HOME THẦN HỌC DẪN NHẬP THẦN HỌC DNTH1 DNTH2 DNTH3 DNTH4 DNTH5
DẪN NHẬP
THẦN HỌC
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
THƯ MỤC
Nói tới tri thức, là đã hàm chứa
phải có lý trí và ngôn ngữ. Mỗi khoa học đều có những tiên đề (axiomes). Những
tiên đề là những điều hiển nhiên, đơn giản đến độ không thể chứng minh được
nữa; chẳng hạn nơi hình học có tiên đề “đường thẳng là đường ngắn nhất giữa hai
điểm”.
Từ những tiên đề này người ta đi tới những tri thức chắc
chắn khác có thể chứng minh được dựa trên các tiên đề[1]
và những định nghĩa[2].
Đâu là tiên đề của triết học? Đó là:
Có một tương quan hữu cơ nội
tại giữa các hữu thể.
Đây là điều kiện nền tảng,
là giả sử cơ bản của mọi khoa học vì triết học là khoa học nền tảng của mọi
khoa học[3].
Nếu phủ nhận tương quan hữu thể này, là phủ nhận mọi tương quan nhân quả giữa
hữu thể, giữa vạn sự vạn vật.
Mỗi hệ thống triết học lại có những
tiên đề của nó, dù nó có được minh nhiên nói tới hay không. Chẳng hạn triết của
Karl Marx chủ trương duy vật, phủ nhận tinh thần, và như vậy tiên thiên phủ
nhận tương quan hữu hạn- vô biên, phủ nhận khả năng đọc được cái vô biên siêu
việt nơi những cái cụ thể, đưa tới vô thần. Triết học Aristote-Thomas, chấp
nhận tri thức phổ quát có được nhờ tri thức những vật cụ thể đặc thù bằng khả
năng trừu xuất của ly ùtrí, và như vậy dễ đi đến chấp nhận hữu thể tuyệt đối.
Những tiên đề của các khoa học và
những tiên đề của triết học, liệu có thể gọi được là những niềm tin khoa học và
niềm tin triết học không[4]?
Hành vi tin đúng nghĩa, không là tin vào sự vật hay điều
gì đó, mà là tin vào ngôi vị. Tin là thái độ của ngôi vị đối với ngôi vị. Tiên
đề khoa học là những điều mà nhiều người cho là đúng; và như vậy có thể nói,
những người chấp nhận những tiên đề đó, tin vào chính mình, họ cho rằng ý kiến
hay cái nhìn của họ là đúng, là chân lý. Hiểu như vậy, có thể cho rằng các tiên
đề khoa học và triết học là niềm tin khoa học và triết học.
Tiên đề của thần học là những tín
điều, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người được Huấn Quyền giải thích, là
đối tượng tin của dân Chúa. Không chấp nhận điều này, không có khoa học thần
học[5].
Thần học là khoa học về Thiên Chúa, là hệ thống tri thức
về ngôi vị sống động và tự do. Những chân lý được mặc khải cho con người về
Thiên Chúa ngôi vị, giúp con người hiểu Thiên Chúa trong mức độ nào đó. Để hiểu hơn về một ngôi vị, ngay cả
ngôi vị đó là con người, chúng ta cần tình yêu và đức tin; cũng vậy, để trở
thành thần học gia chân chính, người ta không chỉ đơn thuần phải chấp nhận như
chân lý, điều Kinh Thánh dạy và Huấn Quyền giải thích, nhưng chính yếu người ta
phải tin yêu Thiên Chúa ngôi vị, thực tại sống động. Chính Thiên Chúa ngôi vị
là đối tượng thần học, chứ không phải những chân lý “tĩnh” và “chết”.
Thần lý học (théodicée) khởi từ những dữ kiện tự nhiên để
nhận biết sự hiện hữu và những phẩm tính của Thiên Chúa, còn thần học khởi từ
mặc khải để biết Thiên Chúa; thần lý học cung cấp những tri thức về Thiên Chúa
nhưng chúng giới hạn vì chỉ tựa vào lý trí, còn thần học tựa vào mặc khải nên
giúp hiểu rõ hơn về Thiên Chúa như Thiên Chúa ngôi vị, Đấng luôn yêu thương và
muốn cứu độ con người.
Có thể hiểu biết về một người qua dáng vẻ cử chỉ của
người đó, nhưng nếu được người đó tỏ lộ tâm tình thì sẽ hiểu người đó sâu xa và
chắc chắn hơn; cũng tương tự vậy với thần lý học và thần học. Mỗi ngôi vị là
một mầu nhiệm, và nếu không được ngôi vị đó mặc khải, người ta khó có thể hiểu
biết sâu xa và chính xác về ngôi vị đó.
Thần học là những tri thức có hệ thống về Thiên Chúa.
Thần học có nguồn gốc là Thiên Chúa và có điểm tới cũng là Thiên Chúa, nên thần
học giúp con người biết và sống với Thiên Chúa. Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho
con người qua mặc khải, và chỉ trong tương quan tình yêu giữa ngôi vị, con
người mới hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa thôi.
Mặïc khải với những biến cố và lời giải thích, là những dữ
kiện của thần học, và hơn nữa là quy phạm của thần học, là những tri thức mà
thần học phải quy chiếu về và lấy nó làm mẫu mực.
Thần học không chỉ là một công trình của con người dùng
lý trí suy tư trên những chất liệu được coi là mặc khải, nhưng chính yếu, thần
học là khoa học đức tin. Thần học, đòi những người suy tư phải tin.
Nếu không có đức tin, người ta có thể nghiên cứu về Kitô
giáo, về niềm tin của những kitô hữu, về những tín điều của đạo một cách khoa
học, nhưng như vậy chưa phải là thần học mà chỉ là cái học của con người nghiên
cứu về cái gọi là thực tại siêu nhiên[6].
Không có đức tin, không thể có thần học đúng nghĩa. Hiểu
như vậy những người lạc giáo cố tình[7]
không thể là những thần học gia đúng nghĩa được[8].
Theo thánh Thomas, “lạc giáo
là người, dù chỉ từ chối không tin một điều khoản của đức tin, thì họ cũng
không có thái độ đúng đắn của đức tin, dù là đức tin trưởng thành hay đức tin
còn lờ mờ. Những điều khoản khác của đức tin mà họ không sai lầm thì họ không
nhìn như những tín hữu đích thực nhìn, tức là thái độ gắn bó với Chân Lý tuyệt
đối. Người lạc giáo chấp nhận những tín điều, vì những điều này hợp với ý muốn
và phán đoán riêng của họ”[9].
Nơi những người lạc giáo cố
tình, không có sự chắc chắn tuyệt đối của đức tin- sự chắc chắn vì được đặt nền
trên uy quyền của Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, mà chỉ có sự chắc chắn của
một ý kiến cá nhân, một phán đoán nhân loại. Công trình của người lạc giáo
nghiên cứu thần học, là công trình hệ thống hóa những điều được chấp nhận là đúng[10].
Trong đức tin, con người nhận biết Thiên Chúa và hiểu
được những điều Thiên Chúa muốn tỏ lộ cho con người. Trong đức tin, những suy
tư của con người về Thiên Chúa và về những biến cố mặc khải trở thành thần học,
bởi vì trong đức tin, những suy tư này trở thành sống động trong thực thể sống
là Hội Thánh, chứ không phải là những ngôn từ chết không ý nghĩa. Trong đức
tin, thần học giúp con người tiếp cận, vươn tới và gặp gỡ Thiên Chúa ngôi vị
như là Đấng đang tỏ lộ và gặp gỡ con người. Chỉ với đức tin, con người mới trở
thành thần học gia đúng nghĩa.
Đức tin vào Thiên Chúa ngôi vị mặc khải trong dòng lịch
sử, được biểu lộ cụ thể qua việc vâng phục huấn quyền Hội Thánh.
Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận
biết chân lý(1Tm.2, 4). Ngài đã chọn một số những người đặc biệt để mặc khải,
để họ loan truyền sứ điệp mặc khải đến toàn dân Israel, như Abraham, Môsê, các
thẩm phán, các tiên tri v. v.; cũng vậy Thiên Chúa dùng một số người đặc biệt
để loan truyền và bảo toàn mặc khải đã được thực hiện trong dòng lịch sử, đó là
Giáo Hội giáo huấn.
Huấn quyền không ở trên mặc khải, nhưng phục vụ mặc khải.
Dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Huấn Quyền được trao trọng trách giải thích
mặc khải và bảo vệ mặc khải cho nguyên vẹn.
Trọng trách lưu truyền và bảo vệ mặc khải đã được trao
cho tập đoàn tông đồ và những người kế thừa các Ngài, đó là tập đoàn giám mục
và đặc biệt thủ lãnh giám mục đoàn là giám mục Roma kế vị Phêrô (Mt. 16, 17-19;
28,18-20).
Với cùng dữ kiện mặc khải, con người
có thể có những cái nhìn khác nhau, và thậm chí đôi khi còn đối nghịch nhau[11].
Vì thế Huấn Quyền được trao trách vụ bảo toàn và lưu truyền mặc khải.
Thần học cũng là công trình của con người, và trong mức
độ biểu lộ và diễn tả niềm tin của dân Chúa mà thần học là công trình của Giáo
Hội toàn thể. Vì vậy, thần học chỉ là thần học đúng nghĩa khi thần học phản ánh
niềm tin của dân Chúa, được biểu hiện cụ thể qua phán đoán chính thức của Huấn
Quyền. Đi ngược với niềm tin của dân Chúa và giáo huấn của Huấn Quyền, là không
hiệp thông với Hội Thánh, và nếu vậy không thể biết Thiên Chúa cách đúng đắn và
chính xác được, và như vậy không thể là thần học đúng nghĩa được.
Tin vào Thiên Chúa mặc khải trong dòng lịch sử, hiệp
thông với những người tin, được diễn tả cụ thể qua việc thông hiệp với Huấn
Quyền, là những điều không thể thiếu nơi những người làm công tác thần học. Ba
điều này không chỉ đơn thuần là những tiên đề của thần học, nhưng nó làm cho
thần học là thần học, là khoa học về những ngôi vị thần linh đích thực. Thiếu
một trong ba yếu tố trên, không là thần học đích thực.
Không có lý trí thì không có tri
thức, không có khoa học.
Aristote coi khoa học như những tri thức chắc chắn và có
thể suy diễn được. Mức độ đầu tiên, khoa học là vật lý hay triết lý về vũ trụ
(vũ trụ luận); mức độ thứ hai, là số học và hình học; và mức độ thứ ba, là siêu
hình học[12]. Khoa học là những tri thức chắc chắn và có
giá trị với mọi thời đại, vì khoa học được xây dựng khởi từ những điều hiển
nhiên nhất[13]; khoa học
có tính diễn dịch, vì khoa học có thể liên kết các hệ quả của nó với những
nguyên tắc phổ quát[14].
Ngày nay, người ta coi khoa học là những tri thức có hệ thống và có phương pháp nghiên cứu riêng về một đối tượng nào đó[15].
Như vậy, thần học thỏa mãn những điều kiện để là một khoa học.
Với những khoa học khác, lý trí có
giá trị độc tôn và tuyệt đối; nhưng đối với khoa thần học, lý trí có giá trị và
chỗ đứng đặc biệt của nó: nó được ánh sáng đức tin soi chiếu và dẫn dắt.
Người suy tư thần học chấp nhận những điều Thiên Chúa mặc
khải là chân lý; chức năng của lý trí là tìm kiếm và đào sâu, trình bày chân lý
mặc khải cho người ngày nay hiểu biết và chấp nhận cách dễ dàng hơn. Chính đức
tin vào Thiên Chúa ngôi vị đã làm cho các tín hữu chấp nhận những điều Thiên
Chúa mặc khải là chân lý. Đức tin và lý trí không mâu thuẫn hoặc đối kháng
nhau, vì đức tin có đối tượng là ngôi vị, và đối tượng của lý trí có tính phi
ngôi vị. Với tình yêu và lòng tin, con người hiểu biết và thông cảm nhau hơn là
chỉ dùng lý trí để suy đoán.
Điểm tới của thần học, là hiểu biết Thiên Chúa ngôi vị-
Đấng mà chúng ta tin, chứ không phải là hiểu biết những biến cố này nọ; những
biến cố đó thuộc lãnh vực của khoa học tự nhiên hoặc nhân văn chứ không thuộc phạm
vi của thần học; nếu thần học đề cập đến những biến cố, thì những biến cố này
là những biến cố siêu việt, có tính mặc khải, giúp chúng ta vượt qua những biến
cố để đi tới với Thiên Chúa: thần học không dừng ở những biến cố tự nhiên, mà
vươn lên tới Thiên Chúa ngôi vị.
Khi nào thần học chỉ dừng lại cái biết “sự vật” hay cái
biết tĩnh phi ngôi vị, thì lúc đó thần học là thần học “chết”, hay đúng hơn nó
không còn là thần học nữa; lúc đó, nó cũng chỉ ngang tầm với các khoa học tự
nhiên hoặc nhân văn xã hội thôi; lúc đó nó không giúp con người gặp Thiên Chúa
ngôi vị nữa, và không chừng nó còn cản người ta gặp gỡ Thiên Chúa nữa nếu nó
làm người ta chỉ có tham vọng biết những khái niệm và phạm trù về Thiên Chúa để
nói, chứ không còn ao ước gặp gỡ Thiên Chúa ngôi vị nữa; lúc đó thần học chỉ
đơn thuần là lời con người về Thiên Chúa, các tín điều chỉ là những điều được
chấp nhận là đúng, như những tiên đề của mọi khoa học khác, chứ không còn là
lời diễn tả mặc khải của Thiên Chúa nữa. Chỉ với đức tin và trong đức tin, thần
học mới thực sự là thần học.
Trong thần học, lý trí vẫn thực thi
chức năng của nó như trong mọi khoa học tự nhiên. Thần học vẫn tuân theo tất cả
các quy luật lý luận, cùng những đòi hỏi của một khoa học về phương pháp, hệ
thống.
Thần học cho thấy sự kiện “Thiên Chúa Mặc Khải Trong Lịch
Sử Và Qua Lịch Sử” và sự kiện “Giáo Hội Như Kho Tàng Và Trung Gian Của Lời Mặc
Khải Trong Dòng Thời Gian”, là khả tín. Thần học cho thấy các chân lý mặc khải không phải là điều không có thể hoặc vô
nghĩa, nhưng là điều khả tri. Thần học giúp hiểu biết các mầu nhiệm mặc khải
sâu xa hơn[16].
Trong thần học khi nói lý trí được
đức tin soi dẫn, không có nghĩa đánh giá thấp lý trí.
Có nhiều người cho rằng lý trí độc lập với tất cả, và
không chỉ thế, mà còn điều khiển cả ý chí; điều này được xác chuẩn khi người ta
biết câu “voluntas sequitur intellectum” rất thịnh hành nơi triết gia kitô giáo
thời trung cổ. Thực ra vấn đề không đơn thuần như vậy, Đức Phật đã nhận thấy lý
trí bị mê lầm; và vào thế kỷ XX này, Sigmund Freud cho thấy cách thức tinh vi
mà lý trí bị tư lợi hủ hóa từ nơi sâu thẳm của vô thức.
Theo Freud sự chọn lựa của một người tác động đến suy
nghĩ của họ, và sau đó những lý luận- được điều khiển theo chiều hướng này, biện
minh cho sự chọn lựa theo tư lợi của họ.
Như vậy không phải lúc nào ý muốn cũng đi sau lý trí
(voluntas sequitur intellectum), nhưng nó thường đi trước và ra lệnh cho lý trí[17].
Trong chiều hướng này, có thể coi triết thuyết duy vật và quan điểm về tri thức
của Mars, là hậu qủa của ý muốn phủ nhận Thiên Chúa.
Hiện hữu một tương quan giữa hữu
thể- lý trí- ngôn ngữ, là điều kiện hay tiên đề nền tảng để có tri thức và khoa
học. Tương quan hữu thể này, hàm chứa nguyên nhân nhân quả, hàm chứa lý trí có
khả năng nhận biết tương quan giữa hữu thể với nhau, hàm chứa lời có thể diễn
tả phần nào được hữu thể. Bây giờ chúng ta xét tương quan giữa ngôn ngữ và
Thiên Chúa như đối tượng của thần học.
Thần học là những lời (logia) về
Thiên Chúa (qeoV); nhưng lời về Thiên Chúa đâu có đồng nhất với Thiên
Chúa. Chúng chỉ có tính dấu chỉ và loại suy.
R. Latourelle cho rằng khi khẳng định “Đức Kitô có hai
bản tính nhưng chỉ là một ngôi vị”, các thần học gia cho rằng những từ ngữ này
phản ánh thực tại một cách tuyệt đối chắc chắn; và vì vậy họ nghiên cứu tìm
kiếm để hiểu thực tại[18].
Mọi người đều nhất trí rằng giữa thực tại và ngôn ngữ có
sự tương hợp nào đó, và ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với thực tại được đề
cập tới. Theo truyền thống đông phương, ngôn ngữ chỉ là phương tiện để chuyển
ý. Ta phải cố gắng lãnh hội được ý người ta muốn diễn tả, đừng qúa nô lệ vào từ
ngữ. “Bè để qua sông, qua sông hãy bỏ bè”, “lời để chuyển ý, được ý hãy quên
lời”, “ngón tay chỉ mặt trăng, phải nhìn hướng ngón tay chỉ chứ đừng nhìn ngón
tay”.
Ngày nay nhiều người đồng ý rằng, ngôn ngữ không chỉ là
quy ước, nhưng còn là biểu tượng nữa. Trong ngôn ngữ có những từ ngữ biểu
tượng, có những phép ẩn dụ, v.v. Ngôn ngữ thần học diễn tả Thực Tại Sống Động
là Thiên Chúa ngôi vị, nhưng ngôn ngữ thần học cũng giới hạn như chính người
suy tư thần học. Ngôn ngữ không thể diễn đạt hoàn toàn được Thực Tại sống động
là Thiên Chúa, nên ngôn ngữ thần học thường mang tính ẩn dụ hoặc loại suy[19].
“Đức Yêsu là Con Thiên Chúa”. Từ ngữ “con” nơi loài người
chỉ một người được sinh bởi một người khác, có sau người sinh ra họ; nhưng theo
đức tin kitô, Ngôi Lời không hiện hữu sau Thiên Chúa mà lại có từ trước vô cùng
với Thiên Chúa.
Khi nói “Thiên Chúa là tình yêu” hoặc khi đề cập đến “sự
công chính của Thiên Chúa”, thánh Yoan và thánh Phaolô không hiểu từ ngữ “tình
yêu” và “công chính” theo nghĩa đen hay nghĩa bóng mà hiểu theo nghĩa loại suy:
Thiên Chúa là một cách tuyệt hảo những gì được gọi là “tình yêu” và “công
chính” nơi con người[20].
Theo Aristote, cách diễn tả loại suy hàm chứa cách diễn
tả ẩn dụ (métaphore) nhưng cách diễn tả ẩn dụ không hàm chứa cách diễn tả loại
suy. Loại suy và ẩn dụ là hai cách diễn tả liên hệ với nhau, nhưng không tương
đương với nhau[21].
Trong siêu hình và thần học, người ta còn phân biệt loại
suy hữu thể (analogia entis) và loại suy đức tin (analogia fidei). Theo R.
Latourelle, thần học gia tin lành Karl Barth đối kháng giữa loại suy hữu thể và
loại suy đức tin, nhưng Karl Barth không trung thành với quan điểm của ông[22].
Theo quan điểm công giáo, loại suy đức tin là loại suy hữu thể được dùng trong
lãnh vực các mầu nhiệm, và nó phải quy hướng về đức tin và theo quy luật của
đức tin[23].
Trong phần này chúng ta đã thấy ngôn
ngữ và lý trí là những yếu tố cấu thành của mỗi khoa học. Trong thần học, ngôn
ngữ thường được dùng là ngôn ngữ loại suy. Lý trí vẫn dùng tất cả kỹ năng lý
luận để vươn tới Sự thật, nhưng lý trí vẫn có vị thế rất đặc biệt trong thần
học: lý trí được đức tin soi sáng và hướng dẫn.
Nếu chỉ chấp nhận
“những-điều-được-gọi-là-mặc-khải-và-được-Huấn-Quyền-giải-thích là chân lý”, rồi
từ đó người ta suy luận để làm thành một công trình, thì công trình đó không là
thần học đúng nghĩa. Để làm thần học, người suy tư thần học phải có đức tin;
chính đức tin hướng dẫn lý trí và giúp con người gặp Thiên Chúa như đối tượng
của thần học.
Y. M. J. CONGAR, art. “Théologie”, trong DTC. XV, PARIS 1946, col.
341-502
Y. M. J. CONGAR, La foi et la Théologie, DESCLÉE 1962
Y. M. J. CONGAR, Situation et Taches présentes de la théologie, CERF-
PARIS 1967
CL. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale, essai
d’interprétation”,
trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28
G. GUTIERRE-MERINO, art. “Mouvements de libération et Théologie”, trong
CONCILIUM 93 (1974), pp. 121-130
Bản Đánh Máy của GHHV. Piô X, “Plan d’études de la faculté de théologie”
và “Matières de la faculté de théologie”.
R. LATOURELLE, Theologia Scientia sacra, GREGORIANA 1965
R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968
AL. PIERIS, Một hướng thần học giải phóng á châu, ORBIS BOOKS 1988, bản
dịch bởi UBĐKCGVN, tp. HCM 1989
K. RAHNER, art. “A prppos de la réforme des études ecclésiastique”,trong
Est-il possible aujourd’hui de croire, MAME- FRANCE 1966
J. C. SCANNONE, art. “La théologie de la libération: évangélique ou
idéologique?,
trong CONCILIUM 93 (1974), pp. 131-138
ED. SCHILLEBEECKX, Approches thélogiques 1: Révélation et Théologie,
CERF- BRUXELLES 1965
G. SOHNGEN, art. “La Sagesse de la théologie par la voie de la Science”,
trong MYSTERIUM SALUTIS t.1, vol. IV, pp. 159-250
J. R. DE DIEGO, Theologia Scientia Sacra: introductio in theologiam,
ĐALAT 1969
(cours rénéotypé du col. Pont. Pie X)
LNC 141252
ĐL.240238
HOME THẦN HỌC DẪN NHẬP THẦN HỌC DNTH1 DNTH2 DNTH3 DNTH4 DNTH5
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Định đề, công lý, là những điều không thể chứng minh.
[2] Từ những tiên đề khác nhau, người ta có thể xây dựng những hệ thống khác nhau. Chẳng hạn, về hình học có hệ thống hình học phẳng của Euclide và hệ thống hình học cong của Riemann; về quang học, thuyết hạt tử giả thiết áng sáng truyền theo đường thẳng, và giải thích hiện tượng quang điện; còn thuyết ba động giả thiết ánh sáng truyền theo làn sóng và giải thích được hiện tượng giao thoa của ánh sáng.
[3] G. SOHNGEN, art. “La Sagesse de la théologie par la voie de la Science”, trong Mysterium Salutis, t. I, vol. 4, p. 212
[4] Xem LNC 141252, Sẽ Sống Nếu Bạn Tin, HL-TĐ 43, phần 1
[5] G. SOHNGEN, art. “La sagesse de la théologie par la voie de la science”, trong MYSTERTUM SALUTIS, t. I, vol. 4, p. 212
[6] E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 89
R. LATOURELLE, op. cit., p. 42
[7] Lạc giáo hình thể: hérétique formel
[8] R. LATOURELLE, op. cit., p. 42
[9] St. THOMAS, S.T.IIaIIae, q. 5, a.3, c et ad 1
cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 42
[10] R LATOURELLE, ibidem
[11] Có thể do những thúc đẩy lệch lạc nơi con người.
[12] R. LATOURELLE, op. cit., p. 48 ghi chú 1
[13] nhưng không thể chứng minh được (ở đây hiểu là những tiên đề).
[14] R. LATOURELLE, op. cit., p. 48
[15] R. LATOURELLE, op. cit., p. 51
[16] R. LATOURELLE, op. cit., p. 44
cf. Dz. 3016
[17] ALOYSIUS PIERIS, Một hướng thần học giải phóng Á châu,
ORBIS BOOKS 1988.
Bản dịch được in bởi UBĐKCGYN tp. HCM. 1989, pp.57-58
[18] R. LATOURELLE, op. cit., p. 41
[19] cf. G. SOEHNGEN, art. cit.,
trong MYSTERIUM SALUTIS, t. I, vol. 4, p. 188
[20] Ibidem, p. 189
[21] Ibidem, p. 188-189
[22] Ibidem, p. 191
[23] Ibidem