HOME THẦN HỌC DẪN NHẬP THẦN HỌC DNTH1 DNTH2 DNTH3 DNTH4 DNTH5
DẪN NHẬP
THẦN HỌC
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
Đức Yêsu Kitô và lịch sử cứu độ
Đối tượng chất thể và hình thể của thần học
THƯ MỤC
Phần trước đã tìm hiểu ý nghĩa từ
ngữ “thần học”, trong phần này sẽ tìm hiểu đối tượng thần học xét như một khoa
học, sau đó đích nhắm của thần học, và cuối cùng xem việc phân chia các môn
trong thần học.
Một
số người cho rằng đối tượng của thần học đã hàm chứa trong từ ngữ “thần học”.
Thần học là “lời về Thiên Chúa” và “lời của Thiên Chúa”, nên đối tượng của thần
học là Thiên Chúa.
Trường
phái Thomas cho rằng: đối tượng của thần học là Thiên Chúa, nghĩa là, như Thiên
Chúa biết chính Ngài và Ngài thông truyền cho chúng ta nhờ mặc khải23.
Một
số thần học gia khác cho rằng: mặc khải đến với chúng ta qua những biến cố xảy
ra trong dòng lịch sử nhân loại, và chính những biến cố này cấu thành lịch sử
cứu độ; chẳng hạn Cựu ước tường thuật những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho
dân Ngài, và Tân Ước là Tin Mừng về đức Giêsu Kitô; thế nên, đối tượng của thần
học là đức Kitô và lịch sử cứu độ[1].
Như vậy đối tượng của thần học là
gì?
Thiên Chúa hay đức Kitô?
Thiên Chúa hay nhiệm cục cứu độ?
Theo E. Mersch, đối tượng chất thể
của thần học gồm cả đối tượng chính là Thiên Chúa lẫn đối tượng thứ yếu là
những công trình của Thiên Chúa. Đối tượng trung tâm của thần học không là gì
khác ngoài Đức Kitô toàn thể, hay Đức Kitô mầu nhiệm[2].
Phê
bình:
Đồng
ý rằng: Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ; Đức Kitô toàn thể (Christ
total) là đối tượng chất thể của thần học; Mầu nhiệm cứu độ khả tri nhờ Đức
Kitô; Đời sống thần linh được ban cho con người nhờ và trong Đức Kitô;
nhưng với những điều đó, liệu có thể nói Đức Kitô là
đối tượng hình thể (objet formel) của thần học không?
Câu
trả lời là không, vì những lý do sau
đây:
·
Theo 1Yn.4, 9.16, Đức
Kitô là Đấng biểu lộ chương trình tình yêu của Thiên-Chúa-cứu-độ trong lịch sử;
nhưng đối tượng tối hậu của đức tin và của thần học, là
ThiênChúa-cứuđộ-conngười-qua Đức Kitô;
·
Theo 1Cor.3, 23: “anh
em thuộc về Đức Kitô, còn Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”; và theo Eph.1, 3-7:
Thiên Chúa là chính;
trong khi đó theo viễn ảnh của Mersch, mầu nhiệm Ba
Ngôi và sứ vụ thần linh là thứ yếu[3].
Bây
giờ xem lập trường của trường phái Thomas. Với trường phái này, đối tượng chất thể
của thần học là Thiên Chúa, còn đối tượng hình thể của thần học là Deus sub
ratione deitatis, nghĩa là Thiên Chúa như là Thiên Chúa[4].
Về
đối tượng chất thể của thần học, thánh Thomas nói trong Summa Theologiae I,
q.1, a.7: “Trong khoa học thánh, người ta có thể bàn về mọi sự liên hệ đến
Thiên Chúa, hoặc vì những điều này thuộc về Thiên Chúa (yếu tính, thuộc tính,
ngôi vị), hoặc vì những điều này quy về Thiên Chúa như nguồn gốc và đích điểm
(các tạo vật, các hành vi nhân linh, lề luật, ân sủng, các nhân đức, các bí
tích)”.
Về
đối tượng hình thể, đó là chính Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ con người qua
Đức Kitô, là Thiên Chúa mặc khải trong dòng lịch sử, là Thiên Chúa tỏ mình là
Ba Ngôi Vị. “Tất cả thần học đều quy tóm về mầu nhiệm Ba Ngôi và Nhập Thể,
nghĩa là về mầu nhiệm Thiên Chúa trong đời sống thâm sâu của Ngài, và về nhiệm
cục cứu độ (các phương tiện dẫn con người đến với Ngài)” (St. Thomas, S.T.,
IIa-IIae, q.1, a.8; q.2, a.5).
Chân
lý trung tâm của kho tàng mặc khải, cũng như ý tưởng chủ đạo hướng dẫn tiến
trình mặc khải từ Cựu Ước đến Tân ước, là Thiên Chúa cứu độ con người nhờ Đức
Kitô. Chính chân lý này nối kết và thống nhất cả hai giao ước[5].
Mầu
nhiệm Ba Ngôi cũng chỉ được mặc khải trong viễn cảnh cứu độ, để con người hiểu
rằng Thiên Chúa Cha yêu thương và cứu độ con người qua Đức Kitô và trong Thánh
Linh tình yêu[6].
Thần học (theologia) là những lời về
Thiên Chúa. Nhưng những lời về Thiên Chúa (logia) thì không đồng nhất với Thiên
Chúa (chỉ có Logos đồng nhất với Thiên Chúa). Thiên Chúa vượt trên thần học, vì
thần học là một khoa học, thuộc về tạo vật nên không thể nắm bắt và gói trọn
được Thiên Chúa.
Đối
tượng chất thể của thần học là những tạo vật, là lịch sử cứu độ, là các mầu nhiệm
Chúa Kitô, là các tín điều, v.v. Đối tượng hình thể của thần học là chính Thiên
Chúa như là Thiên Chúa, là Thiên Chúa Ba Ngôi Vị, là chủ thể tự do chứ không là
những sự vật.
Thần
học là một khoa học thực hành hay là một khoa học lý thuyết? Thần học nhằm mục
đích điều chỉnh hành động của chúng ta, giúp chúng ta sống tốt hơn, hay thần
học chỉ nhằm giúp chúng ta biết chân lý, biết để biết thôi?
Có
những lập trường khác nhau, chúng ta có thể tóm lại thành bốn câu trả lời:
·
Đối với Henri de Gand
(†1293), thần học đơn thuần là khoa học lý thuyết, vì thần học nhắm tri thức và
chiêm ngắm (qeorew) Thiên Chúa.
·
Đối với Alexandre de
Hales, Albert le Grand, Duns Scot, thần học đơn thuần là khoa học thực hành, vì
thần học sưởi nóng lòng sùng kính và thúc đẩy ý muốn hướng đến sự Thiện tốùi
hậu[7].
·
Thánh Thomas cho rằng,
làm thần học để trở nên tốt hơn và để dẫn người ta đến sự thánh thiện, nhưng
thần học chủ yếu là tri thức lý thuyết (S.T., Ia, q.1, a.4).
·
Thánh Bonaventura cho
rằng: thần học là khoa học vừa lý thuyết vừa thực tiễn, nhưng chủ yếu là thực
tiễn, vì thần học nhắm đầu tiên đến việc làm cho chúng ta tốt hơn (I Sent.,
Proemium, q. 3)[8].
Theo
R. Latourelle, thần học hiện tại có nhiều hướng phục vụ hơn ngày xưa[9].
Nét đặc trưng của hoạt động thần học hiện đại, là ý thức phục vụ Giáo hội hiện
tại[10].
Trong
chiều hướng này chúng ta thấy mục đích của việc học thần học là đào tạo các
linh mục và những tông đồ, vì sứ mạng đầu tiên của linh mục là loan báo lời cứu
độ của Thiên Chúa (cf. P.O., 4)[11].
Trong
thần học, chúng ta thường nghe nói tới thần học căn bản, thần học tín lý, thần
học luân lý, thần học tu đức, thần học mục vụ, thần học truyền giáo, thần học
hiệp nhất, v.v.; nhưng ở những thế kỷ đầu trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta
không thấy như vậy. Sự phân chia hay chuuyên biệt hóa này đã xảy ra theo nhu
cầu của thời đại.
Thần
học thiêng liêng
Ở
thời thánh Thomas và Bonaventura, thần học thần bí vẫn nằm trong thần học;
nhưng từ thế kỷ XV đã có nhiều chuyển biến, và sang thế kỷ XVI đã xuâát hiện
những tác phẩm thiêng liêng không còn khởi từ thần học suy lý như nguồn cảm
hứng, và hơn nữa tác giả của những tác phẩm này còn được coi như những thần học
gia đúng nghĩa[12].
Thần
học thần bí, sau đó chuyển biến cả về nội dung lẫn tên gọi, thành thần học tu
đức hay thần học thiêng liêng.
Thần
học luân lý
Từ
thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, đã có nhiều thủ bản thực tiễn dành cho các cha giải
tội. Nhưng từ cuối thế kỷ thứ XVI, luân lý trở thành một lãnh vực riêng thoát
khỏi ảnh hưởng trực tiếp và cố hữu của tín lý [13].
Thần
học kinh viện và thần học tích cực
Grégoire
de Valence trong Commentarii theologici xuất bản năm 1591 đã nói về việc chia
thần học ra làm thần học kinh viện (suy lý) và thần học tích cực. Thánh Inhã Loyola
cũng nói thần học gồm kinh viện và tích cực (LT. 363).
Thần
học tích cực đã ra đời từ khi thần học kinh viện có khuynh hướng bỏ những vấn
đề liên quan đến nhiệm cục lịch sử cứu độ[14].
E. Schillebeeckx cũng cho rằng phong trào trở về nguồn của nhân bản thuyết, đã
làm phát sinh sự phân biệt giữa thần học kinh viện và thần học tích cực[15].
Theo
Y. Congar, “thần học tích cực” có hai nghĩa trong lịch sử : một theo quan niệm
văn chương và một theo quan niệm phương pháp. Nghĩa đầu tiên cũng là nghĩa
thánh Inhã Loyola dùng, và nghĩa này rất phổ biến, tiêu biểu cho một cách thức
làm thần học; còn nghĩa thứ hai được dùng trong chiều hướng của Cano, nó chỉ là
một phần của thần học hay một chức năng mà nhờ đó thần học thiết lập những
nguyên tắc, những nền tảng, những dữ kiện để suy tư[16].
Do
những chỉ trích phê bình của các nhà cải cách Tin lành cũng như của những lạc
giáo, một trong những nỗ lực của thần học tích cực là cho thấy sự hòa hợp giữa
giáo huấn của Giáo Hội hiện tại với các chứng từ kinh thánh và các giáo phụ[17].
Thần học hộ giáo (théologie apologétique)
Do
ảnh hưởng của ly giáo và của phong trào duy lý, thần học hộ giáo phát sinh nhằm
biện minh: Huấn Quyền được Thiên Chúa trao sứ mạng loan báo mặc khải siêu nhiên
cho con người (demonstratio catholica et christiana).
Trước
giữa thế kỷ XVII hộ giáo vẫn nằm chung với tín lý trong giáo trình kinh viện
bàn về đức tin: sự khả tín và sự chắc chắn chủ quan của đức tin. Từ giữa thế kỷ
XVII trở đi, hộ giáo trở thành một giáo trình riêng và thường có tính bút chiến[18].
Ngày
nay từ ngữ “thần học căn bản” thay thế thần học hộ giáo[19].
Thần
học tín lý
Từ
ngữ “tín lý” (dogmaticus) đã có trong thần học và được dùng để đối lập với
“luân lý”, nó chỉ cái gì lý thuyết, bao gồm thái độ và những khẳng định ý thức
hệ chắc chắn[20].
Vào
khoảng những năm 1680, thần học công giáo không còn dùng từ ngữ “tín lý” để đối
nghịch với “luân lý” nữa, nhưng để đối nghịch với “kinh viện”. Thần học tín lý
ở đây nhằm thiết lập cái gì thuộc về đức tin được mặc khải, và không bận tâm
đến những vấn đề kinh viện.
Thần
học tín lý hiện tại trình bày giáo lý công giáo không như một hệ thống, nhưng
như một giải thích dữ kiện đức tin trong tương quan rất gần với nguồn và với
cách diễn tả của các nguồn này[21].
Thần
học mục vụ, truyền giáo, hiệp nhất
Vào thế kỷ XX này, do nhu cầu và hoàn cảnh mục vụ, truyền
giáo và hiệp nhất, đã xuất hiện nhưng giáo trình riêng biệt về mục vụ, hiệp
nhất và truyền giáo[22].
Thần
học giải phóng
Khởi phát giữa các cộng đoàn kitô hữu tham dự vào phong
trào giải phóng ở Châu Mỹ La Tinh, thần học giải phóng không chỉ suy tư và giải
thích dưới ánh sáng Lời Chúa tiến trình và công cuộc giải phóng trong hoàn cảnh
và những điều kiện lịch sử và chính trị cụ thể hôm nay, mà còn giải thích lại
sự phong phú của đức tin[23],
khởi đi từ việc thực hiện công cuộc giải phóng này.
Ở trên đã lược qua tiến trình chuyên biệt hóa trong thần
học, bây giờ sẽ liệt kê các giáo trình thần học được giảng dạy trong các phân
khoa thần học. Cụ thể, xin lấy chương trình của Giáo Hoàng Học Viện thánh Piô
X- Đà lạt vào những niên khóa 73-74, 74-75 làm thí dụ.
Thần
học căn bản:
Vấn đề Thiên chúa và tôn
giáo.
Mặc khải.
Đức Tin như lời đáp.
Nguồn gốc Giáo Hội và cơ cấu
Giáo Hội.
Các nôi thần học (de locis
theologicis).
Dẫn nhập thần học: vấn đề
thần học.
Thần
học tín lý:
Mầu nhiệm Thiên Chúa duy
nhất, ba ngôi.
Nguồn gốc thế giới và con
người. Trật tự siêu nhiên. Tội.
Kitô học (Nhập thể, Cứu
chuộc).
Thánh Mẫu học.
Ân sủng và các nhân đức.
Mầu nhiệm Giáo hội.
Bí tích đại cương. Các bí tích
khai tâm. Các bí tích khác.
Cánh chung học.
Kinh
thánh:
Dẫn nhập tổng quát vào Cựu
và Tân Ước.
Tin Mừng nhất lãm và Công vụ
sứ đồ.
Các thư Phaolô và các thư
công giáo.
Tin Mừng thứ tư và các thư
Yoan.
Dẫn nhập đặc biệt vào Cựu
Ước (sách lịch sử, tiên tri, khôn ngoan).
Chú giải những đoạn chọn lọc
trong Cựu Ước.
Những chủ đề giáo lý chính
của Cựu và Tân Ước.
Thần
học luân lý:
Luân lý căn bản (Mục đích con người; Trách nhiệm; Luật; Lương tâm; Tội).
Luân lý chuyên biệt:
Các giới răn Thiên Chúa (I-IV, V, VIII) và giới răn Giáo Hội.
Công bình (giới răn 7 và
10).
Luân lý các bí tích (trừ Hôn
phối).
Giới tính (giới răn 6 và 9)
và Hôn phối.
Các nhân đức đối thần: tin ,
cậy, mến.
Thần
học mục vụ:
Hùng biện.
Thánh nhạc.
Những nguyên tắc thần học
của mục vụ.
Mục vụ phụng vụ.
Tông Đồ giáo dân.
Săn sóc các linh hồn.
Huấn giáo.
Các phương tiện truyền
thông.
Thần học đời sống thiêng
liêng.
Phụng
vụ thánh:
Những nguyên tắc thần học.
Năm phụng vụ.
Phụng Vụ Thánh Thể.
Các giờ kinh phụng vụ.
Các
môn học khác:
Lịch sử Giáo hội.
Lịch sử truyền giáo.
Giáo luật.
Giáo phụ.
Tiếng Hy lạp kinh thánh.
Tiếng Do thái.
Khảo cổ Kitô giáo.
Phật giáo. Ấn độ giáo.
Các tôn giáo Trung Hoa. Các
tôn giáo Việt Nam
Ở trên là chương trình nhằm đào tạo
linh mục mà tất cả các chủng sinh ứng viên linh mục đều phải học. Nếu chủng
sinh muốn lấy văn bằng cử nhân thần học, thì sẽ phải học một số môn khác, chẳng
hạn:
Các cuộc hiện ra của Chúa phục sinh: vấn đề chú giải. Phép rửa trong các
thư Phao lô (nghiên cứu thần học Kinh Thánh).
Đức tin trong văn chương Yoan (nghiên cứu thần học Kinh Thánh).
Luân lý của Tân Ước.
Thư Roma.
Tập đoàn tính của giám mục và quyền ưu tiên của giáo hoàng (nguồn gốc
vấn đề, triển khai hiện đại, các hệ quả thần học và mục vu)ï.
Các lý thuyết hiện đại về tội nguyên tổ (trình bày và tổng hợp).
Thần học “cái chết của TC”
(nghiên cứu trực tiếp các tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng này).
Thần học về hoạt động truyền
giáo.
Thần học các tôn giáo ngoài
Kitô giáo[24].
Y. M. J. CONGAR, art. “Théologie”, trong DTC. XV, PARIS 1946, col.
341-502
Y. M. J. CONGAR, La foi et la Théologie, DESCLÉE 1962
Y. M. J. CONGAR, Situation et Taches présentes de la théologie, CERF-
PARIS 1967
CL. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale, essai
d’interprétation”,
trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28
G. GUTIERRE-MERINO, art. “Mouvements de libération et Théologie”, trong
CONCILIUM 93 (1974), pp. 121-130
Bản Đánh Máy của GHHV. Piô X, “Plan d’études de la faculté de théologie”
và “Matières de la faculté de théologie”.
R. LATOURELLE, Theologia Scientia sacra, GREGORIANA 1965
R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968
AL. PIERIS, Một hướng thần học giải phóng á châu, ORBIS BOOKS 1988, bản
dịch bởi UBĐKCGVN, tp. HCM 1989
K. RAHNER, art. “A prppos de la réforme des études ecclésiastique”,trong
Est-il possible aujourd’hui de croire, MAME- FRANCE 1966
J. C. SCANNONE, art. “La théologie de la libération: évangélique ou
idéologique?,
trong CONCILIUM 93 (1974), pp. 131-138
ED. SCHILLEBEECKX, Approches thélogiques 1: Révélation et Théologie,
CERF- BRUXELLES 1965
G. SOHNGEN, art. “La Sagesse de la théologie par la voie de la Science”,
trong MYSTERIUM SALUTIS t.1, vol. IV, pp. 159-250
J. R. DE DIEGO, Theologia Scientia Sacra: introductio in theologiam,
ĐALAT 1969
(cours rénéotypé du col. Pont. Pie X)
LNC 141252
ĐL.240238
HOME THẦN HỌC DẪN NHẬP THẦN HỌC DNTH1 DNTH2 DNTH3 DNTH4 DNTH5
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
23 St. THOMAS, S.T., Ia, q. 1, a. 6
cf. R. LATOURELLE, op. cit., pp. 37.23
[1] Ibidem
[2] R. LATOURELLE, op.cit., p.30
[3] R. LATOURELLE, op. cit., pp. 30-32.
Không được lẫn lộn vấn đề đối tượng thần học và vấn đề hệ thống thần học. Nếu một khi đã chấp nhận đối tượng thần học là Thiên Chúa như là Thiên chúa , người ta có thể tùy ý chọn hệ thống thần học nào đó; chẳng hạn hệ thống quy Kitô, hay quy thần, hay hệ thống thần học quy giáo hội, hay quy nhân (anthropocentrique).
Một điều nữa nên lưu ý về khuynh hướng tách rời và đối nghịch giữa thần học và nhiệm cục cứu độ.
Theo E. Schillebeeckx, sđđ, trg. 81: “Ở thế kỷ IV, các thần học gia Byzantin thường đối nghịch giữa “thần học” (theologia) và “nhiệm cục” (oikonomia). Thần học khi đó dùng để chỉ “giáo lý về Chúa Ba Ngôi”, nghĩa là những gì liên hệ đến thần tính, đối nghịch với nhiệm cục cứu độ”.
[4] R. LATOURELLE, op. cit., p. 23
[5] Ibidem, p. 26-27
[6] Ibid., p. 25
[7] Alexandre de Hales gọi thần học là khoa học tâm tình (science affective); Albert le Grand gọi thần học là “tri thức hướng tới lòng sùng mộ”. Thế nhưng một số đông các sinh viên và các thần học gia cảm thấy sự bất cân xứng giữa đời sống thiêng liêng và đời sống tri thức. Dường như thần học làm họ xa cách Thiên Chúa, làm họ khô khan, chứ không nuôi dưỡng họ (cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 233).
[8] R. LATOURELLE, op. cit., p. 63-65
Khi bàn về đời sống thiêng liêng của các thần học gia, R. Latourelle trong sách đã dẫn, trang 233-234 viết:
Thần học tự bản chất, không là đời sống thiêng liêng; nhưng tri thức về Thiên Chúa và đời sống trong Thiên Chúa không thể là không hòa hợp được, chẳng hạn ta thấy nơi các thánh Thomas, Bonaventura, Canisius, Roberto Bellarmino, v.v... Sự bất hòa hợp, chia cắt là do hậu qủa của tộí!
[9] Khao khát được hiểu biết những điều mình tin rất mãnh liệt nơi thánh Augustinus và thánh Anselmus.
Thánh Augustinus viết:
“Desideravi intellectu videre quod credidi, et multum disputavi et laboravi”(De Trinitate XV, 28, 51 PL. 42, 1098).
“Id quod credimus, nosse et intelligere cupimus”
(De libero arbitrio II, 2, 5 PL. 32, 1243;
De Trinitate IV. 1 PL. 42, 961; XV, 27, 40 PL. 42, 1096).
Còn thánh Anselmus:
“Non tento, Domine, penetrare altitudinem tuam; Quia nullatenus comparo illi intellectum meum, sed desidero aliquatenus intelligere veritatem tuam, quam credit et amat cor meum. Neque enim quaero intelligere ut credam; sed credo ut intelligam. Nam et hoc credo quia nisi credidero, non intelligam”(Proslogion I PL. 158, 227).
Cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 214. 20
[10] R. LATOURELLE, op. cit., p. 214
[11] R. LATOURELLE, op. cit., p. 201
[12] Y. CONGAR, art. cit., col. 423-424
E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 8
Điều đáng để ý là trong Tabulae fontium traditionis christianae từ thế kỷ XV, các cha Creusen và Van Eyen đã mở một cột đặc biệt về thần học tu đức và thần bí (theologia ascetica et mystica).
[13] Y. CONGAR, art. cit., col. 424-426
Y. CONGAR, op. cit., p. 181
E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 83
“tín lý” ở đây vẫn được hiểu như nằm trong thần học kinh viện.
[14] Y. CONGAR, art. “Théologie”, trong DTC, PARIS 1946, col. 427-430
Y. congar, op. cit., p. 83.
[15] E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 83
[16] Y. CONGAR, art. “Theologie”,
[17] Y. CONGAR, art. cit., col. 430
[18] Y. CONGAR, art. cit., col. 430-431
Y. CONGAR, op. cit., p. 182
E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 83
[19] Cf. CLAUDE GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale, essai d‘interprétation”,
trong CONCILIUM n. 46 (1969), p. 11-28.
[20] Y. CONGAR, art. cit., col. 432
cf. O. RITSCHL, Das Wort dogmaticus in die Geschichte des Sprachgebrauchs bis um Aufkommen des Ausdruckes theologia dogmatica,
trong Festgabe J. Kaftan, TUBINGUE 1920, pp. 260-272.
[21] Y. CONGAR, art. cit., col. 432-434
E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 83.
[22] R. LATOURELLE, op. cit., p. 155-175 .
[23] J. C. SCANNONE, art. “La théologie de la libération; évangélique ou idéologique?”,
trong CONCILIUM 93 (1974), p. 132
G. GUTIERRE-MERINO, art. ”Mouvements de...”,
CONCILIUM 93 (1974), p. 125. 129.
[24] Dựa theo bản đánh máy của giáo Hoàng Học Viện thánh Piô X- Đàlạt “Plan d’études de la faculté de théologie”
và “Matières d’étude de la faculté de théologie”.
Cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 65