HOME THẦN HỌC DẪN NHẬP THẦN HỌC DNTH1 DNTH2 DNTH3 DNTH4 DNTH5
DẪN NHẬP
THẦN HỌC
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
THƯ MỤC
Theo R. Latourelle, phương pháp của
mỗi khoa học được xác định từ đối tượng và mục đích của nó.
Đối tượng của thần học là Thiên Chúa và chương trình cứu
độ của Ngài. Mục đích của thần học là hiểu biết Thiên Chúa và chương trình cứu
độ con người, nhằm dẫn đưa con người đến sống thiết thân với Ngài.
Phương pháp thần học bao hàm hai thời chính:
·
thứ nhất, xác định đối
tượng tin. Đây là thần học với chức năng tích cực (fonction positive);
·
thứ hai, tìm hiểu biết
đối tượng tin. Đây là thần học với chức năng suy lý (fonction spéculative).
Một số người còn gọi thần học với chức năng tích cực là
thần học tích cực hay thần học lịch sử (théologie historique), và thần học với
chức năng suy lý là thần học hệ thống (théologie systématique). Một số khác coi
thần học gồm phần tín lý[1]
(partie dogmatique) và phần hệ thống (partie systématique).
Tích cực và suy lý, tín lý và hệ thống, là hai chức năng
chính của thần học[2]; nhưng theo
Y. Congar, thần học còn có một chức năng khác nữa, đó là biện minh bảo vệ mà
ngày nay người ta gọi là thần học căn bản[3].
Trong phần này chúng ta sẽ đề cập đến ba chức năng[4]
tích cực, hộ giáo và suy lý của thần học.
Thần học tích cực thu lượm và hệ thống hóa những dữ kiện mặc
khải- tiềm ẩn hoặc minh nhiên trong Kinh Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền[5].
Thần học tích cực nghiên cứu cách thức Thiên Chúa mặc
khải cho con người, cách thức Ngài làm cho con người cảm nghiệm hữu thể thần
linh của Ngài, cũng như ý nghĩa của những hành động Ngài thực hiện trong dòng
lịch sử. Vì thế thần học tích cực nghiên cứu tương quan của Thiên Chúa với dân
Israel, cũng như việc tỏ lộ của Ngài nơi Đức Yêsu Kitô và nơi các chứng từ tông
đồ.
Thần học tích cực tìm xác định điều Thiên Chúa mặc khải,
dù rõ ràng hay ẩn tàng. Thực vậy, những tín điều “thần tính của Đức Kitô”, “Đức
Kitô có hai bản tính”, “Đức Maria vô nhiễm nguyên tội”, “Đức Maria lên trời cả
hồn lẫn xác”, đâu có cùng một mức độ rõ ràng như nhau!
Thần học tích cực nghiên cứu xem mặc khải tiến bộ như thế
nào trong lịch sử, từ đầu cho tới thời đại các tông đồ.
Thần học tích cực phải xác định đâu là điều Huấn Quyền đã
đề nghị, đề nghị cách minh nhiên hay ẩn tàng, với uy quyền nào Huấn Quyền đã đề
nghị điều đó- thường huấn hay đặc huấn (magistère ordinaire or extraordinaire).
Thần học tích cực cố gắng cho thấy trọn vẹn lịch sử đối
tượng đức tin trong toàn bộ mặc khải, trong việc lưu truyền mặc khải và tất cả
các hình thức diễn tả đức tin.
Thần học tích cực là khoa học về nội dung mặc khải, cho
biết dữ kiện mặc khải trong toàn bộ một cách khoa học, có phương pháp và thấu
đáo cặn kẽ[6].
Thần học tích cực cũng phải cho thấy rằng có sự liên tục
giữa lời giảng dạy hiện tại của Giáo Hội và sứ điệp của Giáo Hội tiên khởi.
Điều ngày nay Giáo Hội giảng dạy cũng chính là điều Giáo Hội tiên khởi đã giảng
dạy[7].
Thần học tích cực nghiên cứu ba lãnh vực, Kinh Thánh,
Truyền Thống và giáo huấn Huấn Quyền. Cả ba này tạo thành cái mà người ta gọi
là các nguồn thần học hay cái nôi thần học. Thần học phải dựa vào đó để nhận
biết mặc khải với tất cả sự phong phú và đa dạng[8].
Thần học tích cực “Kinh Thánh” dựa
vào chú giải; thần học tích cực “truyền thống” dựa trên chứng từ của các giáo
phụ, của các tiến sĩ Giáo hội, của các thần học gia, của phụng vụ, của lịch sử
Giáo Hội, cũng như đời sống đức tin hiện tại của dân Chúa.
Các giáo phụ là những người sống thời xưa, vào khoảng thế
kỷ VII ở Tây Phương và thế kỷ VIII ở Đông Phương về trước, trổi trang trong
giáo huấn chính thống cũng như về đời sống thánh thiện, được sự phê chuẩn của
Giáo Hội cách minh nhiên hoặc ẩn tàng. Nếu thiếu một trong những yếu tố này thì
không thể được coi là giáo phụ, mà chỉ được coi là những văn sĩ trong Giáo Hội,
như Origène và Tertullien.
Các tiến sĩ Hội Thánh là những người không chỉ trổi trang
trong đời sống thánh thiện, mà còn trổi vượt trong việc giáo huấn và củng cố
giáo lý trong Giáo Hội, được sự phê chuẩn đặc biệt của huấn quyền. Họ được coi
là những vị thầy đích thực trong đức tin kitô giáo.
Thần học tích cực “Huấn quyền” nghiên
cứu những tuyên bố và giáo huấn của Huấn quyền được diễn tả dưới mọi hình thức,
nhằm biết đức tin của Giáo Hội được diễn tả qua Huấn Quyền[9].
Người ta cũng nghiên cứu trên những gì các nhà thần học
nói, bởi vì nếu tất cả những nhà thần học đều nhất trí về một điểm nào đó, thì
cũng có thể coi điều đó thuộc đối
tượng phải tin.
Nghiên cứu trên phụng vụ cũng giúp xác định đối tượng
tin, vì “Lex orandi, lex credendi”.
Lịch sử Giáo Hội cũng giúp xác định và hiểu những điều
phải tin cách đúng đắn. Người ta cũng phải nghiên cứu để thấy dân Chúa trong
lịch sử đã tả diễn đức tin như thế nào, và hiện tại diễn tả ra sao. Các phạm
trù thần học như mặc khải, truyền thống, linh ứng, ân sủng, bí tích, bản tính,
ngôi vị, siêu nhiên, mầu nhiệm v.v., đều được hình thành trong dòng thời gian
với những hoàn cảnh lịch sử và văn chương nhất định[10].
Thần học tích cực sử dụng cả khoa ngôn ngữ học lẫn khoa
lịch sử, nhưng sử dụng chúng trong viễn cảnh đức tin. Thần học tích cực cũng xem Cựu ước và Tân ước là những sách
được linh ứng, và coi các tác giả được linh ứng là những chứng nhân của Thiên
Chúa. Lý trí của thần học tích cực được đức tin soi sáng và được hướng dẫn bởi
Huấn quyền [11].
Thần học tích cực thường theo tiến
trình hồi cố (régressive) hoặc phát sinh (génétique). Được gọi là tiến trình
hồi cố vì nó khởi từ giáo huấn hiện tại của Giáo Hội để đi lần lên ngọn nguồn
của giáo huấn này. Có thể xảy ra trường hợp ở ngọn nguồn này, giáo huấn ấy còn
mù mờ. Như vậy, tiến trình hồi cố khởi từ cái rõ ràng hiện tại, được diễn tả
trong giáo huấn bình thường hoặc đặc biệt của Giáo Hội, và đi lần lên nền tảng
của giáo huấn này[12].
Tiến trình phát sinh (génétique) khởi từ mặc khải, và sử
dụng những dữ kiện cùng phương pháp phê bình văn chương hoặc lịch sử để xác
định bản văn và ý nghĩa của nó- như nó là trong hoàn cảnh xã hội, văn hóa và
tôn giáo thời đó. Thần học tích cực theo tiến trình phát sinh tìm cách vẽ lại
lịch sử mặc khải đã xảy ra trong qúa khứ, từng giai đoạn một, và cố không bị
thành kiến bởi giáo huấn hiện tại của Giáo Hội chi phối. Nó cũng cho thấy các
chủ đề Kinh Thánh phát triển và hòa hợp như thế nào trong dòng thời gian. Nếu
xảy ra trường hợp kết luận của công trình nghiên cứu trái với giáo huấn chính
thức của Huấn Quyền, thì nhà thần học phải tìm một giải đáp cho sự bất tương
hợp này bằng việc nghiên cứu lại bản văn cách kỹ lưỡng và sâu xa hơn. Kết qủa
của những phân tích và nhận định, không là những sáng kiến hay do các nhà thần
học tích cực tưởng tượng ra, mà nó thực sự phải có nguồn gốc hoặc tiềm ẩn hoặc
minh nhiên nơi các bản văn[13].
Thần học nguồn[14]
theo hai tiến trình hồi cố và phát sinh, đều được tiến hành dưới sự hướng dẫn
bởi đức tin. Hai tiến trình “hồi cố” và “phát sinh”, tuy trái ngược nhau nhưng
không hoàn toàn độc lập với nhau[15].
Đây là vài tác phẩm thu tập những tài liệu nguồn, mà
những sinh viên thần học thường sử dụng:
DENZINGER,
Enchiridion Symbolorum Definitionum Et Declarationum
ROUET DE JOURNEL,
Enchiridion Patristicum
ARNODO, Enchiridion Biblicum
v.v.[16].
Thần học căn bản, theo Karl Rahner, là một yếu tố của
thần học tín lý. Thần học căn bản phải cho thấy tính khả tín của sự kiện mặc
khải trong lịch sử; thần học tín lý phải cho thấy tính khả tín của nội dung mặc
khải. Cả hai khía cạnh này đòi hỏi và bổ túc lẫn nhau[17].
Chức năng phê bình và biện minh của thần học căn bản phải
được thực hiện trong mọi giáo trình tín lý. Thần học càng ảnh hưởng khoa chú
giải (herméneutique) thì càng không có sự phân biệt giữa thần học căn bản và
thần học tín lý[18].
Sở dĩ chức năng phê bình và biện minh được đề nghị thực
hiện trong mỗi giáo trình tín lý theo gợi ý của Karl Rahner, vì làm sao có thể
thiết lập sự kiện mặc khải mà không để ý tới nội dung mặc khải[19]?
Karl Rahner đã phê bình cách thức suy nghĩ về thần học căn bản trong quá khứ,
và cho rằng, cung cách suy nghĩ và nội dung giảng dạy đó ngày nay không còn hợp
thời nữa[20]. K. Rahner
khẳng định, thần học căn bản rất cần thiết và phải tồn tại[21].
R. Latourelle gọi điều K. Rahner chủ trương là tín lý căn
bản (dogmatique fondamentale, de caractère synthétique et existentiel), mang
tính tổng hợp và hiện sinh[22];
còn Y. Congar gọi nó là tín lý hình thể (dogmatique formelle), nó triển khai
nhân học siêu việt, nghĩa là, nghiên cứu những điều kiện tiên thiên, và chỉ với
những điều kiện tiên thiên này mới có thể có mặc khải và đức tin[23].
Theo R. Latourelle, không được lầm lẫn thần học căn bản như K. Rahner đề nghị ở
trên với thần học căn bản vẫn được dùng theo nghĩa thường[24].
Thần học căn bản theo nghĩa thường dùng, chỉ giáo trình
thần học nghiên cứu những thực tại đầu tiên và căn bản của Kitô giáo[25]. Thần học căn bản còn được dùng để chỉ năm
thần học đầu tiên, các sinh viên tìm hiểu những khái niệm căn bản và những phạm
trù đầu tiên của thần học, như mặc khải, linh ứng, đức tin, huấn quyền, truyền
thống v.v[26].
Khi tìm hiểu, suy tư về mặc khải và đức tin, thần học căn
bản tìm hiểu những khái niệm và thực tại đó cách chủ quan lẫn khách quan theo
tinh thần phê bình; và như vậy nó thực thi chức năng biện minh và hộ giáo, cùng
đặt nền tảng khoa học cho thần học. Ngay trong năm đầu của thần học, sinh viên
thần học đã phải có tinh thần phê bình và biện minh, và tinh thần này phải hiện
diện trong mọi giáo trình thần học.
Thần học tích cực thu lượm và hệ thống hóa các dữ kiện
mặc khải được chứa đựng trong Truyền Thống và Kinh Thánh, được Huấn Quyền giải
thích; thần học căn bản biện minh và bảo vệ đức tin bằng việc phê bình; thần
học suy lý nhằm hiểu biết Thiên Chúa, nhờ hệ thống hóa những hiểu biết về Thiên
Chúa một cách khoa học, cũng như qua việc đánh giá những suy tư và những tổng
hợp suy tư này[27].
Theo quan điểm của Aristote, khoa học là những tri thức
chắc chắn và có thể diễn dịch. Như vậy ở thời trung cổ, khi nói đến thần học
như một khoa học, là phải hiểu đây là thần học suy lý: diễn dịch, rút từ chân
lý mặc khải ra những hệ luận chắc chắn. Thần học tích cực không có tính diễn
dịch, nên ở thời trung cổ, thần học tích cực có chỗ đứng rất khiêm tốn[28].
Là một khoa học, thần học phải có
tính chính xác và diễn dịch; nhưng những khái niệm được diễn tả trong Truyền
Thống và Kinh Thánh thường là những phạm trù tiền khoa học với những hình ảnh
biểu tượng, ẩn dụ; vì vậy để thần học là khoa học, thần học cố gắng xác định và
định nghĩa những khái niệm nó dùng, nhằm diễn tả chính xác hơn ý nghĩa chân lý
mặc khải; chẳng hạn thần học xác định ý nghĩa của từ ngữ Nước Trời, Con Người,
Thân thể mầu nhiệm v.v., trong nghĩa nào Đức Kitô là Con Thiên Chúa; cũng tương
tự như vậy thần học phải định nghĩa các từ ngữ bản tính, nhiệm xuất, sứ vụ,
tương quan..., để có thể hiểu và diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi. Chính những công
việc xác định ý nghĩa từ ngữ này giúp người ta hiểu đúng và không giải thích
sai lạc những định tín[29].
Thần học suy lý cũng phải cho thấy tương quan liên hệ
giữa các mầu nhiệm với nhau. Tất cả các mầu nhiệm đều khởi từ Thiên Chúa ngôi
vị, và chỉ được hiểu cách đúng đắn trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Cái nhìn đúng
đắn về Thiên Chúa cho chúng ta cái nhìn đúng đắn về con người; mầu nhiệm con
người được soi sáng bởi mầu nhiệm Thiên Chúa. Các mầu nhiệm không ở cùng một
mức độ nhưng liên hệ với nhau, soi sáng giúp hiểu biết lẫn nhau.
Thần học với chức năng suy lý giúp đi sâu vào mầu nhiệm,
nhất là mầu nhiệm Thiên Chúa[30];
chẳng hạn để hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi hơn, chúng ta phải cho thấy rằng, trong
nhiệm cục cứu độ
Chúa Cha đã tỏ mình đầu tiên
trong công trình tạo dựng và trong việc nâng con người lên sống trong tình thân
hữu với Thiên Chúa,
Chúa Con thực hiện công
trình cứu chuộc qua Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh, và thiết lập Giáo Hội,
Thánh Thần thánh hóa các
linh hồn và thâu họp tất cả trong thân thể mầu nhiệm [31].
Thần học suy lý xét như một khoa học, còn phải hệ thống
hóa các tri thức về Thiên Chúa. Mỗi hệ thống hình thành bởi nguyên tắc được
chọn theo từng trường phái, và như vậy có nhiều tổng hợp thần học; chẳng hạn thần học theo thánh Thomas chịu ảnh
hưởng triết học Aristote, và có chiều kích qui thần (théocentrique), thần học
rao giảng (théologie kérymatique) có tính quy Kitô v.v..
Mỗi hệ thống thần học đều có chung điểm tới, là cố gắng
tiếp cận và diễn đạt Mầu Nhiệm Vĩnh Cửu Ngôi Vị. Mỗi hệ thống thần học hay mỗi
tổng luận thần học đều có giới hạn riêng của nó, bởi vì
·
thần học là lời về
Thiên Chúa, lời con người về Thiên Chúa. Mỗi ngôn ngữ có những giới hạn như khả
năng giới hạn của con người, và như con người không bao giờ có thể hiểu trọn
một ngôi vị, thì con người hữu hạn cũng không bao giờ có thể hiểu trọn Thiên
Chúa ngôi vị, và con người cũng chẳng bao giờ có thể dùng ngôn ngữ con người để
diễn đạt trọn vẹn Thiên Chúa được; nên ngôn ngữ thần học thường là ngôn ngữ
loại suy[32];
·
thần học có thể sử dụng
những hệ thống triết học khác nhau, chẳng hạn triết học Aristote, triết Platon,
triết hiện sinh v.v; hệ thống triết học cũng chỉ là phương tiện dùng để chuyển
tải và diễn đạt Thực Tại;
·
diễn tả Thiên Chúa theo
não trạng và nền văn hóa khác nhau, chẳng hạn người Đông phương hay Tây phương[33];
·
có những đích nhắm khác
nhau, chẳng hạn khía cạnh cứu độ nơi thánh Bonaventura, khía cạnh chân lý nơi
thánh Thomas.
Về các hệ thống thần học, chúng ta có thể nói đến hệ
thống quy thần (systématisation théocentrique), quy Kitô (Christocentrique),
quy giáo hội (ecclésio-centrique), hoặc quy nhân (anthropocentrique)[34].
Mỗi hệ thống đều bàn về mọi vấn đề thần học, nhưng có điểm quy chiếu tùy theo
điểm nhấn hoặc điểm gợi hứng của từng hệ thống: hoặc Thiên Chúa, hoặc Đức Kitô,
hoặc Giáo hội, hoặc con người.
Y. M. J. CONGAR, art. “Théologie”, trong DTC. XV, PARIS 1946, col.
341-502
Y. M. J. CONGAR, La foi et la Théologie, DESCLÉE 1962
Y. M. J. CONGAR, Situation et Taches présentes de la théologie, CERF-
PARIS 1967
CL. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale, essai
d’interprétation”,
trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28
G. GUTIERRE-MERINO, art. “Mouvements de libération et Théologie”, trong
CONCILIUM 93 (1974), pp. 121-130
Bản Đánh Máy của GHHV. Piô X, “Plan d’études de la faculté de théologie”
và “Matières de la faculté de théologie”.
R. LATOURELLE, Theologia Scientia sacra, GREGORIANA 1965
R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968
AL. PIERIS, Một hướng thần học giải phóng á châu, ORBIS BOOKS 1988, bản
dịch bởi UBĐKCGVN, tp. HCM 1989
K. RAHNER, art. “A prppos de la réforme des études ecclésiastique”,trong
Est-il possible aujourd’hui de croire, MAME- FRANCE 1966
J. C. SCANNONE, art. “La théologie de la libération: évangélique ou
idéologique?,
trong CONCILIUM 93 (1974), pp. 131-138
ED. SCHILLEBEECKX, Approches thélogiques 1: Révélation et Théologie,
CERF- BRUXELLES 1965
G. SOHNGEN, art. “La Sagesse de la théologie par la voie de la Science”,
trong MYSTERIUM SALUTIS t.1, vol. IV, pp. 159-250
J. R. DE DIEGO, Theologia Scientia Sacra: introductio in theologiam,
ĐALAT 1969
(cours rénéotypé du col. Pont. Pie X)
LNC 141252
ĐL.240238
HOME THẦN HỌC DẪN NHẬP THẦN HỌC DNTH1 DNTH2 DNTH3 DNTH4 DNTH5
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Phần tín lý gồm lời dạy của Kinh Thánh, Giáo Phụ, Huấn Quyền.
[2] R. LATOURELLE, op. cit., p. 65-66
[3] Thần học căn bản có hai nghĩa, hoặc nó được dùng để chỉ chức năng hộ giáo- bảo vệ hay biện minh, hoặc nó được dùng để chỉ một phần của thần học gồm các môn Mạc Khải, Đức Tin xét như lời đáp của con người với mặc khải , Huấn Quyền.
Cf. CLAUDE GEFFRÉ, art. “L’ histoire récente de la théologie fondamentale”, trong CONCILIUM 46 (1969), p. 11
cf. DICTIONNAIRE DE LA FOI CHRÉTIENNE, I, PARIS 1968, col. 769
cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 105 note 2
cf. Y. CONGAR, op. cit., p. 183
[4] Ba chức năng của thần học này còn thường được gọi là thần học tích cực, thần học căn bản, và thần học suy lý.
[5] R. LATOURELLE, op. cit., p. 83. 69
cf. Y. CONGAR, art. “Théologie”, trong DTC XV, 1: 462
[6] R. LATOURELLE, op. cit., p. 70-71
[7] Ibid., p. 75-76
[8] Ibid., p. 72
[9] Ibid., pp. 72-75
[10] R. LATOURELLE , op. cit., pp. 74-75. 95
[11] R. LATOURELLE, op. cit, p., 77
[12] R. LATOURELLE, op. cit., p. 78
[13] R. LATOURELLE, op. cit., p. 79-80
[14] Thần học tích cực, nghiên cứu suy tư trên các tài liệu căn bản và nguồn gốc của thần học.
[15] R. LATOURELLE, op. cit., p. 81
[16] Về việc sử dụng DENZINGER, xin xem Y. CONGAR, Situation et taches présentes de la Théologie, CERF 1967, pp. 111-134
[17] K. RAHNER, A propos de la réforme des études ecclésiastiques,
trong Est-il possible aujourd’hui de croire, p. 202
[18] CLAUDE GEFFRÉ, art. cit, trong CONCILIUM 46, p. 21
cf. K. RAHNER, “Théologie et anthropologie” trong Théologie d’aujourd‘hui et de demain, PARIS 1967, pp. 100-101. 115. 116
(The Word in History, NEW YORK)
[19] R. LATOURELLE, op. cit., p. 103
cf. R. RAHNER, “A propos de la Réforme des études ecclési-astiques”,
trong Est -il possible aujourd’hui de croire, PARIS 1966, p. 203
[20] K. RAHNER, art. cit., p. 180
[21] K. RAHNER, art. cit, p. 180
[22] R. Latourelle, op. cit., p. 105 note 2
cf. K. RAHNER, art. cit., p. 175-225
[23] Y. CONGAR, Situation et taches présentes de la théologie,
CERF 1967, p. 19
[24] R. LATOURELLE, op. cit., p. 105 note 2
[25] Ibidem
[26] Ibidem
[27] R. LATOURELLE, op. cit., p. 86 tt
[28] R. LATOURELLE, op. cit., p. 84
[29] R. LATOURELLE, op. cit., pp. 86-87. 95
[30] R. LATOURELLE, op. cit., pp. 86-89
[31] R. LATOURELLE, op. cit., p. 90
[32] R. LATOURELLE, op. cit., pp. 88-89
[33] R. LATOURELLE, op. cit., p. 91
[34] R. LATOURELLE, Théologie- Science du Salut,
PARIS 1968, p. 32