HOME THẦN HỌC SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN SSNBT1 SSNBT2 SSNBT3 SSNBT4 SSNBT5
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN
b).
Chắc chắn do uy quyền tuyệt đối
b).
Ân sủng tác động trên chủ thể tin
*** SỞ HỮU ĐỨC TIN
(HABITUS FIDEI)
PHẦN III: TIN LÀ ĐÁP TRẢ
MẶC KHẢI
Tin là phán đoán,
là ư kiến, là tri thức. Một phán đoán, một ư
kiến có thể đúng hoặc sai. Khi một chủ
thể tin có điều ǵ
hay tin ai đó, hàm chứa
chủ thể có sự chắc chắn nào đó xét về
phương diện tâm lư.
Với một
đối tượng có thể kiểm chứng thực
nghiệm, người ta có thể biết điều ḿnh
tin là đúng hoặc sai, nhưng không như
vậy đối với đối tượng không
thể kiểm chứng được. Với những người tin có Thiên Chúa và tin vào Thiên Chúa, họ chắc
chắn rằng điều họ tin là chân thực dù
đối tượng họ tin không thể kiểm
chứng thực nghiệm được. Sự chắc
chắn nơi những người tin có Thiên Chúa có nhiều cấp độ, có
thể c̣n có chút nghi ngờ nhưng cũng có thể có
sự chắc chắn tuyệt đối. Vậy do
đâu nơi họ có sự chắc chắn tuyệt
đối này, và tri thức bởi đức tin này là ǵ?
Không phải
mọi người đều thấy niềm tin “Thiên Chúa
hiện hữu” của tôi là chắc chắn, nhưng
chỉ có tôi và những người chia sẻ cùng niềm
tin với tôi mới thấy “Thiên Chúa hiện hữu” là
chắc chắn đúng. Với tôi, “Thiên Chúa hiện
hữu” là chân lư, là tri thức tuyệt đối chắc
chắn. Sự chắc chắn chỉ có nơi chủ
thể tin.
Thiên Chúa không là
đối tượng của khoa học thực
nghiệm. Nếu khoa học thực nghiệm đ̣i
kiểm chứng “Thiên Chúa”, th́ Thiên Chúa này chỉ là
đối tượng khả giác mà thôi, và không là Vị
Thiên Chúa thật mà tôi tin nữa. Tuy vậy nơi chủ
thể tin, sự chắc chắn “Thiên Chúa hiện hữu”
không chỉ bằng mà c̣n hơn sự chắc chắn
của một tri thức khoa học thực nghiệm[1].
Nếu một
người tin có Thiên Chúa,
và nếu niềm tin có Thiên
Chúa này chỉ là niềm tin vào
ḿnh, như ư kiến của ḿnh, th́ sự chắc
chắn của niềm tin này không tuyệt đối; c̣n
nếu niềm tin có Thiên Chúa hàm chứa niềm tin vào Thiên Chúa trước
niềm tin vào ḿnh, th́
sự chắc chắn nơi người tin Thiên Chúa
(hiện hữu) là tuyệt đối[2].
Sự chắc
chắn tâm lư nơi chủ thể tin có Thiên Chúa, trong
trường hợp tin có
Thiên Chúa hàm chứa trong tin vào
Thiên Chúa, không nằm trong tầm phê b́nh của Nietzsche,
bởi v́ lời phê b́nh của Nietzsche chỉ có giá trị
đối với niềm tin
có hàm chứa trong niềm tin
vào ḿnh[3].
Sự chắc chắn tâm lư tuyệt
đối nơi chủ
thể tin có Thiên Chúa, không chỉ đơn thuần là
loại bỏ những mâu thuẫn và tính bất khả
trên b́nh diện lư trí, nhưng c̣n là thấy đối
tượng tin “khả tín”, và nhất là thấy ḿnh
phải tin[4]. Nhưng
như vậy cũng chưa đủ, cần phải
được chủ thể ưng thuận điều
lư trí thấy. Nói bằng một ngôn từ khác,sự
chắc chắn nơi chủ thể tin Thiên Chúa hệ
tại nơi con tim nữa, chứ không chỉ nơi lư trí[5].
Chính nhờ ân
sủng tác động trên chủ thể, làm chủ
thể gắn bó, chấp nhận và yêu mến Thiên Chúa ngôi
vị; Và chính v́ yêu mến và chấp nhận Ngôi Vị
Tuyệt Đối này, mà chủ thể thấy
điều ḿnh tin là chắc chắn tuyệt đối.
Sự chắc chắn chủ thể tin có được,
không phải nhờ lư trí kiểm chứng một cách
thực nghiệm như một chân lư khoa học, nhưng
nhờ chủ thể chấp thuận theo ư chí[6].
Không ai không sai
lầm[7],
nhưng không phải lúc nào con người cũng sai
lầm!
Nếu chỉ là
do con người và tự sức ḿnh, và nếu khi giữa
con người với nhau cũng có những khẳng
định khác nhau, th́ làm sao một người dám chắc
chắn tuyệt đối rằng nhận thức
của ḿnh đúng? Sự chắc chắn tuyệt
đối chỉ có khi con người cậy dựa vào
một thực tại tuyệt đối mà thôi.
Sự chắc
chắn mà chủ thể tin
Thiên Chúa hiện hữu có, là tương đối,
nếu tin có Thiên Chúa
chỉ là tri thức hoàn toàn do lư trí con người.
Nhưng có sự chắc chắn tuyệt đối,
nếu tin có Thiên Chúa là tri
thức hàm chứa trong niềm tin
vào Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa, với t́nh yêu và ân sủng
của Ngài, làm chủ thể
tin có sự chắc chắn tuyệt đối.
Tin có cái ǵ, hàm chứa tin
vào ai. Nếu tin có cái ǵ chỉ là niềm tin vào ḿnh,
th́ phán đoán tin có này không
có sự chắc chắn tuyệt đối. C̣n nếu tin có này, không chỉ là tin vào ḿnh mà là tin vào Thiên Chúa nữa, th́ phán đoán tin có này có sự chắc
chắn tuyệt đối. Nói theo J. Truetsch, tôi tin Thiên Chúa
hiện hữu v́ tôi tin vào Thiên Chúa, và tôi tin vào Thiên Chúa v́
tôi tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa[8].
Nói theo hồng y Billot, “uy quyền của Thiên Chúa mặc
khải phải được nhận biết
trước đức tin, thực vậy, trong đức
tin, chỉ có sự ưng thuận với chân lư mặc
khải nhờ uy quyền của Thiên Chúa...[9]”.
C̣n nói theo hồng y Newman, các luận chứng hộ giáo,
kể cả phép lạ, cũng không có khả năng
thuyết phục tinh thần con người, và các
chứng cứ chỉ có giá trị đối với
người đă chấp nhận rằng có sự can
thiệp của Thiên Chúa trong thế giới, và sự
chấp nhận này đă là kết qủa của t́nh yêu[10].
Không chấp
nhận lập trường trên, có người chủ
trương rằng trong những vấn đề liên quan
đến đức tin, người ta phải giảm
thiểu tối đa việc quy chiếu vào uy quyền, và
phải can đảm viện vào lư trí với những phân
tích thuần lư để làm sáng tỏ về đức tin[11].
Bởi v́ lư trí con người có thể chứng minh theo
triết lư rằng Thiên Chúa là Chân Lư Tối Thượng, và
do đó, điều Ngài mặc khải là chân thực; Sau
đó có thể chứng minh theo lịch sử rằng
những chân lư này là mặc khải, bằng việc
nại vào các phép lạ chứng thực Thiên Chúa đă sai
gởi các sứ giả này; Như vậy kết luận
sẽ phải là: những chân lư này đáng được
tin, và rồi, những chân lư này phải được tin[12].
Những
người chủ trương đề cao lư trí phê b́nh
lập trường nại vào uy quyền Thiên Chúa trong
vấn đề đức tin: phải chăng đây là
ṿng luẩn quẩn? Tôi tin bởi v́ Thiên Chúa đă nói.
Nhưng làm sao tôi biết Thiên Chúa đă nói? V́ có những
dấu chỉ và những phép lạ! Nhưng những
dấu chỉ và những phép lạ này cũng có thể
cắt nghĩa theo một chiều hướng khác th́ sao?
Làm sao tôi dám chắc rằng những dấu chỉ hoặc
những phép lạ đó chỉ có ư nghĩa đó thôi?
Như vậy phải chăng rốt cuộc tôi cũng
phải tin rằng những dấu chỉ hay những phép
lạ này chỉ có nghĩa như điều tôi tin?
Phải chăng để tin Thiên Chúa, cần có các dấu
chỉ hay phép lạ; và để tin phép lạ hay dấu
chỉ này có nghĩa nhằm chỉ Thiên Chúa, th́ phải tin
là Thiên Chúa đă tạo ra các dấu chỉ và phép lạ[13]?
Và như vậy phải chăng tôi rơi vào lưỡng
luận: hoặc là tôi tin Thiên Chúa hiện hữu
trước mọi nhận thấy của lư trí, và hậu
qủa là tôi đă tin mù quáng; hoặc là tôi tin Thiên Chúa
hiện hữu hoàn toàn do lư luận, và hậu qủa là
không cần sự can thiệp của ư chí tự do
thuận t́nh[14]?
Chúng ta, những
người tin Thiên Chúa, không rơi vào thế lưỡng
luận của những người qúa đề cao lư trí
tŕnh bày ở trên, bởi v́
với chúng ta, tin không chỉ là hành vi lư trí nhưng c̣n là
hành vi tự do nữa, tin không
chỉ do lư trí nhận biết thuần lư nhưng c̣n là
sự thuận t́nh của con tim của ngôi vị nữa.
Chúng ta cũng không nằm trong ṿng luẩn quẩn, v́
đối với chúng ta, tin là tri thức tự do; Chúng ta
chắc chắn điều ḿnh biết là đúng cách
tuyệt đối không phải nhờ kiểm chứng
cách thực nghiệm như những tri thức thực
nghiệm, mà nhờ chúng ta ưng thuận với ư chí
(tức lư trí với chức năng là tri thức chứ
không phải là biện minh cho những chọn lựa
của con người, tức lư trí với hành vi tiên
khởi là thuận theo chân thiện mỹ). Ở b́nh
diện ưng thuận của ngôi vị theo ư chí này (khuynh
hướng tuân theo lư trí nhận thức chân thiện
mỹ), chúng ta không giải thích được sự
chắc chắn chủ thể tin có. Sự chắc
chắn tuyệt đối chủ thể tin Thiên Chúa
hiện hữu chỉ có thể lư giải được
nhờ uy quyền của Thiên Chúa. Như vậy chúng ta
thấy, để tri thức th́ không đ̣i biện minh,
nhưng để có sự chắc chắn “phản
tỉnh” th́ cần có sự minh giải. Nói như vậy
không phủ nhận sự kiện: dù không minh giải
được, chủ thể tin vẫn có thể có
sự chắc chắn tuyệt đối rằng
điều ḿnh tin là đúng.
Để có
sự chắc chắn tuyệt đối trong tri thức
về điều ǵ đó, và để có thể lư
giải điều đó được, để không
rơi vào chủ nghĩa duy hoài nghi hoặc hư vô, th́
chúng ta phải tin vào Thiên Chúa và con người. Nếu không tin vào Thiên Chúa th́
cũng không thể tin vào con người đích thực, và
nếu chúng ta không tin vào khả năng con người th́
chúng ta cũng khó (nếu không muốn nói là không) tin vào Thiên Chúa. Nếu không tin vào (khả năng)
con người, chúng ta rất dễ rơi vào thuyết duy
hoài nghi, và nếu không tin vào Thiên Chúa th́ chúng ta có thể
buông thả theo chủ thuyết hư vô!
Để có
thể lư giải hay biện minh điều ǵ, chúng ta
cần có một tiêu chuẩn để quy chiếu và lư
luận. Nếu chúng ta không chấp nhận có một tiêu
chuẩn, chúng ta sẽ rơi vào chủ thuyết duy hoài
nghi; V́ những người theo chủ thuyết duy hoài nghi
luôn phủ nhận mọi tiêu chuẩn mà những
người khác tựa vào để chứng minh[15].
Tiêu chuẩn để lư giải về đức tin
của chúng ta ở đây, là cả con người lẫn
Thiên Chúa; Chúng ta tin vào khả năng của con người
cũng như (uy quyền) Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là bảo
đảm cho nhận thức của con người, và
cũng nhờ lư trí mà con người nhận biết Thiên
Chúa. Tính khả tín của niềm tin khởi đầu
với lư trí con người, và con người chỉ có
sự chắc chắn tương đối về
niềm tin của ḿnh; Con người chỉ có sự
chắc chắn tuyệt đối về niềm tin “Thiên
Chúa hiện hữu” nhờ Thiên Chúa và uy quyền tuyệt
đối của Ngài, một khi con người ưng
thuận với tri thức không thể kiểm chứng
thực nghiệm này.
Chính nhờ ân
sủng mà ngôi vị chủ thể tin ưng thuận theo
lư trí tự do, theo khuynh chiều mà lư trí tự do đă
nhận thấy. Chính nhờ đó mà chủ thể tin có sự
chắc chắn tuyệt đối về điều ḿnh
tin.
T́nh yêu là tương
quan giữa hai ngôi vị. T́nh yêu được biểu
lộ cách cụ thể và khách quan, gọi là ân sủng hay
hồng ân...!
Tin là tri thức
tự do, là hành vi của lư trí và ư chí; nhưng nếu không
có ân sủng, người ta không thể lư giải tại
sao một người lại tin nhận Thiên Chúa với
sự chắc chắn tuyệt đối.
Thánh Augustin trong
những cuộc tranh luận với phái Pélage, khẳng
định: tin là quà tặng của ân sủng[16];
và trong cuộc tranh luận với phái Semi-pélagianisme Ngài nói:
khởi đầu hành vi tin cũng do ân sủng[17].
Tin là hành vi
của lư trí và ư chí tự do, nhưng có thể nói: tin
chủ yếu là ân sủng. Theo thánh Thomas, nguyên nhân đích
thực của đức tin chính là tác động của
Thiên Chúa trên con người[18].
Thánh Yoan ghi lại lời của Đức Yêsu: “không ai
đến được với Ta nếu không
được Cha Ta lôi kéo” (Yn. 6,44). Công đồng chung
Vatican I và các công đồng trước đó cũng có
cùng quan điểm này[19].
Ân sủng bao
phủ con người, thấm nhập con người
trong mỗi hành vi. Trong hành vi tin cũng vậy, tất
cả đều do ân sủng, thậm chí đức tin không
được biểu lộ bằng đức mến
cũng là hồng ân của Thiên Chúa[20];
và như vậy ngay cả đức tin của những
người lạc giáo và đức tin của ma qủy[21].
Ân sủng là t́nh
yêu của Thiên Chúa đối với con người. Thiên
Chúa đă tạo dựng con người, và tạo dựng
là ân sủng. T́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người không chỉ dừng lại nơi công cuộc
tạo dựng, Thiên Chúa vẫn tiếp tục quan pḥng và
nâng đỡ tạo thành, Thiên Chúa vẫn biểu lộ
t́nh thương đặc biệt của Ngài đối
với con người qua ân sủng mà Ngài ban cho họ. Ân
sủng của Thiên Chúa thấm nhập và tác động
trên lư trí con người, trên ư chí con người, và trên ngôi
vị xét như một thực thể duy nhất sở
hữu lư trí.
Con người là
tinh thần nhập thể. Như vậy chính qua vật
chất mà con người siêu vượt để gặp
gỡ ngôi vị. Tạm gác qua một bên ân sủng xét
như những dấu chỉ bên ngoài mà con người
cần có để siêu vượt, bây giờ chúng ta bàn
đến ân sủng tác động nơi con người
xét như chủ thể tin.
Ân sủng,
thực tại biểu lộ t́nh thương của Thiên
Chúa đối với con người, c̣n được
gọi là “sự thúc đẩy nội tâm” và “ánh sáng
đức tin”[22].
Ánh sáng đức
tin là ân sủng được phú ban cho con người[23],
giúp người tin có một “con mắt mới[24]”,
giúp họ nhận ra chứng từ của Thiên Chúa[25],
giúp con người phán đoán về tính khả tín[26],
và thấy ḿnh phải tin[27].
Như vậy
chúng ta thấy, ánh sáng
đức tin là một từ ngữ để chỉ
một thực tại được ban cho con
người, khi th́ tác động trên lư trí giúp con
người thấy điều ḿnh tin là chắc chắn
đúng[28], khi th́
tác động trên ư chí để chủ thể tin thuận ḷng[29],
nhưng thường được dùng để chỉ
thực tại tác động trên lư trí nhiều hơn[30].
Lư trí với ánh
sáng của ân sủng, nhận ra dễ dàng hơn thực
tại siêu việt; chẳng hạn khi nhận thức ḿnh
là thực thể hữu hạn, lư trí với ánh sáng của
ân sủng, nhận ra rằng có một thực tại siêu
việt là nền tảng của thực tại hữu
hạn là tôi. Chúng ta nói, với ánh sáng của ân sủng
chúng ta nhận ra thực tại siêu việt và những chân
lư vĩnh cửu dễ dàng
hơn, v́ với ân sủng “tự nhiên” của lư trí, con
người cũng có thể nhận ra thực tại siêu
việt. Đây chỉ là một phân biệt trên nguyên
tắc, v́ chúng ta không thể tách biệt thời
điểm của ân sủng “tự nhiên” và ân sủng “siêu
nhiên”, v́ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đă
tạo dựng để họ chia sẻ hạnh phúc
với Thiên Chúa: “Thiên Chúa muốn con người
được cứu độ và nhận biết chân lư”
(1Tm. 2, 4). Ân sủng và t́nh yêu, là tương quan của Thiên
Chúa đối với con người.
“Không ai có thể
nói Yêsu là Chúa mà không bởi Thánh Thần” (1Cor. 12, 3). “Không ai
có thể đến với Ta nếu không được
Cha Ta lôi kéo” (Yn. 6, 44). Nói
rộng hơn, để tin Thiên Chúa cần ân sủng
của Ngài. Ân sủng tác động trên ư chí con
người, tăng cường ước muốn
của con người.
Nơi con
người, không chỉ có khuynh chiều thỏa măn xác
thịt, mà c̣n có khuynh chiều thỏa măn t́nh cảm, và
khuynh chiều theo lư trí nữa[31].
Trong thực tế không phải tất cả những
điều chúng ta thấy đúng chúng ta đều làm theo,
“sự lành tôi muốn tôi lại không làm, c̣n việc xấu
tôi không muốn tôi lại làm” (Rm.7,19). Cho nên ân sủng của
Thiên Chúa củng cố và làm cho ư chí của chúng ta trở
nên mănh liệt so với các khuynh chiều khác nơi chúng ta.
Một số nhà
thần học và triết học c̣n nói đến
ước vọng “tự nhiên” (desiderium naturale) nơi con
người. Nếu có ước vọng “tự nhiên”,
liệu có cần sự trợ giúp của ân sủng?
Để trả lời, chúng ta nói: nếu ước
vọng “tự nhiên” này hiện hữu, th́ “ước
vọng tự nhiên” này cũng là ước vọng “siêu
nhiên” (desiderium surnaturale), hiểu theo nghĩa đă có sự
trợ giúp của ân sủng. Chúng ta không đồng ư tách
biệt “tự nhiên- ân sủng”, như thể có một
thời là tự nhiên, và sau đó mới là thời ân
sủng. Theo cách nh́n của chúng ta, không có “tự nhiên” nào mà
không có “ân sủng”! Tất cả được ân sủng
bao phủ và thấm nhiễm tận thâm sâu. Thiên Chúa
tạo dựng và Ngài luôn nâng đỡ quan pḥng tạo thành
bằng ân sủng của Ngài. Không thể tách biệt
“tự nhiên” ra khỏi “ân sủng”. Chúng ta chỉ có thể
phân biệt trên lư thuyết, nhằm để hiểu ân
sủng hơn mà thôi; chỉ trong nhăn quan này th́ việc phân
biệt mới có thể chấp nhận được.
Con người cảm thấy nơi ḿnh khuynh
chiều nhục dục nhằm thỏa măn xác thịt,
khuynh chiều t́nh dục nhằm thỏa măn cái tôi vị
kỷ thích được đề cao, và khuynh chiều
làm theo lư trí thấy đúng ( cũng chủ thể gọi
là ư dục hay ư chí). Nhưng con người tự do với những khuynh chiều này. Con
người có thể thuận
ḷng theo khuynh chiều này hoặc khuynh chiều kia. Tôi tự do.
Tôi, ở đây,
là thực thể duy nhất bất khả phân chia, là tinh
thần qua thân xác. Qua thân xác và thế giới vật
chất, tôi biết điều này điều kia; cũng
qua thế giới vật chất, tôi siêu vượt: tôi có
thể tin và gặp gỡ những ngôi vị khác.
Trong hành vi tin Thiên Chúa, ân sủng của
Thiên Chúa làm tôi thuận ḷng theo ư chí (khuynh chiều theo lư
trí). Ân sủng của Thiên Chúa không chỉ như ánh sáng soi
sáng, mà c̣n như ơn thúc đẩy và lôi kéo ư chí, và hơn
nữa, ân sủng tác động trên chính ngôi vị
để ngôi vị thuận
ḷng với ư chí.
Ư chí là khuynh
chiều theo lư trí, theo như lư trí thấy đâu là tốt
là phải làm. “Lư trí thấy đâu là thiện hảo”
được hiểu như lương tâm, lương
tri. Con người tuy nhận thấy tiếng lương
tâm dạy bảo phải làm điều này không
được làm điều kia, nhưng con người
vẫn tự do để làm theo tiếng lương tâm
mách bảo hay không! Cũng tương tự như vậy
chúng ta thấy chúng ta tự do đối với khuynh
chiều của xác thịt, của t́nh cảm, và cả
của lư trí nữa[32].
Tin là tri thức
tự do. Tin là hành vi chủ thể ưng thuận theo
điều lư trí nhận thấy. Tin là hành vi chủ
thể siêu vượt để gặp gỡ ngôi vị,
là gắn bó với ngôi vị, là t́nh yêu với ngôi vị
đó. T́nh yêu là tương
quan giữa hai ngôi vị theo lư trí. T́nh yêu là ưng thuận và chấp nhận ngôi vị
như ngôi vị đó là. Tin cũng là ưng thuận và
chấp nhận ngôi vị, và hơn nữa, c̣n là sự phó
thác nơi ngôi vị ḿnh tin; Và chính v́ chấp nhận và phó
thác nơi ngôi vị ḿnh tin, mà chủ thể tin có sự
chắc chắn chủ quan ở một mức độ
nào đó[33].
Từ tri thức
và từ các khuynh chiều đến ưng thuận,
chọn lựa, quyết định, là một bước
nhảy dài và kỳ diệu! Tại sao tôi lại ưng thuận
hay chọn người này chứ không phải ai khác? T́nh
yêu là ân sủng Thiên Chúa ban cho con người; Không phải
tôi muốn yêu ai là tôi yêu người đó! Yêu là một
ơn, và cũng cần có ân sủng để yêu! Cũng
tương tự như vậy, ưng thuận hay
chọn Thiên Chúa, là một ơn. Để ưng thuận
hay chọn Thiên Chúa, cần có ân sủng của Ngài. Ngoài
những lư do thứ yếu là khuynh chiều nào mạnh
cũng như nhận thức của tôi, th́ lư do chính
yếu và nền tảng của tất cả, đó là
sự can thiệp của Thiên Chúa nơi con người tôi
cách thâm sâu nhất. Thánh Y-nhă Loyola nói trong sách Linh Thao:
“Chỉ có Thiên Chúa, Chúa chúng ta mới ban ơn an ủi cho
linh hồn mà không cần có nguyên do trước, v́ quyền
riêng của Đấng Tạo Hóa là vào ra đánh
động linh hồn, lôi cuốn trọn vẹn linh hồn
vào yêu mến Ngài” (Lt. 330). Như vậy thánh Y-nhă Loyola
cũng quan niệm: chỉ có
Thiên Chúa mới tác động đến tôi cách uyên nguyên và
hữu hiệu nhất, chỉ có Thiên Chúa mới thay
đổi được tôi cách sâu xa mà tôi vẫn tự
do, chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm tôi ưng thuận
và chọn lựa Ngài. Thiên Chúa quan pḥng và tác động
trên tôi bằng t́nh yêu và ân sủng của Ngài, Ngài làm tôi
ưng thuận và tin yêu Ngài.
Tin là tri thức
tự do, là tri thức chỉ có với sự ưng
thuận của chủ thể. Chính tự chủ thể và do chủ thể mà tri thức đó có hay không có.
Chẳng hạn tôi tin có Thiên Chúa; đây là tri thức
của tôi do tự tôi, những ai không tin không thể có tri
thức này. Tri thức này có, là do tôi tin vào khả năng
của tôi, nên nó có một sự chắc chắn chủ
quan nào đó. Sự chắc chắn này không tuyệt
đối nếu nó chỉ là niềm tin vào tôi xét như một con người b́nh
thường có thể sai lầm. Nhưng nếu niềm
tin có Thiên Chúa của tôi không chỉ là niềm tin vào tôi mà
c̣n là niềm tin phó thác vào Thiên
Chúa nữa, th́ sự chắc chắn này tuyệt
đối. Ở đây, tin là tri thức siêu vượt,
và tri thức siêu vượt này không chỉ làm tôi gặp
tôi nhưng c̣n giúp tôi gặp gỡ với một Tuyệt
Đối hoàn toàn khác tôi nữa. Ở một mức
độ cao hơn nữa, tin là tin tưởng phó thác cho
ngôi vị ḿnh tin, và nếu ngôi vị ḿnh tin là Tuyệt
Đối th́ sự phó thác này cũng có tính tuyệt
đối. Đây là đức tin của các ki-tô hữu.
Qua hành vi tin hay
siêu vượt, tín hữu gặp gỡ ngôi vị tuyệt đối, nhận ra ngôi vị
tuyệt đối là t́nh yêu, nhận ra ngôi vị tuyệt
đối yêu thương ḿnh, và ḿnh phó thác tất cả
cho Thiên Chúa tuyệt đối.
Cũng
tương tự và một cách loại suy như
tương quan giữa hai con người yêu thương
nhau, tri thức của người này có thể là tri
thức của người kia v́ được thông ban
chia sẻ cho nhau, nên tri thức của một tín hữu
cũng có thể vượt xa hơn tri thức của
một người “yêu ít” hoặc không có t́nh yêu rất
nhiều. Đây là tri thức nhờ t́nh yêu, do ân sủng,
và chỉ có được nếu được ưng
thuận và tiếp nhận. Sự ưng thuận chân lư
mặc khải chỉ có thể, nếu ngôi vị đă ưng
thuận ngôi vị. Ưng thuận ở đây đă là
t́nh yêu.
T́nh yêu là trở
nên một giữa hai ngôi vị (giữa những ngôi
vị), là sự ḥa hợp giữa hai ngôi vị[34].
Đỉnh cao của t́nh yêu là trở nên một, nhưng
dù trở nên một th́ vẫn là hai (vẫn nguyên vẹn là
ḿnh)[35].
T́nh yêu là ưng thuận, là chấp nhận, là thông ban và
chia sẻ, là cho đi giữa hai ngôi vị (hoặc
nhiều ngôi vị với nhau).
Hai người yêu
nhau có ngôn ngữ riêng của họ mà đôi khi không cần
dùng lời để thông đạt và diễn tả,
chẳng hạn bằng ánh mắt, một nụ
cười, ... Những người không ở trong
cuộc thường không hiểu được những
dấu chỉ trên, nhưng những người liên hệ
th́ họ hiểu rất đúng ư nhau và không bị lầm
như những người ngoài cuộc. Tin là tri thức
t́nh yêu, là như thế. “Con tim có những lư lẽ mà lư trí
không hiểu được”. Tri thức giữa những
người yêu nhau- họ biết về nhau- không thể
lư giải để một người không ở trong
cuộc có thể thỏa măn hoàn toàn được. Tri
thức t́nh yêu này được thánh Thomas gọi là
“cognitio per connaturalitatem[36]”,
nơi tiếng Việt chúng ta có thể gọi là tri
thức do đồng cảm, đồng thanh tương
ứng đồng khí tương cầu.
Tri thức t́nh yêu
này có được là do ân sủng, bởi v́ chính ân
sủng làm cho hai ngôi vị yêu nhau, làm cho con người
ưng thuận Ngôi Vị Thiên Chúa[37].
Và bởi v́ tri thức t́nh yêu là tri thức đồng
cảm và được thông ban, nên có thể nói tri
thức bởi tin cũng được đồng hóa
với tri thức thần linh trong mức độ chúng ta
gắn bó với Thiên Chúa[38].
Hiểu tin là tri thức t́nh yêu như vậy, nên thánh Thomas
đă thâu tóm vào tri thức bởi tin cả tri thức
của Adam lúc chưa phạm tội cũng như cả
tri thức của các nhà thần bí nữa[39].
Tri thức t́nh yêu,
tri thức bởi tin, có được là nhờ t́nh yêu và
ân sủng của Thiên Chúa ban cho con người. Ân sủng
của Thiên Chúa không phá hủy “tự nhiên” nhưng hoàn
hảo hóa “tự nhiên”[40].
Chính ân sủng Thiên Chúa biến đổi toàn diện con
người chúng ta[41],
biến đổi cả những khuynh chiều nơi thân
xác chúng ta[42], biến
đổi làm nên mạnh mẽ khuynh chiều theo lư trí (ư
chí), và làm chúng ta thuận theo Thiên Chúa.
Ân sủng t́nh yêu
Thiên Chúa biến đổi chúng ta, làm chúng ta ra khác, làm chúng
ta có cái ǵ đó đặc
biệt, và điều này chúng ta có thể gọi là “sở hữu đức tin”
(habitus de foi), cái nhờ đức tin mà có.
Sở hữu
đức tin làm chúng ta nhận ra chân ly[43]ù,
làm chúng ta khuynh chiều và gắn bó với chân lư[44],
làm chúng ta ưng thuận chân lư v́ đă ưng thuận và
chấp nhận ngôi vị. Và như vậy là t́nh yêu, và có
sự đồng cảm[45].
Trong phần hai
này chúng ta đă phân tích hành vi tin
Thiên Chúa, và đă nhận ra tin
Thiên Chúa là hành vi nhân linh. Thiên Chúa hiện hữu,
nhưng không thể kiểm chứng cách thực nghiệm
được, v́ nếu kiểm chứng cách thực
nghiệm được th́ Thiên Chúa không c̣n là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là
một thực thể thực nghiệm mà thôi. Những
luận cứ chứng minh Thiên Chúa hiện hữu, là
những dấu chỉ được đưa ra để
con người có thể siêu vượt.
Tin là siêu
vượt, là không ở lỳ nơi vật chất
nhưng vượt qua vật chất để
vươn lên thực tại siêu vật chất. Vật
chất là dấu chỉ. Chỉ khi nào con người siêu
vượt, vươn lên khỏi vật chất- tức
là tin- th́ con người mới là tinh thần đích
thực, mới là hữu thể tự do đích thực.
Lúc đó, con người nhận ra Thiên Chúa hiện
hữu.
Để
nhận biết Thiên Chúa, để tin Thiên Chúa, con
người vẫn cần sự trợ giúp của Thiên
Chúa. Khi nói như vậy không có ư muốn nói là lư trí con
người không thể nhận biết Thiên Chúa. Ân
sủng của Thiên Chúa luôn luôn bao trùm con người, không
có thời điểm nào không có ân sủng của Thiên Chúa
đối với con người, v́ Thiên Chúa luôn yêu
thương con người. Ân sủng của Thiên Chúa
loại bỏ những ngăn trở, giúp lư trí con
người có thể siêu vượt để nhận
biết Thiên Chúa. Tin là tri thức, nhưng là tri thức
“siêu nhiên”, hiểu theo nghĩa lư trí con người luôn
được ân sủng tác động.
Tin là tri thức
tự do, bởi v́ con người có thể từ chối
tri thức này. Con người có thể nói: “Thiên Chúa không
hiện hữu”. Con người là tinh thần nhập thể
. Nơi con người có những khuynh chiều khác nhau:
nhục dục, t́nh dục, ư dục. Con người có
tự do để thuận theo khuynh chiều nào đó
nơi ḿnh, và con người chỉ tự do đích thực khi con người
thuận theo ư dục (khuynh chiều theo lư trí thấy
đúng thấy tốt). Cũng chính ân sủng của Thiên
Chúa tác động nơi ư chí con người, làm con
người ưng thuận theo ư chí.
Tin là tri thức
t́nh yêu, “đồng cảm”. Chính ân sủng là nguyên nhân
chủ yếu làm một người tin Thiên Chúa. Ân
sủng là t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người được cụ thể hóa. Ân sủng
thấm nhập trọn vẹn và bao trùm con người. Ân
sủng như ánh sáng giúp chủ thể tin nhận biết
Thiên Chúa, ân sủng như sức hấp dẫn lôi kéo con
người đến với Thiên Chúa, ân sủng làm con
người thuận ḷng với Thiên Chúa xét như ngôi
vị t́nh yêu, và làm con người thuận ḷng với
khuynh chiều theo lư trí mà con người có nơi ḿnh. Ân
sủng là cái làm cho người đó ra khác, làm cho con
người có cái ǵ đó
đặc biệt nơi ḿnh, cái đó chúng ta gọi là
“sở hữu đức tin”, tức là cái nhờ ân
sủng mà có. Ân sủng là t́nh yêu, tri thức đức tin
là tri thức t́nh yêu: được ban nhờ yêu và cảm
nhận cũng nhờ t́nh yêu (đón nhận, chấp
nhận, thuận ḷng)[46].
Tri thức đức tin là tri thức giữa hai ngôi
vị yêu nhau, là tri thức về nhau, là chia sẻ, v́ trong
t́nh yêu các ngôi vị sẽ hướng tới sự duy nhất,
hướng tới nên một với nhau trong mọi
sự.
Nơi chủ
thể tin Thiên Chúa, có sự chắc chắn tuyệt
đối rằng điều ḿnh tin là đúng. Sự
chắc chắn này có là nhờ chủ
thể ưng thuận. Chính nhờ chủ thể
ưng thuận mới có tri thức đức tin, và
cũng nhờ chủ thể ưng thuận mới có
sự chắc chắn. Sự chắc chắn tuyệt
đối nơi chủ thể tin Thiên Chúa, đến
từ uy quyền Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa làm và bảo đảm
cho người tin biết rằng điều họ tin là
tuyệt đối chắc chắn đúng.
Trong phần ba
tiếp theo, chúng ta sẽ bàn về tính khả tín của
đức tin ki-tô giáo. Phần thứ ba vừa là nối
tiếp vừa là mới lạ so với phần hai: tin không chỉ là siêu vượt
nhưng c̣n và chủ yếu là đáp trả mặc
khải của Thiên Chúa.
HOME THẦN HỌC
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN SSNBT1 SSNBT2 SSNBT3 SSNBT4 SSNBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Điều này được thấy rơ ràng nơi các nhà khoa học hữu thần, chẳng hạn nơi Teilhard de Chardin với niềm tin Thiên Chúa và tri thức “tiến hóa”.
[2] Không có mâu thuẫn khi cho rằng niềm tin có Thiên Chúa hàm chứa trong niềm tin vào Thiên Chúa, dù theo luận lư phải tin có Thiên Chúa th́ mới có thể tin vào Thiên Chúa.
[3] H. KUENG, op. cit., p.483: “La négation nihiliste n’atteint pas seulement la certitude subjective, la certitude du sujet pensant ou croyant. Elle creuse également toute certitude objective, elle atteint ce que nous pouvons tacitement présupposer comme certain en tout acte de connnaissance: la certitude fondamentale présupposée de l’être et des premiers principes évidents de l’être, telle que l’affirme la philosophie classique de l’être. En particulier: ens est ens (principe d’identité), ens non est non ens (principe de contradiction). De tels principes ne sont-ils pas évidents pour tout homme (principia per se nota omnibus)? L’homme possède-t-il une certitude naturelle (habitus principiorum)?”.
H. KUENG, op. cit., p. 484: “Pour Nietzsche, le doute sur la valeur de certaines certitudes se trouve radicalisé jusqu’à devenir un doute sur la possibilité même d’être certain en général”.
H. KUENG, op. cit., p. 488: “Que dire après les objections de Nietzsche contre les “certitudes immédiates”, comme cette certitude “naturelle” du principe d’identité et de contradiction?”.
Ngay cả những nguyên lư siêu h́nh, nếu nó hàm chứa trong niềm tin vào Thiên Chúa trước niềm tin vào ḿnh, nó vẫn có sự chắc chắn tuyệt đối mà lời phê b́nh của Nietzsche không đụng tới được!
[4] Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 89: “La foi ne peut se mettre (qu’) en travers de la raison, elle doit être “rationabilis”, conforme à la raison... Il s’agit donc de rationabilité de la foi, non dans la vision, c’est à dire d’une “rationabilis credibilitas”.
Exiger que l’on croie “aveuglement” sans que cette croyance apparaisse juste à la raison, “croyable”, bien plus, “obligatoire” (credendum), serait porter atteinte à la dignité que l’homme tient de la création (mirabiliter creasti) et que le “mirabilius reformasti” a élevée à une hauteur inimaginable et ne veut pas détruire. Il n’est pas de foi ó ne soit présent le “videre esse credenda” ( ST. THOMAS, S.T., IIa-IIae, q. 1, a. 4, ad 2)”.
R. AUBERT, op. cit., p. 417: “Si l’acte de foi surnaturelle n’est que l’élévation ontologique d’un acte de foi scientifique, comme le prétendent les jésuites depuis trois siècles, et en particulier Billot, le maỵtre vénéré de Bainvel, on comprend qu’on soit inflexible sur la valeur spéculative des motifs de crédibilité, car c’est elle qui fait toute la valeur substantielle de cet acte naturel, et on conçoit que Dieu ne puisse accorder le laissez-passer de sa grâce à une démonstration qui n’exclut pas toute possibilité d’erreur spéculative.
La crédibilité rationnelle sert vraiment, dans une telle conception, de fondement à la foi, et si les motifs de crédibilité ne sont que probables, c’est l’acte de foi lui-même qui se trouve sans justification objective et absolue... Mais “le jugement surnaturel de crédibilité, tout en supposant comme condition préalable la crédibilité prudentielle naturelle, se fonde objectivement sur une illumination surnaturelle”.
[5] S. THOMAS, In III Sent., d. 23, q. 2, a. 1, sol. 1, ad 2: “Fides habet certitudinem ab eo quod est extra genus cognitionis, in genere affectionis existens”.
M. D. CHENU, op. cit., p. 92: “St. Thomas n’accepte pas une si radicale hétérogenéité, ó semble compromise l’unité de l’esprit: de cette double rupture avec l’intellectualisme d’Aristote, il refusera l’une en maintenant que la foi, adhésion au vrai, est l’acte de l’intellect spéculatif, seule faculté du vrai; et s’il accepte l’autre, c’est-à-dire, l’assentiment par élection affective, s’il s’efforcera de l’expliquer dans le schema aristotélien, se reconstruisant dans l’échelle des sentiments la psychologie de l’opinion”.
[6] Ư chí ở đây hiểu là khuynh hướng chủ thể thấy là đúng là tốt.
[7] Thành ngữ tiếng Latin viết: “errare humanum est”.
[8] J. TRUETSCH, art. cit., p. 131: “Credo Deum (objectum materiale: Deum salutarem... Christum Verbum incarnatum ex Patre natum), quia credo Deo (objectum formale seu motivum: Deo auctoritative loquenti in Christo...) et credo Deo quia credo in Deum (en tant qu’il est pour moi la fin ultime à laquelle j’aspire)”.
[9] Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 124: “L’auctoritas Dei revelantis doit être reconnue avant la foi, mais, dans la foi elle-même, il n’y a assentiment à la vérité révélée qu’en vertu de l’autorité de Dieu...”.
Với Suarez, nguyên do thúc đẩy tin là uy quyền của Thiên Chúa mặc khải:
J. TRUETSCH, art. cit., p. 126: “Pour Suarez, le motif rationnel de la foi, c’est-à-dire l’auctoritas Dei revelantis, est affirmé dans la foi elle-même, ou plus précisément il est l’objet de foi: Dieu témoigne non seulement de ce qu’il est Trinité, etc., mais aussi de la réalité de son témoignage”.
C̣n đối với De Lugo, “Selon De Lugo, le motif de la foi est affirmé dans la foi même, il n’est pourtant pas “de foi”, mais il est saisi immédiatement, de façon non évidente, obscure, bien qu’avec une certitude absolue. Cette saisie est surnaturelle, dans la mesure ó elle est due à l’habitus de foi infusée en nous” (J. TRUETSCH, art. cit., p. 127).
[10] R. AUBERT, op. cit., p. 469: “Newman affirme à maintes reprises que le simple exposé d’arguments apologétiques, tels que les miracles, est incapable, par lui-même, de convaincre l’esprit et que la valeur de la preuve n’apparaỵt qu’à ceux qui sont déjà convaincus de l’intervention surnaturelle de Dieu dans le monde, conviction engendrée elle-même par l’amour”.
Có thể nói Newman cùng lập trường với thánh Thomas:
“Formale objectum fidei est Veritas prima secundum quod manifestatur in Scripturis sacris et doctrina Ecclesiae quae procedit ex Veritate prima” ( ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 5, a. 3).
“On croit donc “parce que Dieu l’a dit” et c’est pourquoi la Vérité première constitue non seulement la matière principale de l’acte de foi mais aussi son objet ou motif formel” (R. AUBERT, op. cit., p. 49).
[11] H. KUENG, op. cit., p. 51: “Dans les questions touchant la foi, on pouvait de moins en moins se référer à l’auctoritas (la Bible, les pères de l’Église, les conciles, les papes-qui se contredisent souvent). Il fallait donc recourir courageusement à la ratio et à analyse spéculative pour établir de la clarté”.
[12] R. AUBERT, op. cit., p. 229: “Or l’esprit humain peut prouver philosophiquement que Dieu est la Vérité suprême, et que, dès lors, ce qu’il révèle est vrai; Il peut ensuite prouver historiquement, en faisant appel aux miracles qui guarantissent la mission des messagers de Dieu... la conclusion inéluctable sera que ces vérités méritent d’être crues. C’est ce qu’on nomme le jugement de crédibilité (Hoc est credibile)..., et un jugement pratique de crédibilité: “je dois croire ceci”, auquel on donne le nom de jugement de credentité (hoc est credendum)”.
J. TRUETSCH, art. cit., p. 90: “Comme il s’agit de raison de croire à une révélation qui requiert l’obéissance; crédibilité signifie toujours en même temps obligation de croir: crédentité; celle-ci est donc toujours sous-entendue quand nous parlons de celle-là”.
Dù trích dẫn R. Aubert và J. Truetsch ở đây, tôi không muốn nói hai tác giả này phủ nhận nại vào uy quyền Thiên Chúa trong việc lư giải đức tin, nhất là trong việc lư giải tâm lư “chắc chắn rằng điều ḿnh tin là đúng” nơi chủ thể tin.
[13] J. TRUETSCH, art. cit., p.121-122: “Je crois parce que Dieu l’a dit. Évidemment cet acte de foi présuppose que je sais aussi que Dieu l’a dit, que je connais le factum revelationis, le fait que c’est réellement Dieu qui a parlé par Jésus Christ. Évidemment, ce fait, lui, je ne puis le connaỵtre en vertu de l’autorité qui en témoigne: il me faudrait alors connaỵtre au préalable le fait que Dieu a attesté le factum revelationis... Ce serait une progression à l’infini.
Donc semble-t-il, je dois connaỵtre le fait de la révélation avant d’avoir la foi et le connaỵtre en dehors d’elle pour pouvoir accepter le contenu de la révélation sur l’autorité de Dieu qui en témoigne. Ainsi donc le motif incréé, de son côté- la reconnaissance de la crédibilité ou le fait de la révélation chrétienne- pour qu’il soit possible de motiver l’acte de foi. Mais alors le motif incréé ne serait plus le motif dernier. La foi perdrait son caractère d’immédiateté divine, elle ne serait plus réellement “théologale””.
[14] J. TRUETSCH, art. cit., p.123: “ou bien je rends l’adhésion de foi indépendante de la connaissance de la crédibilité; Je place donc celle-ci avant la foi; mais de telle manière que cette connaissance n’a aucune influence déterminante sur la réponse de foi elle-même; alors la foi semble être aveugle, sans justification devant le tribunal de la raison, car je donne mon adhésion à une vérité en vertu de l’autorité de Dieu, sans savoir que l’autorité de Dieu y est réellement engagée, sans savoir que Dieu a parlé en Jésus Christ; ou bien je fais dépendre l’adhésion de foi de l’examen de la crédibilité: elle ne peut plus être alors “assensus super omnia firmus et infallibiliter certus””.
[15] F-J. THONNARD, Op. cit., p. 157-158: “Favorinus reprit les dix pyrrhoniens et Agrippa les réduisit à cinq, dont voici le résumé: “Si un dogmatiste affirme une chose, on peut toujours la nier (contradiction); s’il veut la prouver par un autre principe, on peut nier celui-ci, et ainsi de suite (progrès à l’infini); s’il déclare un de ces principes, évident, c’est dire seulement qu’il paraỵt vrai, à moins de preuve (relativité); s’il renonce à le prouver, le principe devient une supposition contestable (hypothèse); et s’il risque une démonstration, il faut à celle-ci un criterium: le voilà dans le diallèle (cercle vicieux)...
Le critère n’existe pas, car:
a). ou bien on prouve sa valeur, et il faut un nouveau critère pour juger la valeur de cette démonstration. On va donc à l’infini et de nouveau, tout reste incertain;
b). ou bien on l’admet sans prouver sa valeur, et tout reste incertain”.
[16] J. TRUETSCH, art. cit., p. 47: “Mais surtout, dans sa lutte contre le naturalisme pélagien il (Augustin) fait ressortir que la foi est un don de la grâce”.
[17] R. AUBERT, op. cit., p. 27: “Mais quelques années plus tard, Augustin eut à faire face à une autre erreur plus subtile, qui porte dans l’histoire le nom de semipélagianisme. La grâce divine serait indispensable pour tout acte salutaire, à l’exception de la première démarche de la vie spirituelle, l’initium fidei, c’est-à-dire l’acte de foi initial en lequel consiste la conversion et par lequel l’homme, en se soumettant à Dieu et au Christ, se met en route vers Dieu”.
[18] Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 71:
“Il y a place pour beaucoup d’actes de raison dans la foi, mais ces actes de raison accompagnent la foi, sans en constituer la cause” (ST. THOMAS, De Ver., q. 14, a. 2, ad 9m; a. 1, ad 6m).
“La vraie cause de la foi, c’est une action divine interne (Fides habet certitudinem ex lumine infuso divinitus... Principia fidei cognoscuntur ex lumine infuso divinitus)” (S. THOMAS, In Joan., IV, lect. 5, n. 2).
R. AUBERT, op. cit., p. 50:
“Lorsqu’il adhère à ce qui est de foi, l’homme est élevé au-dessus de sa nature; il faut donc qu’il ait cela en lui par un principe surnaturel qui le meuve du dedans; et ce principe, c’est Dieu. La foi, quant à cette adhésion qui en est l’acte principal, vient de Dieu qui, par sa grâce, nous meut intérieurement” (S. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 6, a. 1).
“Dicendum quod gratia facit fidem, non solum quando fides de novo incipit esse in homini sed etiam quamdiu fides durat...” (ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 4, a. 4, ad 3m).
[19] VATICAN I: “Ipse fides in se... est donum Dei” (DzS. 3010).
LE SECOND CONCILE D’ORANGE: “Per gratiae donum, id est per inspirationem Spiritus Sancti corrigentem voluntatem nostram ab infidelitate ad fidem” (DzS. 375).
Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 67: “Le commencement de la foi lui aussi, et même la pieuse disposition à croire... est en nous en vertu d’un don de grâce...”
[20] VATICAN I: “Fides ipsa in re, etiamsi per caritatem non operatur (cf. Gal.5,6) donum Dei est et actus ejus opus ad salutem pertinens” (DzS.3010).
J. TRUETSCH, art. cit., p. 66: “Même si la foi ne s’achève pas par l’amour, elle est cependant un don de Dieu, et l’acte de foi est une oeuvre ordonnée au salut”.
[21] Những người lạc giáo không phủ nhận Thiên Chúa nhưng phủ nhận uy quyền trung gian của Hội Thánh. Ma qủy cũng không phủ nhận Thiên Chúa, và cũng không phủ nhận Thiên Chúa tốt lành đáng tin (credere Deo), nhưng ma qủy không chịu phó thác nơi Thiên Chúa và không muốn vâng phục Thiên Chúa (cedere in Deum).
Có một số người cho rằng hành vi tin của người lạc giáo là hành vi tin “tự nhiên” chứ không phải “siêu nhiên”, và như vậy nơi những người này chỉ có sự chắc chắn chủ quan tương đối; nghĩa là hành vi tin của họ không là ân sủng của Thiên Chúa:
“Celui-ci (A. STOLZ, Glaubensgnade und Glaubenslicht nach Thom. Von Aq., ROME 1933) accorde à Rousselot que, pour st. Thomas, l’acte de foi surnaturelle est spécifiquement et substantiellement distinct de l’acte de foi naturelle; et que cette différence ne provient pas, comme l’affirme l’école dominicaine, d’une soi-disant distinction entre l’autorité de Dieu, auteur de la nature ou de la grâce, mais de ce que l’habitus de foi est principe d’une connaissance par connaturalité...
D’autre part, continue le P. Stolz, la saisie naturelle de ces signes peut suffire à fonder une foi naturelle, comme c’est le cas chez l’hérétique, par exemple...
Or telle est bien le genre de certitude de cette foi naturelle, trop décriée certes par Rousselot, qui la réduisait à n’être qu’une opinion dubitative, mais beaucoup trop appréciée par nombre de théologiens modernes (la dénomination de “foi scientifique” est tout à fait caractéristique à cet égard)”.
Thánh Thomas cho rằng, đức tin của ma qủy không có sự can thiệp của ư chí tự do (nghĩa là nơi ma qủy không có tự do để phủ nhận Thiên Chúa hiện hữu) nhưng do sự hiển nhiên của các dấu chỉ. Cf. H. U. VON BALTHASAR, op. cit., p. 173 trích dẫn ST. THOMAS, S. T., Ia-IIae, q. 5, a. 2, ad 1 và ad 2:
“Daemonum fides est quodammodo coacta ex signorum evidentia... coguntur ad credendum ex perspicacitate naturalis intellectus”.
ST. THOMAS, De Ver., q. 14, a. 9, ad 4: “Ce n’est donc pas volontairement (non voluntate assentiunt), mais par l’évidence contraignante des signes, par lesquels la vérité se manifeste (convincitur), qu’ils croient ce que croient les croyants, quoique les signes ne laissent pas apparaỵtre ce qui est cru au point qu’on puisse dire qu’ils aient la vision immédiate des choses crues”.
Ma qủy tin có Thiên Chúa mà không tự do, bởi v́: “Que la volonté porte ainsi l’intelligence à donner son assentiment, cela peut venir de deux causes. Dans un cas, cela vient de ce que la volonté est tournée vers le bien qu’il y a dans la foi et alors croire est un acte louable. Dans un autre, cela vient de ce que l’intelligence est convaincue au point d’estimer qu’elle ne peut faire autrement que de croire à ce qui est dit, encore qu’elle ne soit pas convaincue par l’évidence de la chose. Par exemple, si un prophète prédisait dans un discours inspiré par le Seigneur un évènement futur et s’il accompagnait cette annonce d’un mort, l’intelligence des spectateurs retirerait de ce signe la conviction que la prédication vient de Dieu, qui ne ment pas” (ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 5, a. 2).
C’est de cette seconde manière que croient les démons: “ils voient en effet beaucoup d’indices fort clairs par lesquels ils perçoivent que l’enseignement de l’Église vient de Dieu”. Leur foi implique donc une intervention de la volonté, mais n’a rien de libre: ils sont forcés à croire par la sperspicacité de leur intelligence naturelle et par l’évidence des signes” (ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 5, a. 2, ad 1m).
Cf. R. AUBERT, op. cit., pp. 55-56.
Như vậy ở đây, theo quan niệm của thánh Thomas, hành vi tin của ma qủy không là hành vi tự do dù vẫn là hành vi của ư chí.
[22] J. TRUETSCH, art. cit., p. 79.70
p. 70: “Il est certain que, dans la foi, la grâce concerne en même temps la volonté et la connaissance, car l’une et l’autre y sont présentes. Entendement et volonté apportent leur concours sous la lumière et l’impulsion de l’Esprit, et cela pour autant que nous disons “oui” au Dieu de la révélation et du salut, à son autorité (motif), ainsi qu’à ce qu’il nous annonce (objet)”.
[23] R. AUBERT, op. cit., p. 51: “Certains des prédécesseurs de st. Thomas- Guillaume d’Auxerre notamment- avaient présenté la grâce de foi, nommée lumen fidei, comme une lumière intellectuelle qui entraỵnerait une adhésion immédiate et inmanquable aux vérités révélées, du même type que l’assentiment aux principes premiers de la raison” ( ST. THOMAS, I S., Prol., a. 3, qla. 2, ad 2m: “Articulos fidei qui per lumen fidei infusum per se noti sunt habenti fidem sicut et principia naturaliter nobis insista per lumen intellectus agentis”).
F. MALMBERG, “Glaubenslicht”, trong LThK. IV, 1960, col. 942: “La grâce de la foi, en tant qu’elle perfectionne notre capacité de connaissance rationnelle, est appelée traditionnellement lumière... (lumen propheticum, lumen gloriae, lumen fidei)” được trích trong J. TRUETSCH, art. cit., p. 89 note 71.
[24] J. TRUETSCH, art. cit., p. 68-69: “Cette grâce est aussi “lumière”- lumen fidei- qui nous donne des “yeux nouveaux”, les yeux de la foi”.
[25] J. TRUETSCH, art. cit., p. 129.130:
“La lumière de foi en rend l’homme capable: dans le témoignage extérieur des envoyés de Dieu et des messagers de la foi autorisés par des signes extérieurs de crédibilité, il voit immédiatement le témoignage de Dieu lui-même”.
“Le croyant- éclairé par la grâce- saisit le témoignage de Dieu de façon immédiate comme motif rationnel inclus dans son obligation morale”.
“Ce qui est vu, c’est le “témoignage”, ce n’est pas la réalité divine sans voile telle qu’elle est réservée à la vision de la gloire. Le Dieu que nous saisissons, ce n’est pas le Dieu qui se montre directement dans sa gloire, mais c’est le Dieu qui requiert la foi”.
[26] J. TRUETSCH, art. cit., p. 70: (Đối với nhiều nhà thần học), il faudrait réserver ici un domaine qui, au moins en principe, “en soi et pour soi”, ne fût pas attribué à la lumière divine de la grâce (nhằm tránh coi đức tin là hành vi mù quáng). Quant à nous, nous n’hésistons pas à placer entièrement sous la lumière de la grâce un jugement de crédibilité conforme à la foi chrétienne... Certes, cette grâce de foi ne dispense pas de voir et ne “supplée pas la vue, mais c’est elle seule qui permet de voir, de “voir” véritablement” ( J. TRUETSCH trích dẫn M-L. GUÉRARD DES LAURIERS, Dimensions de la foi, PARIS 1952, I, pp. 232-238; II, p. 105 note 287).
[27] J. TRUETSCH, art. cit., p. 128 trích dẫn ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 1, a. 5 ad 1: “per lumen fidei vident esse credenda”.
[28] R. AUBERT, op. cit., p. 468: “Dans ses articles (de Rousselot), il apporte une serie de textes pour prouver que, selon le docteur angélique, la lumière de la grâce est requise pour la perception certaine de la crédibilité, et le caractère surnaturel de l’objet à croire exige nécessairement une élévation correspondante de la faculté pour être saisi...” (RSR., 1914, t. V, p. 63).
Xem thêm R. AUBERT, op. cit., p. 70.79.
[29] R. AUBERT, op. cit., p. 52:
“Mais il (st. Thomas) met désormais l’action de cette grâce de foi en rapport avec le rôle de la volonté dans l’assentiment du croyant ( S. THOMAE In Boethium de Trin., q. 3, a. 1, ad 4m: “Lumen fidei... non movet per viam intellectus set magis per viam voluntatis”). Il n’entraỵne pas l’assentiment en donnant l’évidence des vérités à croire; il y fait adhérer par un acquiescement de la volonté (In fide qua in Deum credimus, non solum est acceptio rerum quibus assentimus sed aliquid quod inclinat ad assensum, et hoc est lumen quoddam quod est habitus fidei, divinitus menti humanae infusum... Lumen fidei quod est quasi sigillatio quaedam Primae Veritatis in mente non potest fallere, sicut Deus non potest decipere vel mentiri; unde hoc lumen sufficit ad judicandum.
Hic tamen habitus non movet per viam intellectus sed magis per viam voluntatis; unde non facit videre illa quae creduntur nec cogit assensum sed facit voluntarie assentire. Et sic patet quod fides ex duabus partibus est a Deo, scil. ex parte interioris luminis quod inducit ad assensum, et ex parte eorum quae exterius proponuntur quae ea divina revelatione initium sumpserunt).
Dans les oeuvres de la maturité, st. Thomas a fortement nuancé ce que ce point de vue illuminationniste avait exagéré. S’il fait encore le rapprochement entre la connaissance de foi et la connnaissance des premiers principes dans l’ordre naturel, c’est uniquement pour souligner le fait que, dans les deux cas, il y a conjonction entre un élément extérieur- données sensibles, révélation- et une lumière intérieure- intellect agent, grâce de foi (S. THOMAE In Boethium de Trin., q. 3, a. 1, ad 4m: Unde, sicut cognitio principiorum accipitur a sensu et tamen lumen quo principia cognoscuntur est innatum, ita fides est ex auditu et tamen habitus fidei est infusus. Cf. ST. THOMAS, S. T., I, q. 111, a. 1, ad 1m)”.
[30] R. AUBERT, op. cit., p. 458:
“La lumière de foi devrait simplement éclairer le sens et la valeur des indices internes qui sont par ailleurs à notre disposition; elle donnerait, non pas de nouveaux objets à voir, mais les yeux nécessaires pour voir dans les preuves ce qui s’y trouve déjà; elle serait ainsi percevante et non perceptible, ou, pour employer le langage un peu barbare de la scolastique, elle agirait non pas objectivement ut quod (percipitur), mais subjectivement, ut quo. Telle est la thèse de Rousselot”.
[31] Khuynh chiều thỏa măn thân xác, gọi là nhục dục (appetitus sensibilis). Khuynh chiều thỏa măn t́nh cảm, gọi là t́nh dục (appetitus irascibilis). Khuynh chiều thỏa măn ư chí, gọi là ư chí (appetitus intelligibilis).
Khuynh chiều theo lư trí, tức là ư chí hay ư muốn, là khuynh chiều theo điều lư trí thấy là đúng (SANCTI THOMAE AQUINATATIS In Aristotelis Librum De Anima Commentarium, MARIETTI 1959, L. II, l.V, n. 286-288).
Theo quan điểm của Phật Giáo, ḷng dục có bốn thứ: t́nh dục, sắc dục, thực dục, dâm dục, gọi là dục giới (Xem ĐÀO DUY ANH, Hán Việt Từ Điển, MINH TÂN, PARIS 1950, từ ngữ “Dục”).
Theo từ ngữ hán-việt, “dục” ( ) có nghĩa là muốn, ham, ḷng muốn. Chũ “dục”, gồm có âm “dục” ( ) và bộ khiếm ( ); Chữ “khiếm” có nghĩa là thiếu; Khi thiếu cái ǵ th́ ham muốn cái đó, khi cần cái ǵ th́ muốn thỏa măn cái đó. Chữ “dục” ở đây trong những chữ “nhục dục, t́nh dục, ...”, khác với chữ “dục” được viết trong những chữ “dưỡng dục, giáo dục, ...” có nghĩa là “dạy dỗ”; và khác với chữ “dục” được viết là trong chữ “mộc dục”, có nghĩa là tắm rửa.
ANDÉ MARC, Psychologie réflexive, tome II: La volonté et l'esprit, DDB-PARIS 1949,
p. 28:
“Légitimement l’usage réserve le nom de volonté à la tendance, qui découle de l’intelligence et cette dénomination répond à un fait incontestable”.... Maurice Blondel parle de même (La pensée, t. II, p.420) et rien n’oblige à changer sur ce point le langage, qui fait de la volonté une tendance rationnelle”.
p. 104:
“Admettez que la volonté soit un penchant puisqu’elle est un amour, qu’il y ait donc en elle de l’inclinaison en conséquence de son inclinaison, elle n’est pas plus, vis-à-vis du bien, dans un état d’équilibre neutre, que l’intelligence en face du vrai”.
[32] Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 229: “Une fois cette obligation morale reconnue par l’intelligence, la volonté est autorisée à intervenir et à commander à l’esprit de donner à ces vérités un assentiment aussi ferme que si elles lui avaient été démontrées: c’est le pius credulitatis affectus, qui est alors suivi de l’acte de foi proprement dit”.
Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 79: “Dieu a l’initiative de la foi: c’est lui qui donne l’instinctus (impulsion) intérieur et la “lumière de la foi”. Que ce soit une lumière, nous l’avons vu chez saint Thomas, non qu’elle fasse voir, c’est-à-dire qu’elle donne une évidence, mais elle fait videre esse credenda. Elle est “une lumière qui fait naỵtre une tendance”; de ce fait, la foi est rendue possible non à partir de l’entendement lui-même, mais à partir de la volonté”.
Cf. HENRI DE LUBAC, La foi chrétienne- Essai sur la structure du Symbole des Apôtre, AUBIER-MONTAIGNE-PARIS 1969, pp. 300-301: “S’il (Thomas) admet bien dans l’esprit du croyant un mouvement qui le porte plus loin, ce mouvement n’est plus, comme dans les textes ó il reproduisait les expressions de saint Augustin, l’élan même de la foi. Il est maintenant l’effet d’un désir qui pousse le croyant à chercher “autre chose”, c’est-à-dire à dépasser la foi pour accéder à la vie. Cette vue, sans nul doute, c’est la vision béatifique; mais les considérants de saint Thomas l’assimilent parfois en quelque sorte à un savoir: “en toute connaissance le désir de l’homme peut se reposer, car il désire naturellement connaỵtre la vérité, et quand il la connait son désir s’apaise. Mais dans la connaissance de la foi le désir de l’homme ne se repose pas: la foi est une connaissance imparfaite; on croit ce qu’on ne voit pas; aussi l’Apôtre dit qu’elle est la preuve de ce qui n’apparaỵt pas (Hb. 11, 1). Aussi quand la foi est possédée, demeure encore un mouvement de l’âme vers autre chose (adhuc remanet animae motus ad aliud): à voir parfaitement la vérité qu’il croit et à poursuivre ce par foi il pourra être introduit à une telle vérité” (Compendium Theologiae, 2, 1).
[33] Cf. H. DE LUBAC, op. cit., p. 297 trích dẫn ALBERT LE GRAND, In III Sent., dist. 23, a. 7: “La foi se fonde sur la Vérité Première; mais celle-ci peut être reçue soit dans un signe, soit en elle-même. Si l’on s’appuie sur un signe, alors on croit “à Dieu”, c’est-à-dire que l’on tient sa parole pour véridique... Mais si l’on se fixe en elle-même, ou plutôt si l’on tend vers elle, alors on croit en Dieu. Quant à l’assentiment sans tension, c’est seulement un croire que Dieu existe” (Fides enim innititur primae veritati; haec autem acciptur in signo, vel in seipsa... Si in signo innititur, tunc est credere Deo, hoc est, credere veracem qui dicit... Si autem innititur in seipsa, aut sic quod tendat in ipsam, sic est credere in Deum, aut ut assential sine tensione, et tunc est credere Deum”.
Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 59: “Une “foi morte” ne peut être tenue au départ comme une foi normale à laquelle, grâce à la charité, viendrait s’ajouter comme un ornement ultérieur, une surinformation.
Non, il nous faut partir de l’ “Amen salutis”, plénier, total, comme unité vivante qui répugne à toute vivisection; autrement nous tenterions en vain après coup d’insuffler la vie aux membres dispersés”.
Cf. H. DE LUBAC, op. cit., p. 186: “Si la foi est l’accord et l’adaptation de toute l’existence avec “Dieu et à Dieu, on peut aussi bien appeler la foi une obéissance, et elle l’est en effet”.
Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 132: “C’est par une libre décision (toujours portée par une grâce qui la prévient et l’accompagne) que par la connaissance (elle aussi rendue possible par la lumière de la grâce divine), je saisis le Dieu qui par amour s’ouvre à moi dans le Christ et révèle ainsi sa gloire la plus intime, son mystère, son action salvifique pour moi dans le Christ”.
Cf. J. TRUETSCH, art. cit., p. 85: “La certitude que l’on trouve dans la rencontre personnelle entre les hommes fournit le modèle qui convient pour présenter la certitude découlant d’une libre décision telle que nous l’offre la “foi au salut”; il convient mieux que le modèle de la “science des choses””.
[34] Sự ḥa hợp, cũng có nghĩa “thành cái duy nhất”. Một chuyện huyền thoại kể rằng, hồi đó Tạo Hóa tách đôi một sinh vật mà Ngài gọi một nửa là người nam và một nủa khác là người nữ; V́ thế trong suốt cuộc sống của hai người, mỗi người luôn luôn đi t́m một nửa khác của ḿnh, và họ chỉ thấy hạnh phúc khi t́m được nửa khác của ḿnh. Phải chăng đó là t́nh yêu?
[35] Ca dao Việt Nam chúng ta nói:
“Ḿnh với ta, tuy hai mà một;
Ta với ḿnh, tuy một mà hai”.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị của Kitô giáo, cũng giúp các tín đồ thấy rơ điều này.
[36] J. TRUETSCH, art. cit., p. 97: “Le concept de “cognitio per connaturalitatem” dû à saint Thomas est d’un grand secours pour étudier la connaissance de credibilité”. Cf.
ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 45, a. 2; q. 1, a. 4, ad 3; q. 2, a. 3, ad 2
S. THOMAS, In III Sent., d. 23, q. 3, a. 3, sol. 2 ad 2.
[37] J. TRUETSCH, art. cit., p. 126: “Mais selon notre position, qui paraỵt justifiée, la grâce est le fondement d’une connaissance qui est surnaturelle à la fois dans sa forme psychologique et dans son objet formel, d’une connaissance de Dieu selon son être le plus intime; aussi pouvons-nous et devons-nous admettre qu’il existe à l’intérieur de la foi théologale une connaissance surnaturelle de sa crédibilité, connaissance qui ne constitue en aucune manière un “medium quo” créé entre le Dieu qui révèle et l’homme qui lui répond dans la foi”.
[38] S. THOMAE In Boethium de Trin., q. 3, a. 1, ad 4: “Fides est assimilatio ad cognitionem divinam, in quantum... inhaeremus primae veritati propter ipsam”.
Cf. M-D. CHENU, La foi dans l'intelligence, CERF-PARIS 1964, P. 95 note 3.
[39] R. AUBERT, op. cit., p. 487-488: “Contrairement à beaucoup des théologiens, saint Thomas ramène à l’ordre de la foi la connaissance qu’Adam innocent avait de Dieu, de même que la contemplation mystique”.
Vấn đề được đặt ra với quan điểm trên của thánh Thomas về các nhà thần bí: phải chăng những người này không có “thị kiến”?
Ibidem:
“Or n’y-a-t-il pas cependant vision dans ces cas? Que deviennent l’obscurité de la foi et son origine ex auditu? Saint Thomas répond que toute inspiration intérieure est à considérer comme une locution et que l’on est, dès lors, en droit de parler, dans ce cas, d’une connaissance par témoignage”.
[40] J. TRUETSCH, art. cit., p. 71: “Il faut pourtant se garder encore d’une erreur d’interprétation: si tout est grâce, la grâce ne supprime pourtant en rien ce qui est humain, elle ne l’écrase pas, ne le rend pas superflu; bien que contraire, elle le présuppose: non destruit, sed perficit et elevat”.
[41] 1Thess. 5, 23: “Xin chính Thiên Chúa b́nh an thánh hóa anh em, cả con người toàn diện, khiến cho thần trí, linh hồn và thân xác anh em được ǵn giữ vẹn toàn vô t́ tích trong ngày quang lâm của Đức Yêsu Kitô”.
[42] H. U. VON BALTHASAR, op. cit., p. 210: “L’histoire de la conversion de saint Augustin est l’histoire de la transformation d’une sensibilité qui passe de l’amour charnel à l’amour divin: “En tout homme qui se convertit à Dieu, la délectation et les délices sont changées, car elle ne sont pas supprimées mais transformées” (En. in Ps. 74, n. 1 [PL. 36, 946]. Pourtant cette transformation est due non pas d’abord à un effort de l’homme, mais à un acte libre décisif de Dieu”.
[43] R. AUBERT, op. cit., p. 60: “L’habitus de foi oriente donc vers les vérités vraiment révélées et, dans ce sens, on peut dire qu’il écarte négativement les erreurs; mais il ne les rend nullement impossibles; ailleurs c’est surtout au don de science, l’un des dons du Saint Esprit qui perfectionnent la foi, que saint Thomas attribue la faculté de discerner avec exactitude ce qu’il faut croire exactement, quid fide tenere debeat (ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 8, a. 6; q. 9, a. 1, corp., ad 2m et ad 3m)”.
[44] Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 60 et note 39: “Tout comme on adhère aux premiers principes par la lumière naturelle de l’intelligence (sans aucun raisonnement discursif), de même l’homme vertueux, grâce à sa vertu, juge avec exactitude de ce qui concerne cette vertu; c’est de même manière que, grâce à l’habitus infus de foi, l’homme adhère aux vérités de foi, et non à ce qui leur est contraire” (ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q. 2, a. 3, ad 2m).
ST. THOMAS, S. T., IIa-IIae, q.1, a. 4, ad 3m: “Lumen fidei facit videre ea quae creduntur; sicut enim per alios habitus virtutum homo videt illud quod est sibi conveniens secundum habitum illum; ita etiam per habitum fidei inclinatur mens hominis ad assentiendum his quae conveniunt rectae fidei et non aliis”.
Cf. E. SCHILLEBEECKX, Approches théologiques,
1: Révélation et théologie Trd. P. BOURGY, CEP-BRUXELLES 1965, p. 294: “La nature humaine, dit Seckler, en tant qu’elle a été constituée en centre d’action, est une décision de Dieu devenue nature en vue de la réalisation du bien”. L’instinct de foi, comme “instinct du divin” est identique, ainsi qu’il ressort de la suite de l’analyse de Seckler, à la tendance naturelle propre de l’homme (dont le desir naturel, par exemple, est l’acte) ou à l’orientation de l’homme vers l’Absolu... Avant même que l’homme perçoive telle ou telle valeur (philosophique ou théologique), Dieu le meut déjà vers le bien... L’instinct, par conséquent, doit être situé dans la ligne de la création continue qui, du côté de l’homme, est une tendance devenue nature. Il y a dans l’homme un instinct fondamental, une “sympathie”, qui le porte vers tout ce qui a une valeur pour lui. Cette sympathie, dit Seckler, n’est pas une donnée expérimentale. Elle n’a aucune portée psychologique mais uniquement une signification ontologique. “Sie ist mit Wesensform des Menschen gegeben””.
[45] Cf. R. AUBERT, op. cit., p. 61 et note 43:
“Le jugement moral n’est plus, dès lors, le résultat de notions mais procède immédiatement de l’examen de l’inclination droite de l’appetit, vécue et expérimentée par le sujet qui juge (P. ROUSSELOT, L'intellectualisme de St. Thomas, 3è. éd., pp. 70-72). D’une manière analogue, habitus de foi permettrait de connaỵtre les vérités à croire, non plus per viam rationis, mais per viam connaturalitatis.
Croire ne consiste pas seulement à prendre connaissance de certains objets de la connaissance divine; c’est une participation réelle à la connaissance divine”.
J. TRUETSCH, art. cit., p. 97:
“À la différence de ce qui se passe dans la connaissance “rationnelle” ou “scientifique”, les dispositions “habituelles” du sujet connaissant jouent ici le rôle principal; par elles, l’homme est ouvert à l’objet de telle manière que, par réaction spontanée, il y appréhende ce qui correspond à sa nature ou (pour le bien surnaturel du salut, qui doit être saisi dans la foi) à sa “surnature””.
[46] Nếu không yêu, th́ người ta sẽ phủ nhận hoặc muốn phủ nhận, dù người ta không thể phủ nhận được. Có những người từ chối sống trong t́nh yêu của Thiên Chúa, hoặc từ chối không nhận “Thiên Chúa yêu thương họ”, thái độ của họ là “không ưng thuận” hay “từ chối” với ngôi vị và thực tại, và như vậy họ không chấp nhận “Thiên Chúa hiện hữu”. Nói như vậy không có ư muốn nói, tất cả những người không tin Thiên Chúa hiện hữu đều là những người từ chối Thiên Chúa cách cố t́nh và đều phải sa hỏa ngục cả. Có thể một người nói họ không tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng thực sự họ vẫn chấp nhận Thiên Chúa và t́nh yêu của Ngài trong đời họ một cách nào đó.