HOME THẦN HỌC SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN SSNBT1 SSNBT2 SSNBT3 SSNBT4 SSNBT5
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN
PHẦN II: TIN THIÊN CHÚA HIỆN
HỮU- HÀNH VI NHÂN LINH
B. TIN CÓ THIÊN CHÚA-TRI THỨC TỰ
NHIÊN HAY SIÊU NHIÊN
a).
Con người có thể biết Thiên Chúa với lư trí
tự nhiên
b).
Không có ân sủng, con người không thể biết Thiên
Chúa
a).
Tin hay không tin, hành vi tự do. 13
i).
Các khuynh chiều nơi con người
ii).
Aân sủng tác động trên con người
Niềm tin
hữu thần hàm chứa niềm tin khoa học, nghĩa là,
những người hữu thần tin rằng:
·
vũ
trụ như chúng ta thấy bằng giác quan là thực
hữu;
·
vũ
trụ vạn vật liên hệ với nhau một cách
hữu cơ và được nhận thấy qua các
định luật tự nhiên;
·
con
người có khả năng tri thức vạn sự
vạn vật, và hơn nữa qua những sự vật
khả giác con người có thể biết thực
tại tuyệt đối là nền tảng của
những thực tại mà giác quan chúng ta nhận biết
được.
Tin là phán đoán,
là tri thức, là tri thức tự do; mà đă là tri thức,
th́ tri thức đó có thể đúng hoặc sai. Chúng ta không chứng minh điều
ḿnh tin là đúng như thể
chứng minh một điều bằng các định
lư hoặc quy luật[1];
tuy nhiên chúng ta sẽ cố gắng cho thấy cái lư tại sao chúng ta tin mà
thôi[2].
Trong phần này,
chúng ta sẽ bàn đến tính khả tín của của
niềm tin hữu thần , nghĩa là, chúng ta sẽ
đề cập đến niềm tin “vạn sự
vạn vật thực hữu có liên hệ hữu cơ
với nhau” và niềm tin “con người có khả năng
tri thức thực tại”, hay nói cách khác, chúng ta sẽ bàn
về “khả năng siêu vượt” của con
người và về vấn đề “siêu vượt là
tri thức tự nhiên hay siêu nhiên”.
Nói tới siêu
vượt, là phải nói tới dấu chỉ.
Trong mục này chúng ta
sẽ đề cập tới dấu chỉ thông
thường, và kế tiếp tới các phép lạ như
những dấu chỉ đặc biệt.
Dấu chỉ là
một hiện hữu khả giác dùng để chỉ một cái ǵ khác. Trong
Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta thấy có đoạn
chép:
“Trời xanh tường tuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng
một lời một lẽ,
chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng chúng đă vang dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển”
(Tv.18A, 2-5).
Như vậy, phải chăng, cùng với tác giả
Thánh Vịnh này, trời xanh và không trung, đêm và ngày, là
những dấu chỉ?
Đức Yêsu
trách người đương thời biết nh́n
dấu chỉ tự nhiên để biết thời
tiết, nhưng họ đă không biết nh́n những
dấu chỉ “đặc biệt” khác mà họ gặp:
“Chiều
đến các ông nói: ráng vàng th́ gió;
và sớm mai: hôm nay ráng đỏ th́ mưa.
Ráng trời, các ông biết ước định, c̣n
về dấu chỉ thời buổi, các ông lại bất
lực” (Mt.16, 2-3).
Trong cuộc
sống chúng ta thấy, có nhiều cách để gọi
một người: có thể gọi bằng tiếng
hoặc cũng có thể bằng ra dấu hiệu. Với
những người bị điếc chúng ta không thể
dùng âm thanh, cũng như với người mù chúng ta không
thể dùng cử chỉ để ra dấu hiệu.
Dấu chỉ, chỉ có ư nghĩa đối với
những người tiếp nhận được
dấu chỉ đó. Chính v́ thế, một số tư
tưởng gia hiện đại mời gọi những
người liên hệ hăy cố gắng t́m ra những
dấu chỉ thích hợp để con người
thời nay có thể dễ dàng nhận ra thực tại
siêu nhiên; bởi v́ có người nhạy bén với dấu
chỉ này và vô cảm với dấu chỉ khác, và
ngược lại. Có người nhạy bén với trật tự, có
người dể rung động với dấu chỉ t́nh yêu, v.v.[4].
Với Aristote, chuyển động và biến dịch là
dấu chỉ giúp nhận ra thực tại toàn hảo;
với Kant, mệnh lệnh tuyệt đối của lư
trí thực hành là dấu chỉ buộc phải chấp
nhận “Thiên Chúa hiện hữu”; và với người
khác, sự hữu hạn có thể là dấu chỉ giúp
người ta nhận ra thực tại vô hạn tuyệt
đối.
Phép lạ hay
dấu lạ, là sự kiện mà lư trí con người không
thể giải thích hoặc hiểu được theo
trật tự tự nhiên.
Phép lạ là
sự kiện, mà sự kiện là điều mà khoa
học thực nghiệm có thể kiểm chứng
được; như vậy, những bí tích của
đạo Công Giáo không là phép lạ[5];
tuy vậy, sự kiện đức Yêsu chữa lành
người mù từ thuở mới sinh (Yn.9,1tt) hay
chữa lành người bại tay (Mc.2,1tt) hay những
sự kiện lành bệnh “không b́nh thường” tại
Lourdes bên Pháp, v.v..., là những phép lạ.
Phép lạ là
dấu chỉ mời gọi con người siêu
vượt[6], phán đoán,
giải thích; tuy nhiên con người vẫn tự do
trước phép lạ. Chẳng hạn đứng
trước sự kiện người mù từ thuở
mới sinh được chữa lành, người mù
nhận ra người chữa lành cho ḿnh là người
đến từ Thiên Chúa (Yn.9, 33), nhưng những
người biệt phái lại cho rằng đức Yêsu
là kẻ tội lỗi (Yn.9, 24).
“Tôi suy tư
vậy tôi hiện hữu” của Descartes, và “tôi sai lầm
vậy tôi hiện hữu” của thánh Augustin[7],
đều nhằm chứng minh “tôi hiện hữu” là chân
lư. “Tôi hiện hữu vậy Thiên Chúa hiện hữu”, và,
“hữu thể bất tất hiện hữu vậy Thiên
Chúa hiện hữu”, cũng nhằm chứng minh “Thiên Chúa
hiện hữu”. Tuy nhiên nếu đem so sánh hai cặp
luận chứng trên, chúng ta thấy chúng khác xa nhau.
Tôi là hiện
hữu bất tất, nên phải có hữu thể tất
yếu tuyệt đối, được gọi là Thiên
Chúa. Đây là tri thức siêu vượt.
Siêu vượt là
một hành vi nhân linh, nghĩa là, một hành vi tự do, ư
thức, đ̣i con người vượt qua chính ḿnh. Chính
hành vi siêu vượt này làm con người trở thành tinh
thần, hữu thể tự do đích thực. Không siêu
vượt, con người chỉ ở lại trên b́nh
diện sự vật và không là tinh thần đích thực[8].
Trong điều
kiện hiện tại của con người tại
thế, con người biết Thiên Chúa qua trung gian các
tạo vật[9]. Biết
Thiên Chúa qua các sự vật khả giác, là siêu vượt,
là tin. Siêu vượt là tin, và tin cũng là siêu vượt.
Tin là siêu
vượt trên các dấu chỉ. Vũ trụ vạn
vật hữu h́nh, được coi là những dấu
chỉ để con người vươn lên, để
con người có thể nhận ra Thiên Chúa hiện hữu[10].
Tại sao lại
coù
cái ǵ đó hơn là không có? Tại sao lại có
hiện thể mà không phải là hư vô[11]?
Raymond Panikkar cho
rằng: "yếu tính của tin dường như
hệ tại trong câu hỏi hơn là trong câu trả
lời, trong thái độ tra vấn, trong khát vọng
hơn là trong lời giải đáp cụ thể. Tin là
cái-bao-hàm-hiện-sinh hơn là nội dung tri thức ...
Đức tin không chỉ ở nơi những
người có câu trả lời đúng, nhưng cũng c̣n
có nơi những người chân thực t́m kiếm, ao
ước, yêu mến, và muốn ... , và nơi những
người thành tâm thiện chí[12]";
"Tin là sự khai mở hiện sinh với siêu việt,
bởi v́ chính bởi sự khai mở này mà con người
có tương quan với
nguyên-lư-vượt-con-người[13]".
Tin, là siêu
vượt, nhờ dấu chỉ. Chính nhờ dấu
chỉ mà con người nhận ra và gặp gỡ Thiên
Chúa. Siêu vượt không chỉ đơn thuần là hành vi
thuộc lư trí, nhưng c̣n là hành vi của ư chí và ân sủng
nữa. "Có đức tin, tức là có sự hiểu
biết siêu nhiên về các dấu chỉ, nghĩa là
nhận ra nơi các dấu chỉ sự biểu lộ
của trật tự siêu nhiên[14]".
Các phép lạ là
dấu chỉ đặc biệt. Phép lạ luôn luôn hàm
chứa ư nghĩa thiêng liêng và thần thánh, là chứng tích
của một nguyên nhân tàng ẩn ngoại nhiên[15].
Phép lạ không chỉ là dấu chỉ đặc biệt
giúp con người siêu vượt để gặp gỡ
Thực Tại siêu nhiên, nhưng nó c̣n là bảo đảm
"khả nghiệm" chứng thực điều
được rao giảng là chân lư[16].
Con người có
khả năng biết Thiên Chúa, đó là niềm tin của
những người hữu thần, những người
tin Thiên Chúa hiện hữu.
Chúng ta biết
rằng tin là một phán đoán, và phán đoán có thể là
tri thức. Người ta biết hoặc bằng nh́n,
nghe, đụng chạm, hoặc nhờ suy luận,
hoặc tin. Nói cách khác, có tri thức do cảm giác, có tri
thức do suy luận, và có tri thức do tin. Tri thức suy
luận có thể tựa trên tri thức giác quan[17]
hay tri thức do tin[18],
và tri thức do tin cũng có thể tựa trên tri thức
giác quan và tri thức suy luận.
Với những
người tin Thiên Chúa hiện hữu, “con người có
khả năng tri thức Thiên Chúa” là điều hiển
nhiên, v́ nếu con người không thể biết Thiên Chúa
(như thuyết bất khả tri chủ trương) th́
làm sao dám khẳng định “Thiên Chúa hiện hữu” là
chân lư?!
Con người có
khả năng biết Thiên Chúa, nhưng “biết Thiên Chúa”
là tri thức tự nhiên hay siêu nhiên? Đó là vấn
đề chúng ta bàn bây giờ.
Con người
khi được tạo dựng, có khả năng
biết Thiên Chúa với lư trí tự nhiên không, hay phải
nhờ ân sủng mới có thể biết Thiên Chúa?
Khi đặt
vấn đề “tri thức về Thiên Chúa là tri thức
tự nhiên hay siêu nhiên”, là đặt vấn đề
về chủ thể[19]
tri thức.
Sự hiện
hữu của môn Thần Lư Học[20]
được giảng dạy trong các trường
đại học công giáo hay các phân khoa thần học,
cũng như sự hiện hữu của những tác
phẩm hộ giáo[21],
hàm chứa lập trường cho rằng lư trí tự nhiên
có thể nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, và không
chỉ nhận biết rằng Thiên Chúa hiện hữu mà
c̣n nhận biết cả
những phẩm tính đặc biệt nào đó của
Thiên Chúa nữa.
Công đồng
chung Vatican I trong hiến chế Dei Filius khẳng
định: “Mẹ Hội Thánh khẳng định và
dạy rằng Thiên Chúa, Nguyên Lư và Cùng Đích của
mọi sự, có thể được nhận biết
cách chắc chắn bởi ánh sáng tự nhiên của lư trí
con người qua các tạo vật[22]”.
Công đồng cũng trích dẫn thư Phaolô: “V́ từ
buổi tạo thành vũ trụ, những ǵ nơi
Người, mắt xác thịt không thể thấy, th́ trí
khôn nh́n ngắm được nơi công việc
Người làm, quyền năng hằng có và thần tính
của Người, khiến họ vô phương chữa ḿnh. V́ rằng họ
đă biết Thiên Chúa, họ lại đă không tôn vinh
Người như Thiên Chúa, hay không tạ ơn
Người, nhưng họ đă ra hư huống trong các
suy tưởng của họ, và ḷng ngu muội của
họ đă ra tối tăm” (Rm.1,20-21).
Với lập
trường của công đồng Vatican I được
trích dẫn ở trên, chúng ta cần hiểu đúng:
·
công
đồng không khẳng định mỗi người
thực sự đều nhận biết Thiên Chúa, nhưng
mỗi người đều có thể nhận biết
Thiên Chúa;
·
công
đồng cũng không khẳng định rằng sự
hiện hữu của Thiên Chúa có thể được
chứng minh, nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa
có
thể được nhận biết nhờ các
tạo vật;
·
công
đồng cũng không khẳng định Thiên Chúa
được nhận biết không cần ân sủng,
nhưng ngay cả không có mặc khải của Thiên Chúa th́
vẫn có tri thức tự nhiên về Thiên Chúa[23].
Có vẻ như
trái với lập trường trên, một số
người cho rằng, nếu không có ân sủng của
Thiên Chúa, nếu không có ơn soi sáng[24],
th́ con người không thể nhận biết Thiên Chúa,
thậm chí không thể nhận biết Thiên Chúa hiện
hữu nữa.
Rousselot cho
rằng: “không có sự soi sáng của ân sủng đức
tin, không ai có khả năng nhận ra những dấu
chỉ khả tín như là những bằng chứng về
thực tại siêu nhiên, ngay cả khi dấu chỉ này là
phục sinh một người chết[25]”.
Để nhận ra giá trị của những dấu
chỉ trong mặc khải siêu nhiên, cần phải có
một khả năng tổng hợp siêu nhiên; Việc minh
chứng tính khả tín của ư nghĩa mà dấu chỉ
hàm chứa không thể có được nếu không có ân
sủng trợ giúp. Nói cách khác, để một
người thấy điều dấu chỉ biểu
trưng là hợp lư, cần phải có sự can thiệp
của ân sủng[26].
Rousselot phủ
nhận đức tin “tự nhiên”, không chỉ bởi v́
Rousselot cho rằng không thể chứng minh cách tự nhiên
tính khả tín, mà c̣n bởi v́ Rousselot cho rằng không thể
tin các tín điều nếu con người không
được nâng lên trật tự siêu nhiên[27].
Rousselot cho rằng việc nhận ra tính khả tín của
điều ḿnh tin đồng nhất với hành vi tin[28].
Cha P. Rousselot c̣n
cho rằng ngài t́m thấy nơi thánh Thomas lập
trường không thể có tri thức tự nhiên về
mặc khải. Nhưng những người khác, chẳng
hạn như Ligeard, lại cho rằng tuy thánh Thomas không
chấp nhận việc con người có thể tin các chân
lư mặc khải siêu nhiên với đức tin tự nhiên,
nhưng thánh nhân lại chấp nhận con người có
thể có sự hiển nhiên “tự nhiên” về tính khả
tín (của các chân lư mặc khải)[29].
Theo Rousselot, thánh Thomas quan niệm lư trí tự nhiên có thể
đạt đến sự chắc chắn cái nhiên hay luân
lư về sự kiện mặc khải, nhưng không
đạt tới sự hiển nhiên về sự kiện
này; Rousselot cho rằng nếu lư trí không có sự trợ giúp
của ân sủng th́ sẽ không bao giờ có khả năng
loại bỏ mọi nghi ngờ luận lư[30].
Chúng ta đang
ở trong vấn đề cực kỳ gai góc của
thần học, đó là vấn đề tương quan
giữa tự nhiên và siêu nhiên. Có thể nói tùy theo quan
niệm về con người mà người ta đi
đến lập trường có vẻ khác nhau, hoặc lư
trí con người có thể nhận biết Thiên Chúa,
hoặc không có ân sủng lư trí con người không thể
nhận biết Thiên Chúa.
Nếu quan niệm con
người hay lư trí con người ở t́nh trạng
thuần túy tự nhiên (natura pura), như thể Thiên Chúa
tạo dựng vũ trụ và con người rồi
bỏ đó, như thể Pélagius quan niệm con
người có thể (hành thiện) độc lập
với Thiên Chúa, th́ cho rằng “lư trí con người có
thể nhận biết Thiên Chúa” là sai lầm; Và như
vậy lập trường “không có ân sủng con
người không thể nhận biết Thiên Chúa” là đúng
đắn.
Thế nhưng,
liệu có t́nh trạng “tự nhiên thuần túy” (natura pura)
không? Hay đây chỉ là cách phân biệt trên lư thuyết
nhằm cho thấy con người luôn luôn là tạo vật
tùy thuộc Thiên Chúa, không có Thiên Chúa trợ giúp con
người không thể làm ǵ tốt được. Không
thể có địa đàng hay thiên đàng độc
lập với Thiên Chúa, không thể có hạnh phúc đích
thực nếu không sống trong Thiên Chúa. Con người
chỉ hạnh phúc đích thực nếu kết hiệp
với Thiên Chúa, nếu sống trong Thiên Chúa.
Phải chăng
khi Thiên Chúa tạo dựng con người, là Thiên Chúa đă
tạo dựng con người cho Thiên Chúa, là Thiên Chúa đă
nâng con người lên làm con cái Thiên Chúa, là Thiên Chúa đă
luôn bao bọc con người bằng t́nh yêu của Ngài[31],
và Thiên Chúa không bao giờ ngừng yêu thương con
người v́ Thiên Chúa là t́nh yêu? Như vậy, phải
chăng t́nh trạng “thuần túy tự nhiên” không tồn
tại thực sự mà chỉ là phân biệt của lư trí
con người mà thôi?
Như vậy, nếu quan
niệm từ đời đời Thiên Chúa đă yêu
thương con người và không có thời điểm
nào vắng ân sủng nơi con người, th́ lập
trường “lư trí con người ở t́nh trạng
tự nhiên[32] có
thể nhận biết Thiên Chúa” là hoàn toàn đúng
đắn.
Đối
với chúng ta, hai mệnh đề “lư trí con người
có thể nhận biết Thiên Chúa” và “không có ân sủng con
người không thể nhận biết Thiên Chúa” không
hề mâu thuẫn nhau nhưng bổ túc cho nhau.
“Bởi chưng
Người đă chọn ta trong Ngài trước khi
tạo thiên lập địa...; Bởi ḷng yêu mến
Người đă tiền định cho ta được
phúc làm con...” (Eph.1,4-5). Thiên Chúa là T́nh Yêu (1Yn.4,8.16),
Người đă yêu chúng ta trước khi tạo dựng
nên chúng ta, trước khi tạo thiên lập địa.
Như vậy Thiên Chúa đă yêu con người và muốn
con người nhận biết chân lư (1Tm.2,4); con
người luôn sống trong ân sủng của Thiên Chúa, và
không có ǵ tốt lành nơi con người mà không nhờ ân
sủng của Thiên Chúa.
Con người
được tạo dựng để hướng
về Thiên Chúa[33],
và như vậy nếu chấp nhận nơi con
người có một ước muốn tự nhiên
hưởng kiến Thiên Chúa, th́ cũng không làm giảm gía
trị của ân sủng hay sự can thiệp “hiện
tại” của Thiên Chúa nơi mỗi con người trong
từng thời điểm của đời họ[34].
Thiên Chúa đă tạo dựng con người cho Thiên Chúa,
thế nên với ước muốn tự nhiên hay bẩm
sinh, con người luôn hướng về Thiên Chúa, luôn t́m
kiếm Thiên Chúa như cùng đích đời họ, dù
họ ư thức hay không ư thức[35],
cho đến khi họ được an nghỉ nơi
Ngài[36].
Nếu chúng ta
hiểu lư trí “tự nhiên” như vậy, làm sao chúng ta
giải thích sự kiện có những người hiện
nay không nhận biết Thiên Chúa, và có những người
chỉ nhận biết Thiên Chúa sau một thời gian dài
t́m kiếm như thánh Augustin chẳng hạn?
Con mắt con
người có thể nh́n thấy sự vật, nhưng
nếu vào một buổi sáng có sương mù dày
đặc th́ lúc đó con mắt tự nhiên không thể
nh́n thấy sự vật tương đối xa ḿnh.
Cũng tương tự như vậy trong việc lư trí
con người nhận biết Thiên Chúa. Nếu một
người không nhận biết Thiên Chúa hiện hữu,
th́ có thể v́ một ngăn cản nào đó, chẳng hạn
như họ nhận một nền giáo dục vô thần
quá mạnh, hoặc v́ hoàn cảnh xung quanh qúa đen tối
che lấp lư trí, hoặc v́ họ cố t́nh không muốn
nh́n...! Cũng chính v́ những lư do này mà các tư
tưởng gia hữu thần được mời
gọi để đưa ra những lư chứng hầu
giúp những người chưa nhận biết Thiên Chúa
thấy được rằng Thiên Chúa hiện hữu.
Những lư chứng này có thể được coi là ân
sủng giúp người chưa nhận biết Thiên Chúa,
gạt bỏ những ngăn trở như những
lớp sương mù để nhận biết Thiên Chúa.
Với thánh Augustin, những lời giảng của thánh
Ambroise là ân sủng Thiên Chúa ban cho ngài, giúp ngài nhận ra
Thiên Chúa là chân lư vĩnh cửu.
Con mắt tự
nhiên của con người sẽ nh́n thấy đối
tượng mà sương mù đă làm nó không thấykhi
sương mù tan đi; cũng tương tự như
vậy lư trí tự nhiên của con người sẽ
nhận biết Thiên Chúa khi những ngăn cản ấy
không c̣n nữa. Thánh Phao-lô cũng không hiểu tại sao dân
Do-thái phần đông không nhận biết Đức Yêsu là
Thiên Chúa (Rm.9-11). Chúng ta biết Thiên Chúa có thể dùng con
người là phương tiện để thông ban ân
sủng cho con người; chẳng hạn các nhà truyền
giáo với lời rao giảng, là ân sủng cho những
người chưa được nghe nói về Thiên Chúa và
về Đức Yêsu Kitô, v.v...! Thời điểm cất
ngăn cản của Phao-lô là thời điểm ngài trên
đường đi Damas (Cv.9), c̣n thời điểm ân
sủng đặc biệt đối với Y-nhă Loyola là
biến cố tại Pampeluna.
Với thánh
Augustin, những ngăn trở làm lư trí không nhận
biết Thiên Chúa được cất đi nhờ ơn
soi sáng[37]. Lư trí có
khả năng nhận biết chân lư[38],
và lư trí cũng được một ánh sáng đặc
biệt soi chiếu để nhận biết chân lư
vĩnh cửu[39].
Linh hồn con người có khả năng nhận
biết chân lư, nhưng linh hồn cũng cần được
ánh sáng là chính Thiên Chúa soi sáng để nhận biết
sự khôn ngoan đích thực, nếu linh hồn không
được ánh sáng đặc biệt soi chiếu th́
linh hồn không thể đạt được chân lư
vĩnh cửu[40].
Thánh Thomas, trong nỗ lực với thánh Augustin, cho rằng
“ánh sáng mà nhờ đó tinh thần chúng ta tri thức (nói
theo kiểu của thánh Augustin), chính là trí năng tác
động[41]”. Theo
thánh Thomas, linh hồn sở hữu ánh sáng này không phải
tự ḿnh mà có, tuy dù vẫn là một với nó[42].
Nếu giả như có t́nh trạng Thiên Chúa
tạo dựng con người mà
Ngài chưa có ư định cho con người thông hiệp
với Ngài, th́ qủa thực lư trí tự nhiên của
con người ở t́nh trạng đó không thể
biết Thiên Chúa. Nhưng
điều giả sử trên không thực hữu, v́
trước khi tạo dựng con người Thiên Chúa
đă yêu con người (Eph.1,4-5), và như vậy không bao
giờ Thiên Chúa ngừng yêu con người, nghĩa là, không
bao giờ thiếu vắng ân sủng của Thiên Chúa cho con
người. Như vậy chúng ta có thể nói, lư trí tự
nhiên của con người có thể nhận biết Thiên
Chúa[43].
Tri thức tự
do! Đây là điều ít người nói tới, nhưng
thực sự có tri thức “tự do” và tri thức “không
tự do”. “Tri thức không tự do” ở đây hiểu là
tri thức không cần sự can thiệp của ư chí
tự do. Thí dụ, 2+2=4 là “tri thức không tự do”,
nhưng “anh biết, em yêu anh” là tri thức tự do, đây
là tri thức do tin.
Thiên Chúa có
hiện hữu hay không? Điều này tùy bạn tin hay không tin, tùy bạn tin “Thiên Chúa hiện hữu”
hay bạn tin “Thiên Chúa không hiện hữu”. Tin có Thiên Chúa hay tin không có Thiên Chúa, là do tự
bạn[44]. Bạn
có tự do để phán đoán về điều này. Tin “có Thiên Chúa” hay “không có Thiên
Chúa”, là tri thức tự do. Chúng ta thấy có nhiều
người tin Thiên Chúa
hiện hữu, và cũng thấy có không ít người tin không có Thiên Chúa.
Tin là hành vi
thuộc lư trí hay thuộc ư chí? Thánh Augustin nói, tin là suy
tư với sự thuận ḷng[45].
Với thánh Albert Cả, tin chính yếu hệ tại
sự thuận ḷng[46],
và suy tư chỉ là tùy phụ[47].
C̣n với thánh Thomas, sự thuận ḷng và suy tư gần
như ngang bằng nhau[48]
nơi đức tin. Thánh Thomas cho rằng, sự thuận
ḷng mà có, th́ không bởi suy tư nhưng do ư chí[49].
Lư trí có thể thuận ḷng hay chấp nhận một
điều ǵ đó dù không được lư giải hoàn
toàn khi ư muốn nghiêng chiều và chọn điều đó[50].
Tin, xét như sự thuận t́nh cố
ư, không là một ư kiến được củng cố
bởi những suy tư hay lư luận; bởi v́ những
lư luận dù có nhiều bao nhiêu đi nữa th́ ư kiến
vẫn không thể đạt đến mức chắc
chắn trăm phần trăm; cái yếu tố quyết
định trong hành vi tin, là ước vọng sống
vĩnh cửu[51].
Ước vọng sống vĩnh cửu là động
lực tác động trên lư trí, để lư trí đi
đến sự thuận t́nh, để lư trí chấp
nhận. Nói theo ngôn ngữ của thánh Thomas, trong tri
thức bởi tin, ư chí đóng vai tṛ ưu tiên, v́ lư trí
nghiêng chiều theo những ǵ ư chí muốn, không phải v́
lư trí thấy điều đó đúng hiển nhiên,
nhưng v́ ư chí muốn[52].Ư
chí muốn những điều này (chẳng hạn như
“Thiên Chúa hiện hữu”) bởi v́ nơi con người
đă có ước vọng sống vĩnh cửu, đă có
khát vọng hướng về Sự Thiện tuyệt
hảo[53].
Ư chí là nghiêng
chiều theo lư trí thấy đúng, nó tuỳ thuộc sự
lănh hội hay hiểu biết của lư trí[54].
Nhưng đảo lại, ư chí có thể có ảnh
hưởng mang tính quyết định trên lư trí một
khi ư chí chọn một phán đoán nào đó như
điều nó muốn... Như vậy, một người
có thể tin ai về điều ǵ đó khi họ thấy
nơi điều đó có những ích lợi[55].
Phải chăng
có một trục trặc nào đó khi khẳng định:
“dưới tác động của ư chí, lư trí thuận t́nh
dù không hiển nhiên”, và “ư chí là khuynh chiều theo lư trí”? Phải
chăng chúng ta đang ở trong ṿng luẩn quẩn:
một đàng khẳng định lư trí thuận t́nh v́ ư
chí tác động, và mặt khác khẳng định ư chí là
ư chí tự do thực sự khi tuân theo lư trí?
Chúng ta không ở
trong ṿng luẩn quẩn. Lư trí có
thể biết Thiên Chúa hiện hữu, và hơn nữa
chúng ta có thể nói, lư trí biết
Thiên Chúa hiện hữu. Tuy vậy, cái biết này là tri
thức không thể chứng minh được, bởi
lẽ không thể nại vào bất kỳ một tri
thức nào khác để chứng minh, v́ những tri
thức khác đều “ở dưới” tri thức này,
nếu nó được chứng minh th́ giá trị của
nó chỉ ngang bằng hoặc thấp hơn cái biết
được dùng làm tiêu chuẩn để chứng minh.
Tuy không được chứng minh, nhưng cái biết này
không thể được hiểu là cái biết “có thể
sai” hoặc “không đáng tin” với lập luận rằng
nó không được chứng minh, v́ đây là tri thức
uyên nguyên, cơ bản[56].
Như vậy, không có ǵ mâu thuẫn trong khẳng
định lư trí thuận t́nh
v́ ư chí đă chọn, và ư
chí tự do đích thực tuân theo lư trí.
Tin Thiên Chúa
(hiện hữu) là tri thức “không thể chứng minh”, nó
không buộc con người phải chấp nhận như
tri thức toán học 2+2=4; con người tự do chấp nhận tri thức này hay không!
“Thiên Chúa hiện hữu” là tri thức tự do, và là tri
thức làm con người tự do đích thực nếu
con người chấp nhận tri thức này. Con người
có thể không chấp nhận tri thức này, và lúc đó ư
chí con người là ư chí không tự do đích thực dù ư chí
vẫn luôn là ư chí tự do. Không có sự can thiệp
của ư chí, con người không buộc phải chấp nhận tri thức này, v́
tri thức “Thiên Chúa hiện hữu” này không buộc con
người phải chấp nhận hiểu như tri
thức được
chứng minh[57].
Con người
với ư chí tự do, có thể chọn thoả măn khoái
lạc xác thịt; và con người có thể dùng lư trí
để biện minh cho chọn lựa của ḿnh. Dù con
người dùng lư trí để biện minh cho chọn
lựa nghiêng chiều về thoả măn xác thịt,
nhưng như vậy không có nghĩa là con người theo
những ǵ lư trí lănh hội. Lư trí ở đây không
được dùng để tri thức nhưng để
biện minh cho chọn lựa của con người.
Với những người này, tri thức “Thiên Chúa
hiện hữu” khó có thể được chấp
nhận, và họ đ̣i “cần phải được
chứng minh”.
Không chỉ
những người chọn thỏa măn khoái lạc xác
thịt mới khó chấp nhận tri thức “Thiên Chúa
hiện hữu”, mà cả những người đề
cao ḿnh qúa độ cũng khó chấp nhận “Thiên Chúa
hiện hữu”. Những người này muốn coi họ
là trung tâm của tất cả, là tiêu chuẩn để
phán đoán, v.v... Đây là những người “rất yêu ḿnh”
nên rất dễ tự ái. Họ đă chọn họ, nên
khó chấp nhận một tha thể trổi vượt
hơn họ, dù là Thiên Chúa[58].
“Tin Thiên Chúa
hiện hữu” là tri thức tự do, nghĩa là, chủ
thể chấp nhận tri thức này theo sự lựa
chọn của ư chí. Nhưng chúng ta có thể đặt câu
hỏi: tại sao chủ thể lại chọn theo khuynh
chiều lư trí? tại sao chủ thể lại theo ư chí?
Con người là
tinh thần nhập thể. Chúng ta nhận thấy nơi
ḿnh có nghiêng chiều, t́m thỏa măn xác thịt hoặc t́m
đề cao chính ḿnh; và một nghiêng chiều khác gọi
là ư chí, t́m theo những ǵ lư trí thấy là tốt đẹp
thiện hảo[59].
Con người
tự do, nghĩa là, con người có thể chọn
thỏa măn dục vọng nơi ḿnh, hoặc có thể
chọn danh vọng đề cao chính ḿnh, hoặc có
thể làm theo điều lư trí thấy là tốt lành
thiện hảo.
Tôi tự do, tôi có
thể theo dục vọng, danh vọng hoặc ư chí.
Thế nhưng tại sao tôi lại làm theo khuynh chiều
này mà không làm theo khuynh chiều kia?
Tại sao “sự
lành tôi muốn, tôi lại không làm; c̣n điều xấu tôi
không muốn, tôi lại làm” (Rm.7,19)? Tại sao điều
tôi biết là đúng tôi lại không làm, mà lại làm
điều tôi cho là không đúng không tốt?
Để làm
điều lành tôi muốn[60]
(tôi biết là đúng và nên làm), để “tri hành hiệp
nhất”, cần ân sủng. Để tin Thiên Chúa hiện
hữu, cũng cần ân sủng của Thiên Chúa.
Ân sủng ở
đây được hiểu là ơn ban cho con
người, giúp người đó biết đúng và làm
theo điều họ biết là đúng, giúp người
đó không làm theo dục vọng hay danh vọng nhưng theo
điều lư trí thấy là đúng là tốt (ư chí). Nếu
người đó làm theo lư trí (thấy đúng thấy
tốt), người đó sống tự do thực sự
chứ không chỉ là tự do
chọn theo nghiêng chiều này hay nghiêng chiều kia.
Ân sủng là
sự lôi kéo, thúc đẩy tận thâm sâu con người[61].
Ân sủng tác động vào cả lư trí lẫn ư chí con
người, khiến con người ưng thuận[62].
Ân sủng ở đây không chỉ được hiểu
đơn thuần là ước vọng tự nhiên[63]
của lư trí đă được ban cho con người khi
tạo dựng, nhưng chủ yếu là sự thúc
đẩy[64], là
sự lôi kéo[65] trong
thời điểm hiện tại, để con
người tin Thiên Chúa và thực hành điều tốt
lành như lư trí nhận thấy.
Ân sủng tác
động trên ư chí[66],
lôi kéo thúc đẩy con tim[67]
để con người tin vào Thiên Chúa. Con người tin
Thiên Chúa, không phải v́ ân sủng làm cho lư trí thấy
điều ḿnh tin là hiển
nhiên, nhưng ân sủng làm cho con người ưng
thuận theo điều lư trí nhận thấy là đúng (ư
chí)[68].
HOME THẦN HỌC
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN SSNBT1 SSNBT2 SSNBT3 SSNBT4 SSNBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] V́ như vậy, chúng ta sẽ rơi vào trường hợp bị các người chủ trương hoài nghi bài bác:
· Dựa vào tiêu chuẩn nào để chứng minh?
· Tiêu chuẩn dùng để chứng minh đó, đă được chứng minh chưa? Nếu chưa, th́ phải chăng ḿnh dựa vào điều chưa chắc chắn để chứng minh? C̣n nếu tiêu chuẩn đó đă được chứng minh, th́ điều ḿnh tin đó không phải là điều phải tin thực (v́ nó được chứng minh).
[2] Cũng tương tự như trước khi người ta chứng minh một định luật, người ta dùng phương pháp quy nạp để khám phá và phát biểu định luật đó.
[3] Fides qua.
[4] H. KUENG, op. cit., p. 645 trích dẫn
P. BERGER, La rumeur de Dieu, signes actuels du surnaturel, PARIS-CENTURION 1972,
p. 87: “chercher à mettre en lumière ce que l’on pourrait appeler les indices de transcendance au sein même de la situation humaine empirique, telle qu’elle nous est donnée. J’estime par ailleurs que certains gestes humaines exemplaires peuvent représenter de tels indices”;
p. 88: “La foi en un ordre est étroitement liée à la confiance fondamentale de l’homme en la réalité”.
R. AUBERT, op.cit., p. 494: “Ces signes dans lesquels se manifeste le surnaturel et qui sont des signes d’amour, ne sont pas seulement des marques de l’intérêt de Dieu pour l’humanité en général; ils guarantissent les intermédiaires de la révélation, les prophètes, Jésus Christ et, aujourd’hui, l’Eglise”.
[5] Bí tích là dấu chỉ hữu h́nh ban ơn thiêng liêng ex opere operato, thế nhưng ơn thiêng liêng mà bí tích ban, người ta không thể kiểm nghiệm được.
[6] thực hiện hành vi siêu vượt.
[7] “Fallor ergo sum” của thánh Augustin; c̣n “Cogito ergo sum” của Descartes.
[8] H.U.VON BALTHASAR, La Gloire et la Croix, Les aspects esthétique de la révélation, I: Apparition
Trd. ROBERT GIVORD, AUBIER 1965, pp.380-381:
“Le mystère de l’être, qui est manifeste, invite la créature spirituelle à sortir d’elle-même, pour se confier et se livrer, au-delà d’elle-même, au mystère; S’il n’en est pas ainsi, l’intuition de l’être (dans les premiers principes, théoriques ou pratiques) ne serait rien d’autre que le fait de saisir l’être fini et créé sans le rapporter à l’absolu, ce qui à tous égards serait absurde et contradictoire ...
Il faut donc que l’évidence elle-même dessine en elle l’analogia entis, ce qui ne veut pas dire que celle-ci puisse être dominée par l’esprit fini, qui mesurerait en lui-même la relation de l’être fini à l’infini, mais au contraire qu’il s’y voit renvoyé au-delà de lui (qui, même en tant qu’esprit, est un être fini) à ce qui ne peut être “donné” à son évidence que sous le mode de la non-évidence. Il s’éprouve donc comme saisi et pris en charge, il éprouve sa dépendance pure et simple, sans pouvoir saisir ce dont il dépend; Il expérimente que sa petite pensée est inclue dans une pensée infinie qui le dépasse tout ainsi infiniment ...”
[9] J. TRUETSCH, art. "La Foi", trong MYSTERIUM SALUTIS IV, CERF 1969, p. 128:
“Cette relation immédiate avec Dieu, veritas prima, se “médiatise” ici-bas sous différents rapports, se transpose, s’interprète, s’incarne dans des réalités appartenant au monde”.
[10] Trong ư nghĩa này, tạo thành được coi là mặc khải tự nhiên.
[11] H.KUENG, op.cit.,p. 651:
Gottfried Wilhelm Leibniz:
"pourquoi il y a plutôt quelque chose que rien?”
Martin Heidegger:
"pourquoi y-a-t-il de l'étant et non pas plutôt rien?".
[12] R. PANIKKAR, art. "La Foi, dimension constitutive de l'homme", trong MYTHE ET FOI, ed. ENRICO CASTELLI, AUBIER 1966, p. 39:
"L'essence de foi nous semble se trouver plutôt dans la question que dans la réponse, plutôt dans l'attitude inquisitive, plutôt dans le désir que dans la réponse concrète qu'on lui donne. La foi est plutôt le contenant existentiel que le contenu intellectuel de CETTE CHOSE que nous entendons décrire. Elle est non seulement en ceux qui donnent une réponse correcte, mais aussi en tous ceux qui authentiquement cherchent, désirent, aiment, veulent ... en ceux qui sont de "bonne volonté"".
[13] R. PANIKKAR, art.cit., p. 58 (phần thảo luận):
"... j'ai essayé de décrire la foi comme ouverture existentielle à la trancendance, car c'est par elle que l'homme est en relation avec un principe qui le dépasse".
Theo R. Panikkar,
"khai mở là tin, c̣n trả lời tích cực là hành vi tin" (L'ouverture est la foi, la réponse positive est l'acte de foi [Ibid.,p. 60]);
"Cái cứu (con người), là hành vi tin" (Ce qui sauve c'est l'acte de foi, selon la terminologie chrétienne [Ibidem]);
"Je répondrai sans hésiter qu'elle (foi comme orthopraxis) appartient à l'ordre de l'être, et pour cette raison je ne conçois pas la foi primordialement comme un choix, mais plutôt comme une ouverture qui signifie actualisation des possibilités, même de la potentia oboedientialis" (Ibid.,p.59).
Tuy Panikkar bảo vệ lập trường cho rằng: "tin là khai mở hiện sinh, là vấn nạn sống c̣n; hành vi tin là câu trả lời cũng hiện sinh không kém", tuy nhiên Panikkar cũng không phủ nhận chiều kích tri thức và ư chí của hành vi tin (Ibid.,p.39: Si la foi est une ouverture existentielle, c'est-à-dire, une question vitale, l'acte de foi est une une réponse également existentielle, toutefois il appartient à la perfection de l'acte de fois de posséder aussi une dimension intellectuelle et un aspect volitif).
Nếu như R.Panikkar chủ trương tin là sự khai mở, hành vi tin là lời đáp trả, và hành vi tin bao hàm khía cạnh tri thức (nội dung tin), th́ tin xét như khai mở (ouverture, potentia oboedientialis) có nơi mọi người, ngay cả nơi những người không đáp trả tích cực (Ibid.,p. 40); Vậy khi nói: "được cứu độ nhờ tin", phải hàm chứa rằng: tin ở đây được hiểu như hành vi tin, chứ không được hiểu như khả năng khai mở hoặc khả năng đáp trả.
(Cf. R. PANIKKAR, art.cit., p. 60.39)
[14] R. AUBERT, Le problème de l'acte de foi, LOUVAIN 1945, p. 493.
[15] H.U.V. BALTHASAR, op.cit., p. 174:
"Comme signe du Dieu vivant, le miracle a toujours un sens spirituel et divin, tandis que, considéré uniquement dans son caractẽre extraordinaire purement matériel, il renvoie tout au plus à des causes cachées préternaturelles".
"La véritable miracle est toujours signe d'effet surnaturel et d'attestation de Dieu par lui-même" (VAN HOUE, La doctrine du miracle chez saint Thomas, ? 1927, pp. 132-133).
[16] R. AUBERT, op.cit., p. 63-64.
Thực ra, để chấp nhận phép lạ, người ta cũng phải tin, bởi v́ phép lạ không là một sự kiện tự nhiên do người ta muốn tái diễn lúc nào tùy ư; để tin vào phép lạ, người ta phải tin vào lời người làm chứng.
Phép lạ cũng không là điều kiện cần, và cũng không là điều kiện đủ, để tin. Xem thêm:
R. AUBERT, op.cit., p. 65
ST. THOMAS, S.T., IIa IIae, q. 2, a. 9, ad 3
[17] Chẳng hạn như tri thức khoa học thực nghiệm.
[18] Như khoa thần học.
[19] R. AUBERT, op. cit., p. 412:
“Mais ó chercher alors la distinction entre foi naturelle et surnaturelle? Non pas dans l’objet mais dans le sujet, répond le P. Hilaire ...
La foi naturelle est une adhésion absolue, mais de simple constation, donnée par l’esprit obligé de connaỵtre que les motifs de crédibilité prouvent avec une évidence absolue les vérités de la doctrine chrétienne.
Dans la foi naturelle, par contre, le sujet accorde librement à la même vérité une adhésion qui importe une orientation, au moins inchoative, de tout son être. C’est le tendere in Deum dont parle S. Bonaventure.
La grâce de foi doit produire dans l’âme humaine le déplacement du centre de gravité, qui l’amènera à s’intéresser à un Bien dépassent infiniment celui que lui révèlent ses puissances naturelles. Or, dans ce changement d’attitude, les dispositions subjectives ont une part importante; c’est à ce moment là que peut jouer l’apologétique subjective. Non pour remplacer l’apologétique scientifique, mais pour la compléter, en s’appuyant sur elle comme un édifice se construit sur le sol qui lui sert de fondement”.
[20] Philosophie de Dieu hay Théologie naturelle.
[21] Apologie
[22] DS.3004: “Eadem sancra mater Ecclesia tenet et docet, Deum, rerum omnium principium et finem, naturali humanae rationis lumine e rebus creatis certo cognosci posse”.
[23] Khi nói lư trí con người có thể biết Thiên Chúa hiện hữu, điều này không hề phủ nhận ân sủng, v́ tạo dựng đă là ân sủng, tạo vật cũng là ân sủng, và lư trí cũng là ân sủng!
Ân sủng được ban lúc tạo dựng, phải chăng là ân sủng “tự nhiên”?
[24] “Ơn soi sáng” là từ ngữ được thánh Augustin dùng.
Xem thêm R. JOLIVET, Dieu, Soleil des esprits
La doctrine augustinienne de l'illumination
DDB et Cie 1934, pp.156-157
[25] R. AUBERT, op. cit., p. 464
[26] R. AUBERT, op. cit., p. 464-465:
“Pour apercevoir la valeur des indices, dans le cas de la révélation surnaturelle, il faut une puissance de synthèse surnaturelle. Dès lors, une démonstration naturelle de la crédibilité est impossible et, avec elle, disparait la possibilité d’une loi naturelle ou scientifique. Ce n’est donc pas seulement dans le cas des simples, mais toujours, que la foi, pour être raisonnable, exige l’intervention de la grâce”.
[27] R. AUBERT, op. cit., p. 480
[28] R. AUBERT, op. cit., p. 508
[29] R. AUBERT, op. cit., p. 498:
“Rousselot prétendait retrouver chez le docteur angélique ... en particulier l’impossibilité d’une connaissance naturelle de la révélation ... D’autres, plus modérés, tel l’abbé Ligeard, concédaient que st. Thomas n’admet pas la possibilité, pour l’homme, de croire de foi naturelle aux vérités surnaturelles; mais ils maintenaient qu’il affirme cependant la possibilité d’une évidence naturelle de la credibilité”.
[30] R. AUBERT, op. cit., p. 499:
“Selon st. Thomas, la raison naturelle pourrait arriver à une certitude probable ou morale du fait de la révélation, excluant tout doute raisonnable, mais non pas à l’évidence de ce fait (P. Lang).
Rousselot considérait que jamais la raison laissée à elle-même ne serait capable d’écarter tout doute raisonnable”.
Có người không đồng ư với lập trường của Rousselot c̣n đặt vấn đề: “Lập trường của Rousselot liệu có trái với giáo thuyết của Giáo Hội không?”. Xem them R. AUBERT, op. cit., p. 502-503
[31] Ân sủng chính là t́nh yêu.
[32] “Tự nhiên” ở đây cũng đă được thấm nhập ân sủng rồi, và không thể tách “tự nhiên” khỏi “ân sủng”.
[33] S. THOMAE, S.T. I , q.1, a.1: “Homo ordinatur ad Deum ...”
[34] Không thể quan niệm “tự nhiên” là Thiên Chúa không quan pḥng, nghĩa là, Thiên Chúa tạo dựng con người rồi để con người và tạo vật độc lập với Người.
Thiên Chúa đă tạo dựng vũ trụ và con người và Ngài c̣n đang tiếp tục tạo dựng vũ trụ và con người. Không thể có tự nhiên “độc lập” với Thiên Chúa, tách rời Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa.
R. AUBERT, op. cit., p. 497 note 52:
“S’il existe un désir naturel de la vision béatifique, donc du surnaturel, la grâce est inutile pour créer ce désir et, sans doute aussi, pour le constater. Mais ce désir naturel n’est pas admis par tous les théologiens et beaucoup de ceux qui l’admettent estiment que cette orientation de la nature n’est pas consciement expérimentée”.
[35] RAYMOND PANIKKAR, art. cit., pp.37-38:
“Avant tout, l’homme est un être de désir.... Il y a, en effet, dans l’homme un mouvement connaturel vers un “plus encore”, vers quelque chose de distinct de lui, qui puisse le compléter et satisfaire sa soif incessante de transcendance d’aller toujours plus ultra, de ne jamais s’arrêter, de se dépasser toujours”..... “Le désir ne nous pousse pas seulement à le satisfaire, mais aussi à chercher le désiré, et à poursuivre sans cesse la recherche même si le premier objet a été atteint... La recherche est constitutive de l’homme, qu’on appelle Dieu, Homme, Vérité, Bien, Plaisir, Vie ou Néant le but de ce désir”.
Dieu est, anthropologiquement parlant, l’objet, le terme ultime du désir”.
Cf. S. AUGUSTINUS, Sol.I, 1, 2 PL.32, 869: Deus, quem amat omne quod potest amare, sive sciens sive nesciens.
“L’homme cherche ce qu’il n’a pas, ce qu’il n’est pas; Il cherche toujours son Dieu”.
(Cf. S. THOMAE, Contra Gent. III, 19: Omnia igitur appetunt quasi ultimum finem Deo assimilari).
[36] S. AUGUSTINUS, Confess., l.I, c.1, 1
[37] Thời gian trước khi trở lại, thánh Augustin đă chịu ảnh hưởng của Platon với thuyết “nhớ lại” (réminiscence, hồi tưởng), cho rằng con người sở hữu mọi tri thức ngay từ lúc mới sanh, ngay từ khi linh hồn được phú bẩm vào thân xác (R. JOLIVET, op. cit., pp. 111-112. 114).
Nhưng sau khi trở lại, thánh nhân đă sửa đổi quan niệm trên bằng “ơn soi sáng”, cho rằng con người sở hữu tri thức “vĩnh cửu” nhờ tiếp xúc liên tục với Thiên Chúa qua từng hành vi của lư trí (R. JOLIVET, op. cit., p. 114).
Quan niệm về ơn soi sáng xuất hiện trong các tác phẩm Contra Academicos (III, c. VI, n.13, t.I, col. 467a: Etenim lumen aliquod aisti solum posse ostendere homini quid sit verum, tum breviter, tum etiam pie), trong De Vita beata viết vào cuối năm 386 (c.IV, n.35, t.I, col. 519b), trong Soliloques viết vào năm 387 (I, c.1, n.3, col. 599c: Deus intelligibilis lux, in quo et a quo et per quem intelligibiliter lucent omnia. Ergo et illa quae in disciplinis traduntur... credendum est ea non posse intelligi, nisi ab eo (Deo) quasi suo sole illustrentur), trong De immortalitate animae viết vào năm 387 ngay sau Soliloques, và nhất là trong De magistro viết vào năm 389 (c.XI, n. 38, t.I, col. 916a).
Cf. R. JOLIVET, op. cit., pp. 44-45.
[38] R. JOLIVET, op. cit., p. 149 note 1:
“Il vaut mieux penser que la nature de l’âme intellectuelle a été créée de telle sorte qu’elle connaisse la vérité par une disposition naturelle, conformément à la volonté du Christ” (AUG., De Trinitate, XII, c.XV, n. 24, t. 8, col. 1403a: Sed potius credendum est mentis intellectualis conditam esse naturam, ut rebus intelligibilibus naturali ordine, disponente Conditore, sic ista vident).
R. JOLIVET, op. cit., p. 189:
“Pour saint Augustin, la lumière spéciale de l’illumination est aussi bien une lumière naturelle, en tant que l’âme est ordonnée par nature à la recevoir (Cf. De lib. arbit., III, c. V, n. 13, t.I, col. 1001c). Mais cela n’empêche pas d’être une lumière spéciale, distincte de la lumière propre de l’intelligence”.
[39] R. JOLIVET, op. cit., p. 156 note 1:
AUG., In Joan. Evang., tract. XV, n.19, t.3, col. 1858b: “Sic anima quiddam est quod intellectus vocatur. Hoc ipsum quod intellectus et mens dicitur, illuminatur luce superiore. Jam superior illa lux, qua mens humana illuminatur, Deus est” (Il y a dans notre âme une faculté que l’on l’appelle intellect. Cette faculté de l’âme, nommée intellect ou esprit, est illuminé par une lumière supérieure, et cette lumière supérieure à l’âme, par laquelle l’esprit humain est illuminé, c’est Dieu).
[40] R. JOLIVET, op. cit., p. 157
Cf. AUG., In Joan. Evang., tract. XXXV, n.3, col. 2045d
[41] R. JOLIVET, op. cit., p. 80:
“St. Thomas cite un texte de saint Augustin, sur lequel nous aurons à revenir, tiré du De Trinitate, et ajoute: Cette lumière, en laquelle notre esprit connait, c’est l’intellect agent” (Lux autem ista qua mens nostra intelligit, est intellectus agens).
AUG., De Trinitate, XII, c. XV, n. 24, t.8, col. 1403a
[42] R. JOLIVET, op. cit., p. 190:
“Lorsque saint Thomas déclare que cette lumière, en laquelle nous connaissons la vérité, l’âme la possède, non par elle-même, mais en elle-même, il use la même formule que saint Augustin.
Pour saint Thomas, dire que l’âme possède en elle-même la règle infaillible de la vérité, c’est dire que cette règle ne fait qu’un avec intelligence et qu’elle la constitue intrinsèquement, tandis que, chez saint Augustin, cela ne signifie qu’une réception en l’âme d’une lumière.
[43] Con người được hạnh phúc trọn vẹn khi biết ḿnh đang hạnh phúc, đang được yêu.
[44] Cả hai đều là tri thức, v́ đều là phán đoán.
[45] AUG., De Praedest. sanctorum, cap. 2, 5 PL. 44, 963:
“Credere est cum assensione cogitare”
Cf. M. D. CHENU, op. cit., p. 97
Thánh Augustin nhấn mạnh khía cạnh thuộc lư trí: “nullus quippe credit aliquid nisi prius cogitaverit esse credendum” ( AUG., De Praedest. sanctorum, cap. 2, 5 PL. 44, 962s).
Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p.47
H. KUENG, op. cit., p.590
Nhưng theo thánh Albert Cả, thánh Augustin c̣n nhấn mạnh cả khía cạnh ư muốn (thuận ḷng) nữa: “... In theogicis autem fides lumen est, certissimam faciens adhaesionem et assensum; dict enim Augustinus quod credere est cum cogitatione et admiratione assentire” (ALBERT LE GRAND, Sum. Theol., Ia pars, t.3, q.15, m.3, a. 1, ad 3)
Cf. M. D. CHENU, op. cit., p. 103
[46] ALBERT LE GRAND, In III Sent., d. 23, a. 8, ad 1: “Credere est essentialiter in assensu. Tamen per accidens, in quantum nutritur et fovetur et manuducitur, habet se ad cognitivam virtutem inquirentem de credito... non qua certificetur, sed in qua jucunditur et admiretur”.
Cf. M. D. CHENU, op. cit., p. 97: “Le credere, essentiellement, c’est l’assensus; La cogitatio ne lui appartient que per accidens”.
[47] Ibidem
[48] “Sed in fide est assensus et cogitatio quasi ex aequo”
Cf. M. D. CHENU, op. cit., p. 98
[49] ST. THOMAS, De Ver., q. 14, a. 1, corp. ante finem: “Non enim assensus ex cogitatione causatur, sed ex voluntate”.
Cf. M. D. CHENU, op. cit., p. 98
[50] ST. THOMAS, S. T., IIa IIae, q. 1, a. 4: “L’intelligence peut adhérer à quelque chose sans y ête pleinement portée par son objet propre, mais en s’attachant volontairement, par un choix, à un parti plutôt qu’à un autre”.
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 54
[51] M. D. CHENU, op. cit., p. 93: “Le credere, adhésion volontaire, n’est pas une opinion renforcée, et toutes les “rationes” qu’on pourra lui ajouter (nous dirions aujourd’hui les motifs de crédibilité) ne l’engageront nullement dans la voie de la science; son mobile déterminant sera le désir de la vie éternelle encore absente, et son motif formel l’autorité de Celui qui nous renseigne sur ces biens mystérieux”.
R. AUBERT, op. cit., p. 58: “C’est donc le désir de la fin dernière surnaturelle qui constitue pour st. Thomas le mobile de l’acte de foi”.
“Ce désisr n’implique pas nécessairement que la volonté soit sous l’influence de la charité mais il ne s’expliquerait cependant pas sans une élévation surnaturelle des facultés humaines, car un être ne tend efficacement vers une fin que s’il expérimente déjà quelque chose de la bonté de celle-ci d’une manière inchoative; il faut donc, pourque l’homme agisse en vue de la béatitude surnaturelle, qu’un avant-goût lui en soit infusé par Dieu”.
[52] ST. THOMAS, S.c.G., III, c.40: “In cognitione autem fidei, principalitatem habet voluntas: intellectus enim assendit per fidem his quae sibi proponunturd quia vult, non autem ex ipsa veritatis evidentia necessario tractus”.
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 55: “ L’acte de foi est ainsi un assentiment ó l’intelligence, telle une captive, s’incline devant les ordres de la volonté”.
[53] Và điều này hiện hữu bẩm sinh nơi con người, v́ con người đă được tạo dựng để hướng về Thiên Chúa “homo ordinatur ad Deum” ( ST. THOMAS, S.T., I, q.1, a.1).
E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 227: “Pour st. Thomas, nous n’avons aucun concept de Dieu, mais uniquement des concepts créés que nous n’appliquons pas à Dieu mais à travers lesquels nous tendons vers Dieu, sans pouvoir le saisir conceptuellement”.
R. AUBERT, op. cit., pp. 57-58 và ghi chú 32: “La décision de la volonté... s’enracine dans un appetit beaucoup plus foncier, dans le désir qu’a l’homme de s’approprier les promesses divines, quidam appetitus Boni repromissi,...
C’est parce que la foi apparaỵt comme le moyen d’arriver à la béatitude finale que la volonté qui aspire à la posséder, fait pression sur l’intelligence et entraỵne son assentiment”.
Cf. ST. THOMAS, De Ver., q. 14, a. 1, ad 10m
ST. THOMAS, III Sent., d. 23, q. 2, a. 5,
ad 4m: “Cum alicui proponuntur bona aeterna, primo vult ea, et secundo eis inhaerere vult per amorem, et tertio vult sperare ea, et quarto vult credere ea ut credens possit jam sperare et amare et hahere”.
ad 5m: “Quamvis fides praesupponat voluntatem, non tamen praesupponit voluntatem jam amantem sed amare intendentem... Unde iste est naturalis ordo actuum quod prius apprehenditur Deus, quod pertinet ad cognitionem praecedentem fidem, deinde aliquis vult ad eum pervenire, deinde amare vult et sic deinceps ut prius dictum est”.
[54] Cf. ST. THOMAS, In Aristotelis Librum De Anima Commentarium, L.II, l. V, n. 288: “Tertium autem est voluntas, quod est appetitus intellectivus, consequens scilicet apprehensionem intellectus”
(Ed. Marietti 1959, p. 75).
[55] ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 5, a. 2
ST. THOMAS, De Ver., q. 14, a. 1: “La volonté peut déterminer l’intelligence en choisissant comme objet d’adhésion tel jugement déterminément et précisément pour un motif d’ordre volontaire et non point intellectuel, à savoir la bonté ou la convenance de la dite adhésion. C’est ainsi par exemple qu’un homme en croit un autre parce qu’il y voit quelque décence ou quelque utilité.
Nous aussi, chrétiens, nous sommes portés à croire le message révélé parce que nous est promise, si nous croyons, la récompense de la vie éternelle; C’est l’attrait de cette récompense qui porte la volonté à l’assentiment de foi malgré l’absence de motifs intellectuels”. Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 57.
ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 5, a. 2: “Que la volonté porte ainsi l’intelligence à donner son assentiment, cela peut venir de de causes. Dans un cas, cela vient de ce que la volonté est tournée ver le bien qu’il y a dans la foi et alors croire est un acte louable. Dans un autre, cela vient de ce que l’intelligence est convaincue au point d’estimer qu’elle ne peut faire autrement que de croire à ce qui est dit, encore qu’elle ne soit pas convaincue par l’évidence de la chose. Par exemple, si un prophète prédise dans un discours inspiré par le Seigneur un évènement futur et s’il accompagnait cette annonce d’un signe tel que la résurrection d’un mort, l’intelligence des spectateurs retirerait de ce signe la conviction que la prédication vient de Dieu, qui ne ment pas”. Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 55-56.
[56] Không hiểu từ ngữ uyên nguyên, khởi đầu, cơ bản ở đây trong thời gian. Khi nói “ư chí là khuynh chiều nghiêng theo lư trí, tuân theo điều lư trí lănh hội là chân thiện mỹ”, chúng ta phải hiểu lư trí ở đây là tri thức nguyên khởi không được chứng minh.
[57] J. TRUETSCH, art. cit., p. 88:
“La décision de la volonté se règle d’après la saisie de la vérité par l’entendement... Quand il s’agit d’une connaissance qui met en jeu la liberté personnelle, cette saisie de la vérité est redevable de son existence à la libre décision de la volonté.
Plus la volonté désire se tenir grande ouverte à la réalité dans sa plénitude, plus elle est libre et dégagée de conditions contraires; La volonté ne fait pas preuve de liberté en asservissant l’entendement et en forçant ses limites, mais précisément en le liberant pour le rendre à sa propre nature. La volonté est véritablement libre quant elle dit oui, quand elle adhère à la réalité totale et plénière et donc à la réalité divine; L’entendement est vraiment libéré quand il a trouvé son “quodammodo omnia”, sa disponibilité à tout, au tout, donc au divin”.
Cf. U. BIANCHI góp ư cho R. PANIKKAR trong
R. PANIKKAR, art. cit., p. 47: “Je crois que la foi et l’acte de foi forcent l’homme à choisir, ou mieux: ils sont le choix. C’est à dire que la foi n’est pas implicite, constitutive, comme vous le dites; ou si elle l’est, elle l’est partiellement, mais pas essentiellement. Elle est quelque chose qui s’inscrit dans la transcendance, dans une rupture”.
[58] Và nếu họ có chấp nhận Thiên Chúa hiện hữu như ma qủy, th́ họ cũng phản loạn không vâng phục.
[59] AUGUSTINUS, De doctrina christiana, 3, 10, 16: “Caritatem voco motum animi ad fruendum Deo propter ipsum, et se atque proximo propter Deum; Cupiditatem autem motum animi ad fruendum se et proximo et quolibet corpore non propter Deum” (Trích bởi ROUET DE JOURNEL, Enchiridion Patristicum, HERDER 1965, n. 1586).
SANTI THOMAE AQUINATIS In Aristotelis Librum De Anima Commentarium, ed. MARIETTI 1959, n. 288 (L. II, l. V): “Si autem ibi sensitivum, oportet quod adsit tertium, scilicet appetitivum. Quod quidem dividitur in tria: scilicet desiderium, quod est secundum vim concupiscibilem; et iram, quae est secundum vim irascibilem: qui duo appetitus pertinent ad partem sensitivam: sequuntur enim apprehensionem sensus. Tertium autem est voluntas, quod est appetitus intellectivus, consequens scilicet apprehensionem intellectus”.
ST. THOMAS, S. T., I, q. 19, a. 1, corp.: “Respondeo dicendum in Deo voluntatem esse, sicut et in eo est intellectus: voluntas enim intellectum consequitur...
Unde in quolibet habente intellectum, est voluntas; sicut in quolibet habente sensum, est appetitus animalis. Et sic oportet in Deo esse voluntatem, cum sit in eo intellectus. Et sicut suum intelligere est suum esse, ita suum velle”.
[60] Ư chí là nghiêng chiều, theo lư trí (theo điều lư trí thấy là đúng là tốt).
[61] Yn. 6, 44: “Không ai có thể đến cùng Ta được, nếu Cha, Đấng đă sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”.
[62] ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae,
q. 2, a. 9: “Credere est actus intellectus assentientis veritati divinae ex imperio voluntatis a Deo motae per gratiam”.
q. 6, a. 1, ad 3m: “Oportet quod voluntas hominis praeparetur a Deo per gratiam ad hoc quod elevatur in ea quae sunt supra naturam”.
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 59 note 36
ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q.6, a. 1, ad 1m
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 257: “La cause déterminante de celui-ci est à chercher dans une motion spéciale de Dieu sur la volonté et l’intelligence du croyant: en dehors de la proposition extérieure de la révélation garantie par les miracles, “il faut la grâce, intérieurement communiquée, de l’adhésion consentie”, suivant la parole de st. Thomas: principalis et propria causa fidei est id quod interius movet ad assentiendum”.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thay đổi ư chí con người, làm cho ư chí con người trở nên mănh liệt, để con người nghiêng chiều về điều lư trí thấy đúng và tốt lành (ư chí):
“Causa fidei est illa quae facit credentem assentire his quae dicuntur”, nghĩa là Thiên Chúa “qui solam (sic! solus) voluntatem potest mutare; causat autem fidem in credente inclinando voluntatem et illustrando intellectum fidei ut non repugnet his quae a praedicatore proponuntur”.
R. AUBERT, op. cit., p. 50 note 15 trích dẫn ST. THOMAS, De Ver., q. 27, a. 3, ad 12m.
Nguyên nhân chính của đức tin là tác động thần linh (R. AUBERT, op. cit., p. 71: La vraie cause de la foi, c’est une action divine interne).
[63] H. U. VON BALTHASAR, La Gloire et la Croix, Les aspects esthétiques de la Révélation, Trad. ROBERT GIVORD, col. THÉOLOGIE 61, AUBIER 1965, p. 136: “La préponderance entitative de Dieu dans le coeur et l’esprit de l’homme empêche que la foi ne se définisse sur la base d’un desiderium naturale intellectus, d’un postulat de la raison, ce qui ferait que le divin serait “mesuré” à l’humain” (Cf. ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 7, a. 2, ad 2)
R. AUBERT, op. cit., pp. 485-486: “Le père Huby a montré, entre autres, comment, dans les écrits joanniques, la foi suppose, toujours, même chez le pécheur, un désir de la vie éternelle, qu’elle nous rend apte à goûter; comment elle est considérée “comme une attraction du Père, comme une motion de l’Esprit, ou encore un témoignage divin intérieur”; comment elle perfectionne l’intelligence en l’enrichissant d’une pénétration accrue, qui permet de saisir les indices les plus spirituels, mais sans laquelle on est comme un aveugle devant les prodiges les plus éclatants”.
[64] H. U. VON BALTHASAR, op. cit., p. 148: “Tout ce dynamisme ne peut jouer qu’au sein de l’orientation totale de l’homme vers Dieu, donc dans un ensemble existentiel qui met en jeu la raison tout autant que la volonté, la liberté et l’amour. C’est la grâce qui convertit l’homme à cette marche existentielle vers Dieu et l’en rend capable pour donner...”.
[65] R. AUBERT, op. cit., p. 66 và các ghi chú 64, 62:
“L’intérior instinctus suffit à fair savoir à l’homme qu’il doit croire, et que la prédication qu’il entend émane réellement de la Vérité divine elle-même”.
R. AUBERT trích dẫn thánh Thomas:
ST. THOMAS, Qdl. II, a. 6, ad 3m: “Dicendum quod interior instinctus quo Christus poterat se manifestare sine miraculis exterioribus pertinet ad virtutem Primae Veritatis quae interius hominem illuminat et docet”.
[66] S. THOMAE In Boethium de Trin., q. 3, a. 1, ad 4m: “Lumen fidei... non movet per viam intellectus sed magis per viam voluntatis”.
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 52: “Il n’entrâine pas l’assentiment en donnant l’évidence des vérités à croire; il y fait adhérer par un acquiescement de la volonté”.
[67] R. AUBERT, op. cit., p. 59: “Comme st. Thomas s’intéresse avant tout à la vertu de la foi (dont le siège formel est l’intelligence, puisque croire est un acte de connaissance), il parle moins souvent du rôle joué par la grâce directement sur la volonté; Mais par les quelques passages ó il la signale, on voit très bien l’importance qu’il lui accorde en fait: un attrait divin est indispensable qui travaille le coeur de l’homme et incite la volonté à donner à l’intelligence l’ordre de croire: instinctum divinae operationis moventis interius cor hominis ad credendum ( S. THOMAE, In Joan. VI, lect. 5, n. 3)”.
S. THOMAE, In Rom. VIII, lect. 6: “ Primum in quo incipit praedestinatio hominis impleri est vocatio hominis, quae quidem est duplex una exterior, quae fit ore praedicatoris... alia vero vocatio est interior, quae nihil aliud est quam quidem mentis instinctus, quo cor hominis movetur a Deo ad assentiendum his quae sunt fidei et virtutis... Et haec vocatio necessaria est quia cor nostrum non se converteret ad Dominum nisi ipse Deus nos ad se traheret”.
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 59 note 35.
R. AUBERT, op. cit., p. 58: “La foi est donc tout entière sous l’influence de la grâce, comme on le disait plus haut. Ce n’est pas seulement la vertu de foi, infusée dans l’âme du chrétien lors de son baptême, qui vient de Dieu, mais déjà les touches divines qui l’attirent à la foi et rendent celle-ci possible, “sed etiam interior instinctus ad credendum” ( S. THOMAE, In Joan. VI, lect. 4, n. 7)”.
S. THOMAE, In Joan. V, lect. 6, n. 8-9:
“Deus testificatur alicui dupliciter, scilicet sensibiliter et intelligibiliter... Intelligibiliter autem testificatur inspirando in cordibus aliquorum quod credere debent...”.
Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 66 note 64.
[68] S. THOMAE In Boethium de Trin., q. 3, a. 1, ad 4m:
“Lumen fidei ... non movet per viam intellectus sed magis per viam voluntatis”. Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 52.
R. AUBERT, op. cit., p. 59: “Un attrait divin est indispensable qui travaille le coeur de l’homme et incite la volonté à donner à l’intelligence l’ordre de croire: instinctus divinae operationis moventis interius cor hominis ad credendum” ( S. THOMAE, In Joan. VI, lect. 5, n. 3)”.
Thời đầu khi bàn về hành vi tin thánh Thomas nhấn mạnh đến lư trí, nhưng về sau thánh nhân nhấn mạnh đến ư chí nhiều hơn.