Đây là một bài viết dài, mà nếu bạn là người yêu mến Đức Mẹ, hay một người đã từng nghiệm thấy Đức Mẹ thay đổi cuộc đời mình thế nào, hay đất nước của mình thế nào, thì mong là bạn đủ kiên nhẫn đọc lại cách mà trong suốt dòng lịch sự, những người khác đã nghiệm về Mẹ Thiên Chúa ra sao.
Giờ hiện ra: 5h40 chiều Trong một nhà nguyện Công giáo La Mã nhỏ ở Bosnia và Herzegovina, ở làng Medjugorje, Ivan Dragicevic bước xuống lối đi, quỳ trước bàn thờ, cúi đầu một lúc, rồi mỉm cười, ngước mắt lên trời. Anh ấy bắt đầu thì thầm, chăm chú lắng nghe, lại thì thầm và không chớp mắt trong mười phút. Cuộc trò chuyện hàng ngày của anh với Đức Trinh Nữ Maria đã bắt đầu. Dragicevic là một trong sáu trẻ chăn chiên nghèo lần đầu tiên báo cáo về các cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria vào năm 1981. Mẹ tự nhận mình là “Nữ Vương Hòa bình” trước bốn bé gái và hai bé trai và truyền lại thông điệp đầu tiên trong hàng ngàn thông điệp khuyên nhủ các tín hữu hãy cầu nguyện thường xuyên hơn và yêu cầu tội nhân sám hối. Dragicevic mới 16 tuổi, và Medjugorje, khi đó thuộc Nam Tư do cộng sản kiểm soát, vẫn chưa nổi lên như một trung tâm chữa lành bằng phép lạ và hoán cải tâm linh, thu hút 30 triệu người hành hương trong suốt ba thập kỷ qua.Tôi đang ở Medjugorje cùng một nhóm người Mỹ, hầu hết là những ông bố chơi khúc côn cầu đến từ khu vực Boston, cùng với hai người đàn ông và hai người phụ nữ mắc bệnh ung thư giai đoạn 4. Dẫn đầu chúng tôi là Arthur Boyle, 59 tuổi, cha của 13 đứa con, người lần đầu tiên đến đây vào Kỳ nghỉ Ngày lễ Lao động năm 2000, khi đang mắc bệnh ung thư và chỉ còn có thể sống được vài tháng. Anh ấy cảm thấy suy sụp, chán nản và lẽ ra sẽ không thực hiện chuyến đi nếu không có hai người bạn ép anh ấy tham gia. Nhưng đêm đầu tiên đó, sau khi anh đi xưng tội ở nhà thờ Thánh Giacôbê Tông đồ, tâm lý của anh nhanh chóng được xoa dịu. “Sự lo lắng và trầm cảm đã biến mất,” anh ấy nói với tôi. “Bạn có biết khi bạn vác ai đó trên vai và chiến đấu dưới nước, rồi khi buông họ ra, bạn cảm thấy nhẹ nhàng và tự do thế nào không? Tôi giống như vậy đó. Chuyện quái quỉ gì vừa xảy ra với tôi vậy? Tại sao vậy?” Sáng hôm sau, cùng với những người bạn Rob và Kevin, anh gặp một “người từng thấy thị kiến” khác là Vicka Ivankovic-Mijatovic trong một cửa hàng trang sức và nhờ cô giúp đỡ. Một tay ôm đầu anh, cô cầu xin Đức Trinh Nữ Maria cầu xin Chúa chữa lành cho anh. Boyle cho biết anh đã trải qua một cảm giác bất thường ngay trong cửa hàng. “Cô ấy bắt đầu cầu nguyện cho tôi. Rob và Kevin đặt tay lên tôi, và sức nóng truyền qua cơ thể tôi khi cô ấy cầu nguyện khiến họ đổ mồ hôi”. Trở lại Boston một tuần sau, kết quả chụp CT tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts cho thấy khối u của anh đã thu nhỏ lại gần như không còn gì. Kể từ đó, Boyle đã trở lại Medjugorje 13 lần. “Tôi giờ là một người bình thường,” anh nói. “Tôi thích chơi khúc côn cầu và uống bia. Tôi chơi golf.” Tuy nhiên, anh ấy tiếp tục, “Tôi phải thay đổi nhiều thứ trong cuộc sống của mình,” Boyle nói. Ngày nay, anh đã trở thành “một phát ngôn viên về quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu Kitô và tất nhiên là về Mẹ Maria và quyền năng chuyển cầu của Mẹ”.
Cầu xin Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu và sùng kính Mẹ là một hiện tượng toàn cầu. Ý niệm về Đức Maria là người chuyển cầu trước Chúa Giêsu bắt đầu bằng phép lạ nước hoá thành rượu tại tiệc cưới Cana. Theo Tin Mừng Gioan, Đức Maria nói với Người: “Họ hết rượu rồi”, do đó đã gợi lên phép lạ đầu tiên của Người. Vào năm 431 sau Công nguyên, tại Công đồng Đại kết lần thứ ba ở Ephesus, Mẹ đã chính thức được đặt tên là Theotokos, Người Mang Thiên Chúa. Kể từ đó không có người phụ nữ nào được tôn vinh như Đức Maria. Là biểu tượng phổ quát của tình mẫu tử cũng như của đau khổ và hy sinh, Đức Maria thường là tiêu chuẩn cho sự khao khát ý nghĩa của chúng ta, một tiếp cận gần gũi với siêu nhiên hơn là những giáo huấn chính thức của Giáo Hội. Tà áo của Mẹ mang lại sự an toàn và bảo vệ. Đức Thánh Cha Phanxicô, khi được hỏi Đức Maria có ý nghĩa gì với ngài, đã trả lời: “Bà là mẹ tôi”. Những lần Mẹ hiện ra được báo cáo, những thị kiến cho những trẻ em nghèo ở vùng sâu vùng xa hay những nơi thường xuyên có xung đột, đã làm tăng thêm sự bí ẩn và hào quang của Mẹ. Và khi bọn trẻ kiên định về câu chuyện của mình—đặc biệt nếu những câu chuyện đó có kèm theo những “dấu hiệu” không thể giải thích được như mặt trời quay tròn hay những mạch suối phun trào— thì sự ngạc nhiên về Mẹ càng tăng lên.
Đức Maria ở khắp mọi nơi: Cúc vạn thọ được đặt theo tên của Mẹ. Những đường truyền Kính Mừng Maria cứu vớt các trận bóng bầu dục. Hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe ở Mexico là một trong những hình ảnh người nữ được sao chép nhiều nhất từ trước đến nay. Đức Maria thu hút hàng triệu người mỗi năm đến các đền thờ như Fátima ở Bồ Đào Nha và Knock ở Ireland, duy trì hoạt động du lịch tôn giáo ước tính trị giá hàng tỷ đô la mỗi năm và cung cấp hàng nghìn việc làm. Mẹ đã truyền cảm hứng cho việc tạo ra nhiều tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc vĩ đại (“Pietà” của Michelangelo, Nhà thờ Đức Bà), cũng như thơ ca, phụng vụ và âm nhạc (Kinh chiều kính Đức Trinh Nữ của Monteverdi). Và Mẹ là người bạn tâm giao tinh thần của hàng tỷ người, dù bị cô lập hay lãng quên đến đâu đi nữa. Người Hồi giáo cũng như Kitô giáo coi Mẹ là thánh thiện hơn mọi phụ nữ, và tên của bà “Maryam” xuất hiện thường xuyên trong kinh Koran nhiều hơn là “Maria” trong Kinh Thánh. Trong Tân Ước, Đức Maria chỉ nói bốn lần, bắt đầu từ Lễ Truyền Tin, khi theo Tin Mừng Thánh Luca, thiên thần Gabriel hiện ra với bà và nói rằng bà sẽ sinh ra “Con Đấng Tối Cao”. Maria thưa: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Bài diễn văn mở rộng duy nhất của Mẹ, cũng trong Luca, là bài Magnificat trữ tình, được thốt ra khi mới mang thai: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi, vì Người đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ của Người. Chắc chắn từ nay về sau, mọi thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc.” Kinh Thánh kể rằng Mẹ sống ở Nazareth khi người La Mã kiểm soát lãnh thổ Do Thái. Sau khi Maria mang thai, người chồng sắp cưới của Mẹ, Joseph người thợ mộc, đã cân nhắc việc lặng lẽ rời bỏ Mẹ. Rồi một thiên thần đến gặp ông trong giấc mơ và bảo ông đừng làm vậy. Sự ra đời của Chúa Giêsu chỉ được nhắc đến trong hai Tin Mừng là Luca và Mátthêu. Máccô và Gioan cũng nhắc đến Mẹ của Chúa Giê-su nhiều lần. Các tác giả Tin Mừng đã viết từ 40 đến 65 năm sau cái chết của Chúa Kitô và họ không phải là người viết tiểu sử, Cha Bertrand Buby, tác giả của một nghiên cứu ba tập, Mary of Galilee, và là giáo sư xuất sắc tại Viện Nghiên Cứu Thánh Mẫu Học Quốc tế tại Đại học Dayton, Ohio, cho biết. “Vì vậy đừng mong đợi các tác giả ấy biết hết về Đức Maria. Cuộc đời của Mẹ được biết đến từ những tin đồn.” Một trong số những nghiên cứu mới nhất về Đức Maria tập trung vào Mẹ với tư cách là một người mẹ Do Thái. María Enriqueta García, trong luận án thần học của mình tại Học viện Thánh Mẫu, giải thích rằng Đức Maria đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng của thế gian, giống như các bà mẹ Do Thái thắp nến ngày Shabbat. “Chúng tôi thấy mối quan hệ của Đức Maria với chúng tôi không chỉ là mối quan hệ bình thường—nó rất thiêng liêng.” Trong thiên niên kỷ đầu tiên, khi Kitô giáo trở thành tôn giáo chính thức của Đế chế La Mã và bắt đầu lan rộng sang châu Âu, Đức Maria thường được miêu tả như một nhân vật hoàng gia, ngang hàng với các hoàng đế, mặc trang phục màu tím và vàng của hoàng gia. Tuy nhiên, theo nhà sử học thời trung cổ Miri Rubin của Đại học Queen Mary ở London, vào thiên niên kỷ thứ hai, bắt đầu từ thế kỷ 12, “Mẹ đã trải qua một sự thay đổi đáng kể”, phát triển thành một hình tượng người mẹ dễ gần hơn, tốt lành hơn, dịu dàng hơn. Mẹ như thể một Mẹ Bề trên khác trong các đan viện và tu viện, nơi mà các tập sinh thường gia nhập từ khi còn nhỏ. Rubin nói: “Tình yêu của người mẹ đã diễn tả hết cốt lõi câu chuyện đời tu”. Amy-Jill Levine, giáo sư nghiên cứu về Tân Ước và Do Thái giáo tại Đại học Vanderbilt, cho biết: vì có rất ít thông tin về Đức Maria trong Kinh Thánh nên “bạn có thể hình dung về Mẹ với bất kỳ giá trị văn hóa nào mà bạn có”. “Một biểu tượng văn hóa,” theo Rubin. Levine cho biết thêm: “Mẹ có thể là người mẹ đau buồn, một trinh nữ, một nhân vật như nữ thần. Giống như Chúa Giêsu là người đàn ông lý tưởng thì Đức Maria là người phụ nữ lý tưởng”. Trong thời kỳ Cải cách (1517-1648), ý tưởng về Đức Maria là người cầu thay nguyện giúp đã không được người Tin lành ủng hộ: họ muốn cầu nguyện thẳng với Chúa. Nhưng Đức Maria đã thu hút được hàng triệu tín đồ Công giáo mới nhờ việc Tây Ban Nha chinh phục Tân Thế giới đầu những năm 1500—và gần đây hơn khi Kitô giáo lan rộng ở Châu Phi.
Kibeho, một thị trấn nhỏ ở miền nam Rwanda, được nhớ đến là nơi Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với ba cô gái trẻ và báo trước về máu và nỗi kinh hoàng của nạn diệt chủng sẽ gây chấn thương cho đất nước vào năm 1994, khi người Hutu chiếm đa số tấn công người thiểu số Tutsi và trong ba tháng hơn 800.000 người đã bị tàn sát. Vào tháng 3 năm 1982, vị giám mục địa phương đã yêu cầu Venant Ntabomvura, một bác sĩ, đến một trường nội trú dành cho nữ sinh trên sườn đồi ở Kibeho. Ông phải điều tra ba sinh viên đã báo cáo những thị kiến và những cuộc trò chuyện với Đức Trinh Nữ Maria. Ntabomvura, một chuyên gia tai mũi họng tốt bụng vẫn còn hành nghề ở tuổi 89, cho biết: Alphonsine Mumureke lần đầu tiên kể về những cuộc hiện ra của Đức Maria vào tháng Mười Một năm trước. Ntabomvura nói: khi chúng xảy ra, “cô ấy nói chuyện với ai đó giống hệt như đang nói chuyện điện thoại vậy.” Đức Maria hiện ra đầu tiên với Alphonsine, sau đó là Anathalie Mukamazimpaka, tiếp theo là Marie Claire Mukangango. Các cô gái cho biết họ đã dành vô số thời gian để trò chuyện với Đức Trinh Nữ, người tự gọi mình là Nyina wa Jambo, Mẹ của Ngôi Lời. Đức Maria nói chuyện với các cô gái thường xuyên đến nỗi họ gọi Người là Mẹ. Tôi gặp Anathalie vào lúc chạng vạng tối trong ngôi nhà khiêm tốn của cô gần trường học cũ, xung quanh là những tràng hạt và tượng Đức Mẹ. “Lần đầu tiên Mẹ xuất hiện,” Anathalie nói, “tôi đang lần chuỗi Mân Côi và Mẹ gọi tên tôi. Tôi nghe Mẹ nói: ‘Nathalie, con của Mẹ.’ Mẹ trông thực sự rất xinh đẹp, khoảng từ 20 đến 30 tuổi. Mẹ nói bằng tiếng Kinyarwanda với giọng rất điềm tĩnh và nhẹ nhàng. Mẹ đeo khăn che mặt màu xanh và váy trắng. Mẹ chưa bao giờ nói với tôi lý do tại sao Mẹ chọn tôi. Mẹ nói rằng Mẹ sẽ xuất hiện trước bất cứ ai Mẹ muốn, bất cứ lúc nào Mẹ muốn, ở bất cứ đâu Mẹ muốn.” Mẹ chưa bao giờ đề cập đến bất kỳ tôn giáo cụ thể nào, Anathalie nói. “Mẹ chỉ yêu cầu chúng tôi yêu Mẹ nhiều như Mẹ yêu chúng tôi.” Lời tiên tri khủng khiếp của Đức Maria đến vào một ngày trong năm 1982 mà mọi người mong đợi sẽ đặc biệt hạnh phúc: ngày 15 tháng 8, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Ntabomvura cũng ở đó cùng với Gaspard Garuka, người sống gần đó. Garuka nói: các cô gái đã khóc vì Đức Trinh Nữ cũng rơi nước mắt. Ntabomvura nhớ rằng Alphonsine “đã ngã nhiều lần vì những gì cô ấy chứng kiến rất khủng khiếp. Có lần cô ấy thậm chí còn nói: ‘Làm ơn giấu cái này khỏi mắt con đi.’” Anathalie nói rằng những gì Đức Maria tiên báo “chính xác là những gì tôi đã thấy” trong cuộc diệt chủng 12 năm sau đó. “Người ta giết người bằng giáo, đốt lửa, chặt đầu. Tôi nhìn thấy những ngôi mộ tập thể được bao quanh bởi bóng tối dày đặc, máu chảy khắp nơi như sông. Tất cả những điều này đã được tiên báo trước.” Anathalie đã trốn khỏi Rwanda đến Cộng hòa Dân chủ Congo và sau đó là Kenya. Alphonsine trở thành nữ tu ở Ý. Marie Claire bị giết trong cuộc diệt chủng. Vào ngày 29 tháng 6 năm 2001, gần 20 năm sau khi Alphonsine báo cáo lần đầu tiên việc Đức Mẹ hiện ra, Đức Giám mục Augustin Misago của Rwanda và Vatican đã tuyên bố rằng, Đúng, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra tại Kibeho.
Michael O’Neill, 39 tuổi, tốt nghiệp Đại học Stanford về kỹ thuật cơ khí và thiết kế sản phẩm, là người xử lý các dữ liệu lớn (big data) về Đức Trinh Nữ Maria. Trên trang web của mình có tên gọi: MiracleHunter.com (truy tìm phép lạ), ông đã hệ thống hóa mọi lần hiện ra được biết đến của Đức Maria từ năm 40 sau Công nguyên. Việc điều tra và ghi chép có hệ thống về các sự kiện siêu nhiên bắt đầu từ Công đồng Trentô từ hơn 450 năm trước, và đó là phản ứng mang tính đại kết của Giáo hội Công giáo đối với cuộc Cải cách Tin Lành. Trong số 2.000 trường hợp hiện ra được báo cáo kể từ đó, MiracleHunter cho thấy chỉ 28 trường hợp được các Giám mục địa phương chấp thuận. Các Giám mục là những người đầu tiên quyết định liệu “những huyền kiến nhân” có khả tín không. Mười sáu trong số đó đã được Vatican công nhận. O’Neill, trong cuốn sách mới xuất bản của mình, Khám Phá Các Phép Lạ, đã mô tả chi tiết quá trình Vatican tỉ mỉ xem xét trước khi quyết định có công nhận một cuộc hiện ra là phép lạ hay điều “thực sự phi thường” hay không. “Tính chính trực” và sự ổn định tâm thần của người thấy thị kiến là điều quan trọng nhất, và bất kỳ ai bị nghi ngờ cố gắng đạt được danh tiếng hoặc giàu có khi tiếp xúc với Đức Trinh Nữ Maria đều bị bỏ qua hoặc lên án. Medjugorje là một trong khoảng hai chục địa điểm đang chờ được Vatican phê duyệt. Các Giám mục địa phương có thẩm quyền trên Medjugorje chưa bao giờ tin vào các cuộc hiện ra, trái ngược với các linh mục dòng Phanxicô đang điều hành giáo xứ là những rất tin vào chúng. Để giải quyết sự bế tắc, Vatican đã bổ nhiệm một ủy ban. Uỷ ban ấy kết thúc công việc của mình vào năm 2014. Vatican sẽ không bao giờ chấp nhận một cuộc hiện ra được cho là có thông điệp mâu thuẫn với giáo lý của Giáo Hội và các tín hữu không bị buộc phải tin vào những cuộc hiện ra. Nhưng nhiều người, gồm cả các linh mục, nghĩ khác Vatican. Cha Johann Roten, Giám đốc nghiên cứu và các dự án đặc biệt tại Thư viện Thánh Mẫu Học của Đại học Dayton, với hơn một trăm nghìn cuốn sách viết về Đức Maria, cho biết: “Thật khó để phân biệt những gì Đức Maria nói với những gì được các huyền kiến nhân nắm bắt và giải thích”. Cuối cùng, quyết định vẫn dựa trên đức tin. Robert Spitzer, linh mục Dòng Tên đứng đầu Trung tâm Magis ở California, cho biết: “Phép lạ vượt qua bản chất vật lý và các quy luật vật lý”. Như Spitzer nói, “Khoa học tìm kiếm các quy luật vật lý trong tự nhiên, vì vậy bạn đang gặp phải một nghịch lý. Bạn có thể có một bài kiểm tra khoa học về phép lạ không? Không. Khoa học sẽ chỉ kiểm tra các định luật vật lý hoặc kết quả vật lý.” Tuy nhiên, trong nhiều năm, như một phần của quá trình điều tra của Giáo Hội, những người thấy thị kiến đã phải chịu nhiều cuộc kiểm tra. Đã có những nỗ lực để khiến những người thấy thị kiến ở Medjugorje chớp mắt hoặc phản ứng với những tiếng động lớn khi họ đang chứng kiến cuộc hiện ra. Vào năm 2001, Tạp chí Khám phá Khoa học đã tường trình về “sự mất kết nối một phần ở những mức độ khác nhau của người đang thấy thị kiến với thế giới bên ngoài vào thời điểm họ trải nghiệm cuộc hiện ra”. Âm thanh và ánh sáng cực đại đã được truyền đến não của người đang thấy thị kiến một cách bình thường, nhưng “vỏ não của họ không tri nhận các kích thích thần kinh thính giác và thị giác này”. Cho đến nay khoa học vẫn chưa có lời giải thích. Trong ngành y, điều mà bạn và tôi có thể gọi là phép lạ thường được gọi là “sự thuyên giảm tự phát” hoặc “sự triệt thoái tới mức bình thường”. Frank McGovern, bác sĩ phẫu thuật tiết niệu ở Boston từng nỗ lực điều trị cho Arthur Boyle, cho tôi biết: sự biến mất hoàn toàn của căn bệnh ung thư là một trường hợp “hiếm gặp” nhưng vẫn có thể xảy ra về mặt thống kê. Tuy nhiên, ông nói thêm: “Tôi cũng tin rằng có những thứ trong cuộc sống nhiều lúc vượt xa những gì chúng ta mong đợi”. Liệu sức nóng dữ dội mà Boyle trải qua khi Vicka Ivankovic-Mijatovic ôm đầu anh trong vòng tay có góp phần vào việc chữa lành vết thương của anh không? Theo cuốn sách Tăng Thân Nhiệt Trong Điều Trị Ung Thư: Một Sơ Khảo xuất bản năm 2006, “Sự thuyên giảm tự phát của một số ca ung thư đã được chứng minh là có liên quan đến khởi tạo cơn sốt và kích hoạt chức năng miễn dịch.” Boyle nói rằng mặc dù anh vẫn tiếp tục các cuộc xét nghiệm sau khi trở về từ Medjugorje, nhưng “chính đức tin đã giúp tôi có được trạng thái bình yên khi hệ thống miễn dịch của tôi tự khởi động lại và tiêu diệt căn bệnh ung thư—tất cả đều được thực hiện nhờ ơn Chúa”.
Một số hình ảnh và câu chuyện về Đức Trinh Nữ Maria có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức chúng giúp định nghĩa một đất nước. Đó là trường hợp của Đức Mẹ Guadalupe, mà hình ảnh trên áo choàng của một người đàn ông da đỏ nghèo khổ đã làm nảy sinh bản sắc Mexico vào năm 1531. Bất cứ ai chứng kiến tình yêu và lòng sùng kính tuôn trào mà những người hành hương thể hiện cho Mẹ kính yêu của họ vào những ngày trước Lễ Đức Mẹ Guadalupe—được truyền hình trực tiếp khắp đất nước vào ngày 12 tháng 12—có thể thấy rằng Đức Trinh Nữ Maria đã in sâu vào con tim và tâm hồn người Mexico như thế nào. Hình ảnh của Mẹ là những gì người Mexico mang theo trong cuộc chiến chống lại Tây Ban Nha để giành độc lập vào năm 1810, và cuộc cách mạng nội bộ của họ vào năm 1910. César Chávez đã diễu hành với biểu ngữ của Mẹ trong cuộc chiến đoàn kết những người nông dân ở California vào những năm 1960. Đức Mẹ Guadalupe đã ban phép lành ngay lập tức cho những đứa con mestizo từng bị người Tây Ban Nha và người da đỏ khinh miệt. Mẹ là biểu tượng của la raza, định nghĩa về căn tính của người Mexico, và vì Đức Mẹ Guadalupe, người Mexico luôn tin rằng họ đặc biệt. Vào rạng sáng ngày 11 tháng 12, một ngày trước Lễ Đức Mẹ Guadalupe, tôi lái xe theo hướng đông nam từ Thành phố Mexico tới Puebla. Những người hành hương đang chen chúc theo hướng ngược lại, hướng tới Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe, ngôi đền vĩ đại ở trung tâm thủ đô. Dọc theo con đường cao tốc đông đúc, tôi thấy mọi người đi bộ một mình hoặc theo nhóm, những nhóm người đi xe đạp ăn mặc giống nhau và vô số xe bán tải chạy qua với đèn màu nhấp nháy, hoa giả và tượng Đức Mẹ lắc lư ở phía sau. Tôi rời khỏi đường cao tốc tại một khu cắm trại trong rừng, nơi những người hành hương ngủ qua đêm trên nền đất lạnh giá. Nhạc Mariachi vang lên từ chiếc loa di động gần một đống lửa nhỏ. Một quầy ăn sáng đã được bày sẵn với cà phê, trà và bánh ngọt miễn phí. Một tình nguyện viên nói với tôi rằng trước Lễ Guadalupe, họ cung cấp thức ăn cho 5.000 người hành hương mỗi ngày ở đây. “Mexico thuộc về Đức Trinh Nữ, và Đức Trinh Nữ thuộc về Mexico,” tình nguyện viên Treno Garay vừa nói vừa múc cà phê ra. Bốn thế hệ phụ nữ trong một gia đình cho biết họ đi bộ 10 giờ mỗi ngày từ thị trấn Papalotla, bang Tlaxcala, nhưng qua đêm trên chiếc xe tải của gia đình do một người họ hàng nam lái. Một người phụ nữ 77 tuổi đang thực hiện chuyến đi từ Santa María, bang Puebla, cùng với cháu trai 19 tuổi của mình. Một tài xế xe tải đến từ California hàng năm đã nói thế này: “Ai cũng phải về thăm mẹ mình”. Sáng hôm sau, khi tôi đến quảng trường phía trước vương cung thánh đường, một dòng người đều đặn ở mọi lứa tuổi—trong đó có Alejandra Anai Hernán de Romero, một bà mẹ 18 tuổi đang ôm đứa con bảy tuần ốm yếu của mình, Dieguito, sinh ra với bệnh thận—đang quỳ gối lê bước trên quảng trường, chỉ đứng khi bước vào vương cung thánh đường. Nhiều người đã có những giọt nước mắt chảy dài trên má. Hầu hết những người tôi nói chuyện đều nói rằng họ đến để tạ ơn: Họ đã hứa với Đức Trinh Nữ và Mẹ đã đáp lại lời cầu nguyện của họ. Trong vương cung thánh đường, phía sau bàn thờ chính, treo bức ảnh Đức Mẹ Guadalupe bằng vải nguyên bản được bảo vệ bằng kính, thu hút sự chú ý say mê của các tín hữu đi qua trên một lối đi. Theo truyền thuyết được Giáo Hội chuẩn nhận, thì vào năm 1531, Đức Trinh Nữ Guadalupe đã nói chuyện bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ Aztec) với Juan Diego, một người da đỏ đã được rửa tội và được phong thánh vào năm 2002. Mẹ thúc giục Diego nói với vị Giám mục rằng Mẹ muốn một nhà thờ được xây dựng trên địa điểm là Đồi Tepeyac, nơi từng là đền thờ các nữ thần của người Aztec. Juan Diego không gặp nhiều may mắn với vị Giám mục, người muốn có một dấu hiệu nào đó. Đức Maria hướng dẫn anh ta leo lên đồi, cắt một số bông hoa và tặng chúng cho vị giám mục. Hoa không nở ở đó vào tháng 12, nhưng Juan Diego đã hái một bó hoa hồng tuyệt đẹp. Anh gấp nó vào trong chiếc áo choàng tilma của mình, được cho là được dệt từ sợi cây thùa. Cuối cùng, khi anh đến gặp vị Giám mục và mở áo choàng ra, những bông hồng tràn ra, để lộ hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe. Đây là lần duy nhất Đức Maria được cho là để lại bức chân dung của chính mình. Nhiều nhà sử học nghệ thuật coi đây là cách miêu tả tiêu chuẩn của Châu Âu về Đức Mẹ, điển hình của thế kỷ 16. Nhưng trong vài thập kỷ qua, một số học giả của Giáo Hội đã bắt đầu giải thích hình ảnh này là sự kết hợp giữa Công giáo và những biểu tượng của người Aztec. Theo cách giải thích này, một người da đỏ mù chữ có thể ngay lập tức đọc được các biểu tượng như một giáo lý phi ngôn ngữ. Mái tóc đen của người phụ nữ da ngăm đen được rẽ ngôi giữa có thể tượng trưng cho việc người ấy còn đồng trinh, nhưng người ấy lại đeo một chiếc nơ đen cao ngang eo, dấu hiệu cho thấy cô ấy đang mang thai. Quanh cổ người ấy là một chiếc vòng – không phải bằng đá xanh mà các vị thần Aztec thường trưng ra, mà là một cây thánh giá. Đôi mắt nhìn xuống ấy cho thấy cô ấy không phải là một nữ thần. Tương tự như vậy, đôi bàn tay chắp lại để cầu nguyện cho thấy rằng cô ấy không phải là thần linh. Một chân của cô ấy hơi cong, cho thấy cô ấy có thể đang múa khi cầu nguyện. Màu ngọc lam trên áo choàng của cô biểu thị thần thiêng và bầu trời đối với người Aztec. Hình tượng bông hoa bốn cánh ở giữa chiếc áo dài màu hồng của cô được cho là có nghĩa rằng cô là người mang thần linh nơi mình. Vào khoảng giữa năm 1531 và 1570, hình ảnh nguyên bản trên áo tilma của Juan Diego đã được tô điểm thêm. Theo một nghiên cứu của Mexico xuất bản năm 1983, các ngôi sao vàng đã được thêm vào áo choàng của Đức Trinh Nữ, được căn chỉnh theo hình dạng của chúng vào lúc bình minh ngày 12 tháng 12 năm 1531, ngày hình ảnh được cho là xuất hiện trên áo choàng. Người Aztec rất tôn kính thần mặt trời, và những tia sáng được thêm vào đằng sau Đức Maria biểu thị rằng Mẹ đến từ thiên đường và Chúa của Mẹ có quyền lực thần thiêng. Một giả thuyết cho rằng theo ngôn ngữ Nahuatl, từ “Mexico” xuất phát từ ba từ có nghĩa là “ở trung tâm mặt trăng” – và Mẹ Maria đứng ở trung tâm của mặt trăng lưỡi liềm đen. Đứng trên vai một thiên thần mà theo một số người nói là có những đặc điểm của người bản địa, Mẹ thống trị cả ánh sáng và bóng tối. Điều đáng chú ý là bức ảnh không hề bị hư hoại, mặc dù tấm vải được treo trong vương cung thánh đường hơn một thế kỷ mà không được bảo vệ, dễ bị bám bụi và khói. Nydia Mirna Rodríguez Alatorre, giám đốc bảo tàng vương cung thánh đường, cho biết: “Mẹ được in dấu giống như một bức ảnh chụp vậy”. Ông giải thích rằng vào năm 1785, một công nhân lau chùi khung bạc đã vô tình làm đổ axit nitric lên bức ảnh. Bức ảnh vẫn nguyên vẹn. Một bản khai nhiều thập kỷ sau đó cho biết vụ đổ axit chỉ để lại một dấu vết mơ hồ như vết nước. Năm 1921, Luciano Pérez Carpio, nhân viên văn phòng tổng thống Mexico được giao nhiệm vụ làm suy yếu tôn giáo, đã đặt một quả bom vào bó hoa bên dưới bức ảnh. Vụ nổ đã phá hủy bàn thờ và làm cong cây thánh giá bằng đồng cũng như chân nến gần đó. Nhưng hình ảnh Đức Trinh Nữ vẫn còn nguyên vẹn. Rodríguez Alatorre nói: “Khi lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Guadalupe biến mất, căn tính của Mexico sẽ biến mất”. Là người phụ nữ duy nhất có sura, hay một chương riêng trong Kinh Koran, Đức Maria được Thiên Chúa chọn “trên tất cả những người phụ nữ khác trên thế giới” vì sự khiết tịnh và vâng lời của Mẹ. Giống như trong Kinh Thánh, trong sách thánh của người Hồi giáo, một thiên thần thông báo về việc Mẹ mang thai. Nhưng khác với Kinh Thánh, Maryam sinh con một mình, không có Giuse bên cạnh. Bakr Zaki Awad, trưởng khoa thần học tại Đại học Al Azhar, trường đại học thần học hàng đầu ở Cairo, cho biết: “Mary là người phụ nữ trong sáng và đức hạnh nhất trong vũ trụ”. Ở Ai Cập, tôi đã nói chuyện với những người Hồi giáo sùng đạo, những người vì lòng tôn kính Đức Trinh Nữ Maria nên không ngần ngại đến các nhà thờ Thiên Chúa giáo và cầu nguyện với Mẹ ở đó như thể ở nhà thờ Hồi giáo vậy. Một ngày nọ ở Cairo, tôi gặp hai phụ nữ trẻ Hồi giáo đội khăn trùm đầu đứng trước nhà thờ cổ Coptic Abu Serga, được xây dựng trên một hang động được cho là đã được Thánh Gia trú ngụ. Đó là đêm trước Lễ Phục Sinh của người Coptic, và bên trong, các giáo dân đã đọc kinh cầu nguyện hàng giờ. Bên ngoài, những người phụ nữ nói rằng họ yêu mến Đức Maria vì đã nghiên cứu về Mẹ trong kinh Koran. “Câu chuyện của Mẹ cho chúng tôi biết rất nhiều điều,” Youra, 21 tuổi, nói. “Mẹ có thể đối mặt với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống nhờ đức tin vào Chúa.” Bạn của Youra, Aya, nói thêm, “Có một chương viết về Mẹ trong kinh Koran, nên chúng tôi tò mò chuyện gì đang xảy ra bên trong nhà thờ.” Tôi đã gặp Nabila Badr, 53 tuổi, tại một nhà thờ Coptic dọc sông Nile ở một khu vực của Cairo có tên là Al Adaweya – một trong nhiều nơi ở Ai Cập mà Thánh Gia được cho là đã dừng chân. Badr là mẹ của ba đứa con và là người tổ chức sự kiện cho thống đốc một bang gần Cairo. Cùng với kinh Koran, cô mang theo các biểu tượng về Đức Trinh Nữ Maria của Kitô giáo trong ví. Trong một phòng nhỏ phía sau nhà thờ, Badr hòa nhập với những Kitô hữu theo nghi lễ Coptic đang cầu nguyện ở đó, thắp hết ngọn nến này đến ngọn nến khác, cúi đầu và cầu nguyện trước một biểu tượng Đức Mẹ Maria trên bức tường được cho là đã từng chảy nước mắt bằng dầu. Badr cho biết cô ấy đã nói chuyện với Đức Maria về cuộc sống của mình và Đức Maria đã trả lời cô ấy nhiều lần bằng cách cho cô ấy thấy những hình ảnh trong giấc mơ, mà sau đó đã trở thành sự thật. Giống như nhiều người Ai Cập khác, Badr cũng tin vào jinn, hay các tinh thần (spirits), vốn ảnh hưởng đến cuộc sống theo hướng tốt hay xấu, mặc dù cô tuyên bố chỉ có thiên thần mới tồn tại. “Thiên thần cũng tin vào Đức Trinh Nữ Maria,” cô nói. Badr thường nhờ Đức Maria cầu thay cho mình và cô đã sáng tác một bài thơ gửi Đức Maria. Badr nói: “Khi tôi cảm thấy chán nản, tôi cầu nguyện với Chúa rất nhiều, nhưng tôi cũng hỏi ý kiến Đức Mẹ Maria, và sau một thời gian thì mọi việc ổn thoả”. Tại nhà thờ St. Mary ở Zaytun, một khu phố cổ Cairo, người ta nói đã thấy Đức Mẹ đã hiện ra nhưng im lặng trong ánh sáng trắng trên các mái vòm của nhà thờ trong ba năm, từ 1968 đến 1971. Đôi khi có chim bồ câu trắng phát sáng xuất hiện cùng những lần hiện ra. Yohanna Yassa, một linh mục theo nghi lễ Coptic từng phục vụ tại nhà thờ St. Mary từ năm 1964, nói với tôi rằng phụ nữ Hồi giáo cũng thường đến nhà thờ của ông để cầu nguyện. Ông nói: “Hôm nay chúng tôi có một người phụ nữ đến để nhận phép lành.” “Đức Maria đang kêu gọi chúng ta về mặt thiêng liêng, và vì điều đó, cả người Hồi giáo và Kitô giáo đều yêu mến và tôn trọng Mẹ.”
Tìm hiểu về Đức Maria, tôi biết được rằng Mẹ thường hiện ra với những người trong những vùng khủng hoảng, chẳng hạn như Kibeho, Bosnia và Herzegovina, để cảnh báo về nguy hiểm hoặc làm thành một biểu tượng cho sự chữa lành. Có những chữa lành thể chất được cho là kỳ diệu như ở Medjugorje, còn những chữa lành về tinh thần thì không sao đếm được. Lộ Đức (Lourdes), địa điểm hành hương kính Đức Trinh Nữ nổi tiếng nhất, nằm ngay dưới chân dãy Pyrenees ở tây nam nước Pháp, là “nhà máy” phép lạ, với hơn 7.000 ca chữa lành được tuyên bố kể từ giữa những năm 1800. Chỉ có 69 phép lạ được thẩm quyền Giáo Hội chính thức công nhận. Mọi thứ ở Lộ Đức đều có quy mô lớn: hơn một trăm mẫu Anh, sáu triệu khách hành hương mỗi năm, không gian đủ cho 25.000 tín hữu trong vương cung thánh đường khổng lồ dưới lòng đất. Nó được xây dựng vào năm 1958 để kỷ niệm 100 năm ngày Đức Trinh Nữ Maria hiện ra lần đầu tiên vào năm 1858 với Bernadette, một cô bé nông dân 14 tuổi mù chữ. (Bernadette được phong thánh vào ngày 8 tháng 12 năm 1933.) Ở hang đá Đức Mẹ Lộ Đức gần đó, những viên đá bị mài mòn dưới hàng triệu bàn chân. Đó là nơi mà Đức Trinh Nữ đã ra lệnh cho Bernadette dùng tay múc bùn, để một dòng suối vọt lên từ đất ẩm. Nguồn nước kỳ diệu đó trở thành nước tắm thu hút hàng ngàn người ngồi xe lăn hàng ngày, và hàng ngàn người khác đi bộ đến cầu nguyện để được chữa lành. Các tình nguyện viên đẩy những người bệnh trên những chiếc màu xanh lam thành những hàng dài ngoằn ngoèo bất tận dọc theo những con phố chật hẹp của Lộ Đức, hai bên là hàng chục cửa hàng đồ lưu niệm tôn giáo. Hôm tôi đến tắm, trời mưa như trút nước và lạnh. Có một quy trình nghiêm ngặt về cách bạn cởi quần áo, sau đó quấn một tấm vải nhẹ quanh người để dìm mình nhanh chóng trong một bể tắm riêng tư, có tình nguyện viên hỗ trợ nâng mỗi cánh tay. Một phụ nữ Ireland tốt bụng nói với tôi: “Hãy nói ý nguyện của bạn, làm dấu thánh giá và chúng tôi sẽ hộ đỡ bạn xuống”. Sau đó là sự dìm mình trong nước lạnh—một khoảnh khắc bình yên sâu sắc. Ngay sau Thế chiến thứ hai, các thành viên của quân đội Pháp và Đức đã gặp nhau tại Lộ Đức để hòa giải và hàn gắn vết thương chiến tranh. Giờ đây, mỗi mùa xuân, các nhóm cựu binh đều có mặt trong đám người hành hương. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2015, tôi đã đi với 184 thương binh Mỹ từng chiến đấu ở Iraq và Afghanistan và gia đình của họ, dưới sự tài trợ của Tổng Giáo phận phục vụ Quân đội và Hội Hiệp sĩ Columbus. Họ đến tham dự cuộc hành hương hàng năm của quân đội (năm nay từ 35 quốc gia) để tôn vinh hòa bình. Trong suốt quãng đời còn lại, tất cả những người lính dũng cảm thầm lặng này lẫn những người hỗ trợ họ đều phải đối mặt với những vết thương mà họ phải chịu trong nhiều lần động binh. Vui nhộn giữa chúng tôi là một trong những người phụ nữ nổi bật nhất mà tôi từng gặp: Đại tá (đã nghỉ hưu) Dorothy A. Perkins, 60 tuổi, từng là vận động viên ba môn phối hợp và là mẹ của hai con, đang chỉ huy một tiểu đoàn gồm 480 binh sĩ tại Fort Hood, Texas, khi Hoa Kỳ bị tấn công vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Vì tiểu đoàn của bà là tiểu đoàn duy nhất có binh lính chuyên môn về phản gián và thẩm vấn, nên bà đã giám sát việc triển khai binh lính tới năm quốc gia và bà đã cử một nhóm đến Vịnh Guantánamo để thành lập cơ sở thẩm vấn tù binh chiến tranh. Trước ngày 11/9, Perkins đã đến Iraq hai lần với tư cách là trưởng nhóm thanh tra vũ khí thuộc Ủy ban đặc biệt của Liên hợp quốc, và đã phục vụ các hoạt động đặc biệt của quân đội trong hơn một thập kỷ. Năm 2006-2007, bà giữ chức cố vấn chính cho đại sứ Hoa Kỳ về vấn đề con tin ở Iraq. Perkins lớn lên là một cô gái da trắng nghèo trong một khu nội thị chủ yếu là người da đen ở Tacoma, Washington, với sự hỗ trợ chỉ trên danh nghĩa từ mẹ ruột và cha dượng nghiện rượu. Năm mười tuổi, đã phải đi hái quả ngoài đồng. Cô học tiếng Đức trong khoảng thời gian giữa cấp ba và đại học, khi cô sống như một “người hầu theo hợp đồng”, dọn phòng cho một khách sạn gia đình ở dãy núi Alps trong vùng Bavaria. Trò giải trí duy nhất của cô là đi bộ trên những con đường mòn trên núi, nơi cô gặp những ngôi đền thờ kính Đức Maria. Perkins nói: “Đức tin luôn là cốt lõi của con người tôi. Đó là sự lựa chọn của tôi từ rất sớm.” Perkins cho biết: không có gia đình để nương tựa, Đức Trinh Nữ Maria đã trở thành mỏ neo của đời cô. “Mẹ yêu bạn nhiều vô kể. Nhờ Mẹ mà đến với Chúa. Mẹ giúp tôi tới tình thân lớn hơn với Chúa Giêsu.” Perkins theo học tại Đại học San Francisco, một trường của Dòng Tên, trong 12 năm nhưng rời trường khi chỉ còn thiếu một số tín chỉ và tốt nghiệp trường SUNY, Albany. Khi ở San Francisco, cô làm thêm tại Macy’s, dần dần thăng tiến trong công ty để trở thành giám đốc cấp cao. Ở trường đại học, cô cũng gia nhập Quân Dự bị. Sau khi kết hôn với một lính Mũ nồi xanh, cô đăng ký làm việc toàn thời gian trong Quân đội và làm việc trong lĩnh vực phản gián. Đối với Perkins, “Lộ Đức thực sự buộc mỗi người phải nhìn lại bản thân mình về mặt tâm linh. Mọi thứ luôn trôi qua rất nhanh. Chúng ta bị choáng ngợp bởi các phương tiện truyền thông và bị cuốn vào cuộc sống hàng ngày. Mọi người không buộc mình phải nhìn xem đâu là điều quan trọng nhất—sự chính trực của tâm hồn.” Trong Thánh lễ bế mạc khổng lồ ở vương cung thánh đường, một giám mục châu Âu giảng bằng tiếng Pháp đã nói: “Chiến tranh thế giới thứ ba đã diễn ra ở Trung Đông và Châu Phi”. Ngài ca ngợi quân đội ở đó đã tập trung “vào hòa bình, công lý và nhân quyền. Ước gì kinh nghiệm này làm cho các bạn trở thành những chứng nhân của niềm hy vọng.” Tôi nghĩ đến cảnh tượng không thể xóa nhòa của cuộc rước nến vào đêm hôm trước—hàng ngàn người hành hương, từ nhiều nơi ở Argentina đến Zambia, đã âm thầm nâng nến cầu nguyện. Buổi lễ kết thúc với hàng chục cựu chiến binh ngồi xe lăn xếp hàng phía trước Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức để hát và cầu nguyện. Biết bao tâm hồn khao khát trở thành nhân chứng cho niềm hy vọng, biết bao tâm hồn thấm nhuần niềm tin, rằng Đức Trinh Nữ Maria vẫn đang soi đường cho họ. (Nationalgeographic)
Chuyển dịch: Anthony Nguyễn Hữu Khanh, SJ
Tác giả: Bymaureen Orth