá và dựng những cây thông kèm theo nhiều đồ vật trang trí (đèn, dây kim tuyến, bông tuyết…) ở các nhà thờ, nhà xứ, nhà nguyện, thậm chí cả nhà riêng. Mỗi nơi một vẻ. Nhìn chung, bầu khí này như giúp con người xích lại gần nhau.
Thuở ban đầu, tương truyền rằng sau khi thánh Phanxicô Assisi đi viếng Bêlem trở về Ý, ngài quyết định tái hiện lại hang đá Bêlem để người dân đến chiêm ngắm, cầu nguyện cách sinh động hơn. Ngài mời gọi mọi người đến và tham gia vào các nhân vật trong hang đá này như Thánh Giuse và Mẹ Maria, Chúa Hài Đồng (chính là con cái của họ), đem đến bò lừa cùng với rơm rạ đặt chúng ở trong hang đá. Hang đá của Thánh Phanxicô khá sống động, là người thật và thú vật thật để mọi người dễ dàng thấu cảm sự khiêm nhường, nghèo khó và tình yêu diệu vời của Thiên Chúa.
Ngày nay các hang đá đều làm bằng đồ giả, có khi xa hoa và tốn kém tiền của, để trang trí cho đẹp và hoành tráng, cạnh tranh hơn thua về sự sinh động, lộng lẫy, tỉ mỉ, v.v.. Hang đá ngày nay dễ làm cho người đến chiêm ngắm lầm tưởng là một sự trang trí cho ngày đại lễ. Và có khi biến đại lễ thành lễ hội. Vì thế, chúng ta cần quay về với nguồn cội để tìm lại ý nghĩa đích thực và gặp được chính mình nơi hang đá Bêlem xưa.
Như đã nói ở trên, hang đá Bêlem nơi Chúa ra đời diễn tả sự khiêm nhường của Ngài để gần gũi với hết mọi người, sự nghèo khó của Ngài để thấu cảm với cái nghèo của nhân thế (đại diện là các mục đồng), một tình yêu dịu ngọt – êm đềm – đầy thương xót của Thiên Chúa dành cho cả nhân loại (ba vị vua là đại diện cho các dân tộc).
Chiêm ngắm hang đá Bêlem để học với Thánh Gia về đời sống vâng phục – nghèo khó – tín thác, để dâng tặng các ngài những gì quý giá nhất thuộc về thế gian này, ngay cả quyền lực – danh vọng – địa vị – tiền của (vàng), tôn thờ các ngài như những đấng công chính – mẫu mực – trong sạch vẹn toàn… tựa hương thơm tỏa bay trước Toà Chúa (nhũ hương), và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì mình có, những gì thuộc về thế gian này để được đồng hình đồng dạng với Chúa qua đời sống hy sinh phục vụ – âm thầm dấn thân – dùng cả tính mạng làm chứng cho Tin Mừng (mộc dược).
Với ý nghĩa đó, người viết muốn đào sâu về “tính khó nghèo” của hang đá Bêlem vì nó gần gũi, thiết yếu và thách đố trong đời sống đức tin của người Kitô hữu hôm nay. Hơn thế nữa, việc sống khó nghèo vừa là một nhân đức mà các Linh mục, Tu sĩ nam nữ cần phải có, nhưng nó còn được chọn làm nét chủ đạo trong Tông huấn đầu tay của Đức Giáo Hoàng đương nhiệm Leo XIV – “Dilexi te” (Ta đã yêu con). Đồng thời, người sống “nghèo khó thực” sẽ dễ ảnh hưởng trên người khác, dù có gì đó đi ngược với bản tính tự nhiên của con người; nói cách khác, đời sống nghèo chính là chứng từ sống động cho Tin Mừng của Chúa Kitô.
Thực ra, vào thời Cố Giáo Hoàng Phanxicô, ngay sau khi được chọn làm Giáo Hoàng vào ngày 13/3/2013 thì ba ngày sau (16/3) trong một cuộc phỏng vấn của truyền thông, ngài đã thổ lộ về ý nghĩa của việc chọn niên hiệu “Phanxicô” là vì ngài “mong ước có một Giáo hội nghèo và cho người nghèo”. Thánh Phanxicô là mẫu gương của việc sống nghèo. Cả cuộc đời ĐGH Phanxicô cũng sống khá giản đơn. Và bây giờ, đến thời của ĐGH đương nhiệm, ngài cũng thuộc tuýp người sống đơn giản, thể hiện sự đơn giản bằng hành động cụ thể là chọn đi đến với một dân tộc nghèo, dấn thân cho người nghèo, thăng tiến công bằng và bảo vệ quyền lợi người cùng khốn. Ngài cũng lặp lại ước muốn của ĐGH Phanxicô trong toàn bộ chương 3 của Tông huấn “Dilexi Te” rằng ngài ước muốn có “một Giáo hội dành cho người nghèo” (s.35-81). Người viết ngại nói về “khó nghèo” vì hạn từ “khó nghèo” khá nhạy cảm và đa nghĩa, nên dễ gây tranh cãi và làm phật ý nhau. Bởi lẽ, có người chọn lối sống nghèo thật theo tinh thần của Tin Mừng Luca (x. Lc 6:20), có người sống nghèo trong tinh thần và sự ý thức về nó theo Tin Mừng Mátthêu (x. Mt 5:3). Vì thế, với gương của nhiều cha anh đi trước, người viết xin phép chọn dùng từ “đơn giản” để thay thế cho từ “khó nghèo”.
Ngày nay, trong đời sống Giáo hội vẫn còn không ít những môn đệ Chúa Kitô sống đơn giản, như Mẹ Têrêxa Calcutta, ĐGH Phanxicô, ĐGH Lêô XIV, và có hai nhân vật tôi biết vì họ là người cùng chí hướng, cùng Hội Dòng, đó là Cha Tổng Quản Dòng Tên Peter Hans Kolvenbach (1928–2016) và một cha nguyên Hiệu trưởng của một trường Đại học của Dòng Tên bên Mỹ. Ba nhân vật nổi bật thì hầu hết mọi người đều biết các ngài (Mẹ Têrêxa Calcutta, ĐGH Phanxicô, ĐGH Lêô XIV), nhưng hai nhân vật sau thì ít người biết. Cha Kolvenbach khi còn làm Tổng Quản, ngài sống giản dị lắm. Đi tông du thăm các Tỉnh Dòng, ngài chỉ đem theo hai bộ quần áo mà thôi, thậm chí tiền bạc cũng không có trong người. Cha nguyên Hiệu trưởng thì giản dị không kém, mặc dù là Hiệu trưởng và sống ở Mỹ nhưng dùng chiếc xe hơi đời cũ, máy tính đời cũ, điện thoại cũng loại xoàng thôi.
Phải chăng các ngài không có nguồn tiền nào để chi tiêu? Các ngài có tiền để làm việc chứ, nhưng không lệ thuộc tiền, vì đối với các ngài, Chúa mới là ưu tiên, và tiền để phục vụ sứ mạng Chúa trao, còn sứ mạng là để phục vụ các linh hồn. Tôi cảm thấy xấu hổ khi nghe một số giai thoại về các ngài, và khi tiếp xúc các ngài, tôi cũng thấy ngại ngùng… khi bản thân mình chưa sống giản đơn như các ngài. Tôi tự hỏi: Tại sao lại phải sống giản đơn? Sống đơn giản để làm gì? Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta có thể dựa trên Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo hội để minh định về việc sống nghèo khó và lợi ích của nó như thế nào trong đời sống truyền giáo của Giáo hội nhé!
Sống đơn giản để thanh thoát và dễ di chuyển, để hoà đồng và dễ gặp gỡ nhiều người, để đôi vai có chỗ chứa thập giá và dễ đón nhận thập giá bất cứ lúc nào, như chính Chúa mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Chúa mời gọi sống “từ bỏ”, rồi mới vác thập giá. Nếu đôi vai chứa đầy vinh hoa phú quý, của cải vật chất, v.v. thì đâu còn chỗ để đặt thập giá lên vai?
Sống đơn giản để được tự do hơn, như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:33-35). Khi tự do với của cải, danh vọng, quyền lực, địa vị… chúng ta sẽ tự do dấn thân phục vụ, tự do san sẻ cho người khác những gì Chúa trao cho mình. Trong bản tính tự nhiên của con người có chứa sự tham lam (“tuy tay con nhỏ bé, bao nhiêu cũng không vừa”, “lòng tham vô đáy”). Chính lòng tham làm cho con người đánh mất sự tự do cho đi, tự do dấn thân, tự do sải bước đi tới những biên cương mới dù là biên cương mang tính địa lý hay thiêng liêng, văn hóa hay tri thức, v.v.. Chính vì tham lam, người ta dễ lãnh cảm trước nỗi bi đát, khốn cùng của người khác, như Tông huấn “Dilexi Te” nói đến:
Khi tôi gặp một người ngủ ngoài trời trong một đêm giá lạnh giữa thời tiết xấu, tôi có thể nhìn sinh thể trong cuộn vải ấy như một phiền nhiễu bất chợt, một thứ lười nhác ăn hại, một vật cản trên đường mình đi, một mũi tiêm khó chịu chích vào lương tâm tôi, một vấn đề mà các chính trị gia phải giải quyết, hoặc thậm chí có thể đó là một thứ rác rưởi làm nhơ bẩn nơi công cộng. […]
Vì chúng ta bận tâm đến những nhu cầu của riêng mình, việc nhìn thấy một người đang đau khổ khiến chúng ta lo lắng. Nó khiến chúng ta bất an, vì chúng ta không có thời gian để lãng phí cho những vấn đề của người khác. Đây là những triệu chứng của một xã hội không lành mạnh. Một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng lại quay lưng lại với đau khổ. Xin cho chúng ta đừng sa vào vực sâu như vậy! (Dilexi Te, s. 106-107)
Sống đơn giản để có sức mạnh nội lực, để Chúa có không gian làm việc trên bản thân và tha nhân. Đây chính là kinh nghiệm của Thánh Phêrô sau khi lãnh nhận ơn Thánh Thần: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3:6) Thánh Phêrô đi rao giảng và ngài không có gì ngoài Chúa Kitô. Như thế, khi túi nhà thừa sai trống rỗng thì con người ấy đầy ắp sức mạnh của Chúa; Nói cách khác, người môn đệ Chúa Kitô không còn sống cho chính mình, như Thánh Phaolô đã thổ lộ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20), và rảnh rang dành hết thời gian, sức lực, tâm huyết để phục vụ các linh hồn như châm ngôn sống đời Linh mục của thánh Don Bosco khi ngài lãnh chức thánh vào năm 1841:
“Xin cho tôi các linh hồn, còn mọi sự khác xin cứ lấy đi” (Da mihi animas, cetera tolle).
Sống đơn giản để gần Chúa hơn, nên giống Chúa hơn, dễ được Chúa ban ơn hơn, vì “kẻ nghèo vừa mở miệng cầu khẩn là Chúa lắng tai nghe” (Hc 21:5), “vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:35-36). Chính đời sống đơn giản này giúp chúng ta trở nên “alter Christus” cách sống động, như lời ngôn sứ của Thánh GH Phaolô VI đã tiên báo: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những chứng nhân” (Evangelii Nuntiandi, s.41).
Tóm lại, khi “Giáo hội nghèo và cho người nghèo” là lúc Giáo hội trở nên giàu mạnh: có nhiều người theo Chúa hơn, nhiều người cộng tác hơn, nhiều tiếng nói trung thực, chân chính và mạnh mẽ hơn. Thánh Phaolô cũng quả quyết: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:10). Một người chính trực liêm khiết, sống chính nghĩa, sống thật thà – khiêm nhường – giản dị… có khi có ít bạn bởi vì người sống đối nghịch sẽ e ngại khi gặp gỡ vì họ đang đứng trước một người công chính và ngoan đạo: “Ta sẽ làm cho các dân khắp thiên hạ kinh khiếp sợ hãi (các) ngươi ra mặt: khi nghe nói đến (các) ngươi, chúng sẽ run rẩy, rụng rời trước mặt (các) ngươi” (Đnl 2:25). Mỗi phần tử của Giáo hội sống đơn giản sẽ góp phần làm cho Giáo hội trở nên mạnh mẽ, có sức cuốn hút, có tầm ảnh hưởng trên thế giới thực dụng và xa hoa, đẩy lui các xu hướng trong một xã hội yêu chuộng hình thức bên ngoài, thích nổi nang, thích quyền lực, v.v.. Thực thế, Giáo hội tự bản chất là “thánh thiện, công giáo và tông truyền” mà còn đạt tới sự giản dị và gần gũi thì sẽ là cái gai trong mắt của sự dữ (x. G 16:11), làm cho nhiều người bất chính run rẩy khi đến gần, đồng thời sẽ là một Giáo hội mạnh mẽ biết dường nào!
Chiêm ngắm Hài Nhi bé nhỏ đang nằm trong máng cỏ có vẻ yếu ớt vì chịu rét, chịu đói, chịu khát… nhưng thực tế thì ngược lại, đây là một Hài Nhi rất mạnh mẽ và can trường đến nỗi các vị vua phải tìm đến để thờ lạy, các vua chúa (từ vua cha là Hêrôđê đến vua con là Áckhêlao) đều khiếp sợ! Chiêm ngắm một gia đình chọn một nơi hoang vắng ngoài đồng hoang để hạ sinh con đầu lòng nhưng lại là nơi sinh ra một vị lãnh tụ chăn dắt dân Thiên Chúa (x. Mt 2:6), chọn một nơi bình dị và chẳng có gì hay (x. Ga 1:46) để sống đời ẩn dật, nhưng lại là nơi hình thành một nhân cách vĩ đại, một Đấng cứu nhân độ thế! Vì lẽ đó, nghèo không phải là tội, ngược lại, nghèo là một hồng phúc (x. Mt 5:3; Lc 6:20) vì được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.
Giàu có cũng chẳng có tội gì; ngược lại, người giàu có mà biết cho đi, biết san sẻ những gì Chúa gửi trao… thì diễm phúc biết chừng nào, họ sẽ được cho thêm và có dư thừa vì đã biết làm “sinh lời” những nén bạc Chúa trao (x. Mt 25:29). Nghèo hay giàu chỉ là tội khi chúng ta tham lam, “đói cho sạch, rách cho thơm”, khi chúng ta
làm nô lệ cho vật chất, quyền lực, đam mê, dục vọng…, khi chúng ta chưa đặt Chúa là ưu tiên.
Lạy Chúa Hài Nhi Giêsu, cảm tạ Chúa đã chọn sống nghèo để chúng con hạnh phúc, bình an, lạc quan khi được nghèo giống Chúa. Cảm tạ Chúa đã tự ý trở nên nghèo khó vì chúng con, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho Giáo hội trở nên giàu có, mạnh mẽ, quảng đại đón rước mọi dân mọi nước tới trú ngụ và được chăm sóc tận tình, vô vị lợi (x. 2 Cr 8:9). Cảm tạ Chúa cho chúng con có cơ hội suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa để chúng con bắt chước Chúa nhập thế và cộng tác với Chúa giúp nhiều người được đón nhận Tin Mừng, một Tin Mừng dành cho người nghèo, mà đại diện là các mục đồng, để cùng họ tiếp tục cất vang lời chúc tụng Chúa vào mỗi Đêm Giáng Sinh và mọi ngày trong suốt cuộc đời chúng con:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2,14)
Pleiku, Đêm Giáng Sinh 2025
Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

