HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
PHẦN I: ƠN CỨU ĐỘ CHO NGƯỜI
NGOÀI KITÔ GIÁO
i).
Hoàn toàn do con người (Pélage)
Không
cần sự trợ giúp của Thiên Chúa
ii).
Ơn nhưng không (Augustin)
ii).
Con người khởi đầu Thiên Chúa trợ giúp
c). “Ngoài Giáo Hội không có ơn
cứu độ”
i).
Con người tự mình có thể làm điều tốt
(Abélard)
ii)
.Con người không thể làm gì tốt sau nguyên tội
(Luther)
iii).
Mọi công việc của dân ngoại đều là tội
(Baius)
Ân
sủng đủ và ân sủng hữu hiệu
b). Người ngoài kitô giáo
được cứu độ (Vatican II)
i).
Không phải không được cứu độ
ii).
Người ngoài kitô giáo được cứu độ
c). Tương quan giữa ân
sủng và tự nhiên
PHẦN II: ÂN SỦNG CỨU ĐỘ QUA BIỂU
TƯỢNG TRONG CÁC TÔN GIÁO
Ai trong chúng ta
cũng biết đại đa số dân tộc châu Á
sống trong các tôn giáo ngoài kitô, như trong Ấn-độ
giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Cao đài, Hồi
giáo. Trước sự kiện này, những kitô hữu
bản xứ có tâm huyết và đặc biệt những
nhà truyền giáo trong vùng, thường bận tâm
đặt vấn đề về:
·
phần
rỗi của người sống trong tôn giáo ngoài kitô,
·
giá trị
cứu độ của các tôn giáo ngoài kitô này.
Công đồng
Vatican II trong tuyên ngôn về các tôn giáo ngoài kitô, đã
khuyến khích ki-tô hữu đối thoại[1]
với tín đồ các tôn giáo ngoài kitô (NK.2). Công
đồng cũng minh nhiên nhìn nhận nơi tôn giáo ngoài
kitô có những điều chân thật và thánh thiện
(NK.2).
Những
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô có
được cứu độ không?
Nếu được thì những người này
được cứu độ qua phương tiện
gì? Các tôn giáo ngoài ki-tô có là phương tiện Thiên Chúa dùng
cứu độ con người không?
Phải chăng các tôn giáo ngoài kitô có những “biểu
tượng” Thiên Chúa dùng để ban ân sủng cứu
độ?
Trong tinh thần
vâng phục Giáo Hội, nhiều dòng tu khuyến khích các
thành viên dòng hội nhập văn hóa, nhằm loan báo tin
mừng đức Yêsu một cách có kết quả hơn[2];
sở dĩ vậy vì con người dễ đón nhận
chân lý được diễn tả qua nền văn hóa dân
tộc mình hơn.
Tác phẩm này là
một cố gắng đáp trả lời mời gọi
của Giáo Hội, nhằm đóng góp một viên đá trong
công cuộc đối thoại tôn giáo, giúp cho việc loan
báo tin mừng đức Yêsu được dễ chấp
nhận hơn nhờ loan báo Tin Mừng qua những
biểu tượng và ngôn ngữ thích hợp với dân
tộc được truyền giáo. Đây cũng là
một nỗ lực nhằm đưa ra cách giải thích
về ơn cứu độ cho người sống trong
các tôn giáo ngoài kitô. Vấn đề này còn đang
được các nhà thần học tranh cãi[3].
Trong tâm tình kính mến cùng vâng phục Chúa Yêsu Ki-tô và
Huấn Quyền Giáo Hội, tác giả hoàn toàn vâng phục
tất cả những gì Giáo Hội phán dạy về
vấn đề này.
Tác giả
Thiên Chúa có ban ân
sủng cứu độ cho những người ngoài kitô
giáo không[4]?
Nếu Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho những
người ngoài kitô giáo, đặc biệt với
những người sống trong tôn giáo ngoài kitô, thì Ngài ban
ân sủng cứu độ cho họ qua phương
tiện gì?
Đó là những
vấn đề gây bận tâm nhiều đối với
các nhà truyền giáo và những kitô hữu của những
nước có nền văn hóa cổ kính mà phần đông
dân tộc họ sống trong các tôn giáo ngoài kitô!
Để trả
lời hai vấn đề nêu trên,
·
đầu
tiên sẽ xét vấn đề ân sủng cứu độ
cho kitô hữu và cả cho người ngoài kitô giáo;
·
sau đó
cho thấy Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua những
biểu tượng trong tôn giáo họ sống;
·
và cuối
cùng sẽ bàn đến tương quan giữa Công giáo và
các tôn giáo ngoài kitô, cụ thể tương quan giữa bí
tích công giáo và biểu tượng qua đó ơn sủng
được ban trong các tôn giáo ngoài kitô.
Được
giải thoát khỏi mọi đau khổ buồn
phiền, được hạnh phúc vĩnh cửu, là
điều mọi người đều ao ước[5].
Kitô hữu tin
rằng:
con người được Thiên Chúa tạo
dựng để thông chia hạnh phúc vĩnh cửu
với Thiên Chúa;
nhưng con người đã phản loạn từ
chối tình yêu Thiên Chúa và sự sống thần linh, do
đó con người đã sống đau khổ cả
thể xác lẫn tinh thần;
để lại được sống hạnh phúc
với Thiên Chúa, con người cần được Thiên
Chúa thứ tha tội lỗi.
Như vậy, hạnh phúc đích thực không hoàn toàn tùy thuộc tầm tay
của con người!
Sau khi phạm
tội phản nghịch chống lại Thiên Chúa, con
người còn có thể làm những điều tốt
lành không?
Pélage người
gốc Bretagne đã sống ở Rôma cuối thế
kỷ IV và sống ở Palestin vào đầu thế
kỷ V, là đan sĩ. Pélage và những người chia
sẻ lập trường của ông cho rằng: Adam
được tạo dựng như chúng ta hiện
tại, nghĩa là khả tử ngay cả trường
hợp Adam không phạm tội. Tội của Adam chỉ
làm hại, ảnh hưởng trên Adam thôi chứ không trên
con cháu, nghĩa là chúng ta chết là chuyện “tự nhiên”
chứ không phải tại tội nguyên tổ Adam[6].
Con người-
ngay cả sau khi Adam phạm tội- có khả năng làm
lành lánh dữ mà không cần sự trợ giúp của Thiên
Chúa. Nếu phải nói tới ân sủng thì đó là chính hồng
ân tự nhiên, sự tự do chọn lựa, luật luân
lý, gương mẫu của Đức Kitô, giáo lý của
Ngài qua sự tha thứ tội lỗi[7]....
Ân sủng là chung cho hết mọi lương dân cũng
như cho kitô hữu, cho người đạo đức
cũng như cho người bất chính[8].
Nếu phải nói ân sủng đặc biệt cho kitô
hữu, thì đó là lời giảng dạy của
Đức Kitô mà thôi[9].
Pélage chủ
trương con người có khả năng tránh tội và
giữ các giới răn của Thiên Chúa mà không cần
sự trợ giúp đặc biệt gì của Thiên Chúa ngoài
những hồng ân tự nhiên là tạo dựng, ý chí
tự do, lương tâm... Như vậy, được
cứu độ hay không là do con người hoàn toàn, do con
người có muốn hay không, không cần sự trợ
giúp hay ân sủng của Thiên Chúa. Nói theo E. Portalié, hệ
thống của Pélage đặt nền trên sự
độc lập tuyệt đối của tự do
cũng như quyền năng vô hạn của tự do
để làm lành lánh dữ[10].
Như vậy có thể nói, cứu độ không là một
ơn, nhưng là do tôi có muốn hay không mà thôi!
Thánh Augustin
giải quyết vấn đề ơn cứu độ
của con người bằng phạm trù chỉ thực
tại “nguyên tội” và “ân sủng tiền định”.
Thiên Chúa không
tạo dựng con người trong tình trạng khả
tử như chúng ta thấy hiện nay; chết là hậu
quả của tội; Adam và con cháu ông chết bởi vì
Adam đã phạm tội[11]!
Sau khi Adam sa ngã, tất cả con người làm thành
một tập thể bị kết án[12],
nghĩa là tất cả đều ở trong tình trạng
khả tử[13],
ý chí tự do bị suy yếu[14],
và tất cả đều ở trong tình trạng tội
lỗi[15].
Nói tóm lại, sau
khi Adam phạm tội, cả ông lẫn con cháu ông
đều đáng và phải bị kết án, nghĩa là
không được tham dự sự sống với Thiên
Chúa nữa! Con người cần được Thiên Chúa
cứu độ thì mới được hạnh phúc
vĩnh cửu!
Nếu tất
cả đều đã phạm tội nơi Adam, thì ai
được cứu độ?
Theo thánh Augustin,
nếu cứ theo lẽ công bằng thì tất cả
đều phải sa hỏa ngục[16],
nhưng Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, nên từ
đời đời Ngài đã quyết định
cứu một số người được chọn
khỏi hố thẳm bằng ân sủng[17];
còn những ngưòi khác tự kết án mình khi bỏ Thiên
Chúa[18].
Số
người được tuyển chọn đã
được xác định[19],
không phải cứ là kitô hữu thì được cứu
độ[20] dù
rằng đức tin là hồng ân của Thiên Chúa[21].
Đối với những người đã
được tiền định, họ có thể
lầm lạc trong một thời gian nào đó, nhưng
không bao giờ lầm lạc lúc cuối đời[22].
Việc bền đỗ đến cùng này là một
hồng ân mà con người không đáng được,
nhưng con người có thể nhận được
nhờ lời cầu nguyện[23].
Không ai trong chúng ta biết ai được cứu ai không
được cứu, vì điều này không thuộc
thẩm quyền của chúng ta; điều chắc là
việc này rất công bình và chân thực chứ không do
một quyền năng mù quáng và tùy tiện[24].
Augustin cũng cho
rằng ân sủng không được ban cho hết tất
cả mọi người, vì nếu vậy ân sủng không
còn tính nhưng không nữa[25].
Việc tiền định của Thiên Chúa cho người
này được cứu độ không hàm chứa
việc tiền định kết án người khác,
nhưng đơn thuần là họ không được
chọn[26].
Với nhãn quan
về ơn cứu độ như được trình
bày ở trên, thánh Augustin kết luận: tất cả công
trình của dân ngoại là tội[27];
vì ý chí tự do bị nô lệ tội không thể làm gì khác
hơn sự dữ[28].
Ngay những trẻ em (chưa chịu phép rửa) phải
chịu đau khổ mà chết cũng không
được cứu độ, tuy nhiên các em đó
cũng không bị kết án, mà có chỗ riêng[29].
Sở dĩ thánh nhân lập luận như vậy vì Ngài cho
rằng, trên nguyên tắc dân ngoại thiếu ân sủng vì
không nhận biết Đức Kitô!
Tuy vậy cũng
thấy thánh Augustin khẳng định: có những hành
động tốt nơi dân ngoại[30];
Ngài khẳng định điều này ngay cả trong
cuộc bút chiến với Pélage. Augustin cũng không cho
rằng tất cả điều tội nhân kitô giáo làm
đều xấu[31].
Khách quan mà nói, nhãn
quan của Augustin về ơn cứu độ dành cho dân
ngoại là bi quan!
Trước hai
lập trường trái ngược nhau của Pélage và
Augustin, Giáo hội có thái độ rõ ràng qua công đồng
địa phương ở Carthage năm 418, và công đồng
này đã được Giáo Hoàng Zosimus phê chuẩn.
Công đồng
khẳng định:
·
sự
hiện hữu của tội nguyên tổ nơi con
người hiện tại, nên trẻ em mới sinh
cũng cần chịu phép rửa tội (DS.223);
·
Adam
chết là vì tội (DS.222);
·
ân sủng
không những tha thứ tội lỗi để con
người được công chính mà còn giúp con
người tránh tội nữa (DS.225).
Công đồng
cũng kết án:
·
những
người cho rằng ân sủng giúp con người tránh
tội chỉ theo nghĩa giúp con người hiểu các
giới răn mà mình phải tránh chứ không giúp chúng ta yêu
và thực hành (DS.226);
·
những
người cho rằng ân sủng chỉ giúp chúng ta tránh
tội được dễ dàng, còn nếu ân sủng không
được ban thì chúng ta cũng có thể giữ các
giới răn được tuy rằng không dễ dàng
(DS.227)[32].
Với những
điều này, chúng ta thấy Giáo Hội đã chấp
nhận phần lớn lập trường của Augustin:
dùng phạm trù “tội nguyên tổ” và “ân sủng”
để hiểu vấn đề ơn cứu
độ. Cứu độ là một ơn Thiên Chúa ban cho
con người với sự ưng thuận của con
người, chứ không phải chỉ nằm trong ý chí
tự do của con người.
Công đồng
không giải quyết vấn đề dân ngoại có
được cứu độ hay không!
Khi người ta
đọc thư của Augustin gởi cho phó tế Sixte
(sẽ làm giáo hoàng năm 432) tại tu viện Hadrumète, các
tu sĩ cho rằng nếu vậy thì không thể bảo vệ
ân sủng mà không phủ nhận tự do[33].
Nếu ân sủng
của Thiên Chúa có thể thay đổi lòng người,
tại sao Thiên Chúa không ban ân sủng cho tất cả
mọi người để họ yêu Chúa và tránh khỏi
bị kết án? Nếu ân sủng của Thiên Chúa có
khả năng biến đổi con người, và
nếu từ đời đời Thiên Chúa đã tuyển
chọn ai đó, thì làm sao họ còn tự do[34]?
Thánh Augustin
nhấn mạnh rất nhiều về sự siêu việt
của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở trong chúng ta là nguồn
của tất cả hữu thể, tất cả chân lý và
mọi sự tốt lành[35].
Tất cả những sự tốt lành đều từ
Thiên Chúa, còn từ con người chỉ có dối trá và
tội lỗi[36].
Thánh nhân nhấn mạnh đến sự siêu việt
của Thiên Chúa đến độ, có chỗ
người ta tưởng ngài cho rằng con người
không còn tự do nữa sau khi Adam phạm tội[37].
Thực ra Augustin cho rằng ân sủng Thiên Chúa ban, không
hủy diệt nhưng trái lại đã làm kiên vững ý
chí tự do[38]. Hơn
nữa Thiên Chúa không đòi con người làm điều gì
quá sức con người, Ngài muốn con người làm
điều mình có thể làm và xin điều mình không có
thể[39].
Với Augustin,
Thiên Chúa toàn năng có thể ban ân sủng cho những
người được tiền định, để
họ được cứu độ; nhưng
đồng thời, cũng theo thánh Augustin, con người
vẫn hoàn toàn tự do. Sau khi Adam phạm tội, con
người bị nô lệ tội nhưng vẫn còn ý chí
tự do lựa chọn. Tự do đối với Augustin
là yêu mến sự thiện, hài lòng và thỏa mãn trong
sự công chính, là tình trạng yêu Thiên Chúa trên hết
mọi sự[40].
Nơi Thiên Chúa
chỉ là hiện tại, không có cái gọi là quá khứ hay
tương lai, chính vì thế việc tiền định
người này được cứu độ hay người
kia phải kết án không làm mất tự do của con
người[41].
Phản ứng
lại quan niệm nhấn mạnh tính siêu việt của
ân sủng Thiên Chúa trên con người nơi thánh Augustin,
cũng như để bảo vệ sự tự do của
con người mà họ lầm tưởng rằng thánh
Augustin cho rằng đã bị mất bởi nguyên tội,
những tu sĩ tại Marseille chủ trương:
·
đức
tin và những việc làm tốt, được con
người khởi đầu với ý chí tự do
của mình,
·
rồi
Thiên Chúa mới trợ giúp bằng ân sủng của Ngài
sau.
Quan niệm này được các nhà tranh luận
ở thế kỷ XVI gọi là Semi-pélagianisme. Những
người tiêu biểu cho quan niệm Semi-pélagianisme này là
Vicent de Lérins, Fauste giám mục tại Riez; còn những
người bảo vệ lập trường của
Augustin là Prosper d'Aquitaine, Hilaire, Fulgence giám mục tại
Ruspe và Césaire tổng giám mục tại Arles[42].
Césaire, tổng
giám mục tại Arles đã họp với 13 giám mục
khác trong một công đồng địa phương
tại Orange và đã đưa ra 25 qui phạm đức
tin. Công đồng này đã được Đức Giáo
Hoàng Bonifacius II phê chuẩn năm 531.
Công đồng
vẫn lấy lại quan điểm của Augustin cho
rằng:
·
con
người chẳng có thể làm gì tốt độc
lập với Thiên Chúa;
·
nếu con
người có làm điều gì tốt, thì chính Thiên Chúa
đã làm điều tốt đó nơi con người[43];
·
khả
năng nghe và đáp trả lời Chúa, sự chuyển
biến từ vô tín đến đức tin..., cũng
đều là ân sủng của Thiên Chúa, đều nhờ
Thiên Chúa qua Thánh Thần của Ngài[44].
Như vậy
chúng ta thấy công đồng không đồng quan niệm
với những tu sĩ tại Marseille cho rằng ý chí
tự do con người đi trước ân sủng
của Thiên Chúa. Công đồng không thấy nơi lập
trường của Augustin có sự đối nghịch
giữa tự do và ân sủng, giữa tự do và tiền
định được cứu độ!
Con người
được cứu độ nhờ đức Yêsu qua
Giáo Hội.
“Ngoài Giáo Hội
không có ơn cứu độ[45]“.
Mệnh đề này đã được thánh Cyprianus
khẳng định, và trong dòng lịch sử đã
trở thành khẳng định truyền thống của
Giáo Hội Công Giáo. Vấn đề được
đặt ra là: những người không là ki-tô hữu, và
ngay cả những kitô hữu không thuộc Giáo Hội Công
Giáo có được cứu độ không?
Khi khẳng định
“ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”, thánh
Cyprianus cũng như giáo quyền không phải là không
biết:
·
Adam đã
được cứu độ vì được tha
thứ tội lỗi (Kn.3; Kng.10, 1);
·
Abel dâng
lễ tế làm đẹp lòng Thiên Chúa (Kn.4, 4);
·
Henok
được Thiên Chúa cất đi vì đã bước
đi với Thiên Chúa (Kn.5, 24);
·
Noe đã
được ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa, ông
là người công chính (Kn.6, 8-10), và đã được
Thiên Chúa cứu khỏi bị tiêu diệt, cùng ký giao
ước với ông và dòng dõi loài người (Kn.6-9);
·
Menchisedek
được coi là tư tế của Thiên Chúa tối cao
(Kn.14, 18tt);
·
Balaam là tiên
tri của dân ngoại nhưng đã được Thiên
Chúa dùng để chúc phúc cho dân Ngài (Ds. 22-24).
Những người được nêu trên không là kitô
hữu, không thuộc về dân tộc Do thái, nhưng
họ đã sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa, nghĩa
là, họ được cứu độ.
Thánh Cyprianus
cũng như giáo quyền biết rõ khẳng định
trong Tân ước: “Thiên Chúa muốn cho mọi người
được cứu và được nhận biết
chân lý” (1Tm. 2, 4). “Hãy đi khắp thiên hạ rao giảng
Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh
tẩy thì sẽ được cứu thoát, còn ai không tin
sẽ bị án phạt” (Mc. 16, 15tt).
Chúng ta phải
hiểu mệnh đề “Ngoài Giáo hội không có ơn
cứu độ” như thế nào?
“Ngoài Giáo Hội”,
phải chăng là những người không
được rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo?
Khoảng năm 525, Fulgence de Ruspe cũng đã nói: “không nên
nghi ngờ rằng không chỉ những lương dân,
nhưng cả các người Do thái, các người lạc
giáo và ly giáo chết ngoài Giáo Hội Công Giáo, đều
đi vào lửa vĩnh cửu đã chuẩn bị
sẵn cho quỷ dữ và các thần của nó”[46].
Trong qúa khứ phần lớn người ta đã hiểu
mệnh đề “Salus extra Ecclesiam non est” theo nghĩa
hẹp! Vậy phải chăng Giáo Hội Công Giáo cho
rằng mọi hành vi của dân ngoại đều là
tội như Augustin chủ trương? Và như vậy
phải chăng dân ngoại không được cứu
độ?
Không có ân sủng
của Thiên Chúa con người không thể làm gì tốt,
liệu có thể khẳng định “dân ngoại sống
không có ân sủng của Thiên Chúa” không[47]?
Vấn đề
ơn cứu độ của ki-tô hữu lẫn của
dân ngoại, được thần học sau thời thánh
Augustin bàn đến. Vấn đề này liên hệ
đến những đề tài: nguyên tội, tự do và
ân sủng, tiền định... Chúng ta tiếp tục lược
sơ qua những vấn đề này trong dòng lịch
sử để biết rõ quan điểm của Giáo
Hội về vấn đề ơn cứu độ cho
dân ngoại.
Vào thế kỷ
XII, Phêrô Abélard chủ trương “con người với ý
chí tự do đủ để làm điều tốt
lành”. Ý kiến này đã bị công đồng ở Sens và
Đức Giáo Hoàng Innocent II kết án năm 1140[48].
Qúa duy lý Abélard
đã rơi vào lầm lỗi của Pélage dù ông biết rõ
lập trường của Pélage đã bị Giáo Hội
kết án. Nguyên tội đối với chúng ta, theo Abélard,
chỉ là hình phạt chứ không là tội[49].
Chúng ta nhận
thấy các lập trường đề cao ý chí tự do
bị Giáo Hội kết án đều hàm chứa ý con
người muốn độc lập với Thiên Chúa trong
việc thực hành điều tốt; nhưng không có gì
tốt lành ngoài Thiên Chúa; độc lập với Thiên Chúa
chỉ có tội ác!!!
Đầu
thế kỷ XVI, Luther và sau đó những người Tin
lành chủ trương:
·
ý chí tự
do con người đã bị hủy hoại bởi nguyên
tội,
·
con
người không thể làm gì tốt[50]....
Công đồng
Trentô đã đưa ra giáo lý về nguyên tội, về
công chính hóa. Công đồng giữ lập trường
truyền thống của Giáo Hội, và kết án những
người chủ trương rằng với công
việc bằng sức lực tự nhiên của con
người, hoặc bằng việc biết luật không
cần ân sủng, con người vẫn có thể được
công chính hóa trước mặt Thiên Chúa[51].
Đây là lập trường của Giáo Hội Công Giáo
chống lại giáo lý của Pélage và của các tu sĩ
tại Marseille ở thế kỷ V-VI đề cao tự
do của con người cách tuyệt đối. Khi
kết án những người đề cao tự do
như một quyền năng tuyệt đối, Giáo
Hội không có ý khẳng định tự do con
người bị hủy hoại hoàn toàn hoặc không còn
tự do nữa!
Công đồng
cũng kết án những người cho rằng con
người không còn tự do trước ân sủng của
Thiên Chúa[52], nghĩa
là con người không thể cưỡng lại lời
mời của Thiên Chúa ngay cả khi con người không
muốn. Qua lời kết án này chúng ta thấy Giáo Hội
chủ trương con người có tự do chống
lại Thiên Chúa và từ chối ân sủng của Ngài,
nếu con người muốn.
Công đồng
cũng kết án những người cho rằng con
người không còn tự do nữa kể từ khi Adam
phạm tội[53],
hoặc những người chủ trương rằng
Thiên Chúa không chỉ làm điều tốt nơi con
người nhưng còn làm cả điều xấu
nữa (không chỉ cho phép nó xảy ra)[54].
Qua lời kết án này, chúng ta thấy công đồng
muốn bảo vệ giáo lý truyền thống về
tiền định: Thiên Chúa không tiền định ai
xuống hỏa ngục, hiểu như Thiên Chúa muốn
họ xuống hỏa ngục!
Công đồng
cũng kết án những người chủ trương
rằng trước khi được công chính hóa, mọi
công việc dù được làm bởi bất kỳ lý do
nào (của những người chưa được công
chính hóa này) đều là tội và bị Thiên Chúa tởm
gớm[55]. Lập
trường này mới thoạt nhìn tưởng như trái
với lập trường của thánh Augustin cho rằng
mọi hành vi của dân ngoại đều là tội!
Nhưng chúng ta phải hiểu lập trường của
thánh Augustin trong giả sử “dân ngoại không có ân sủng
của Thiên Chúa”. Nếu thật sự dân ngoại không có
ân sủng của Thiên Chúa thì lời khẳng định
của thánh nhân đúng, nhưng thực tế không như
vậy vì Thiên Chúa vẫn có thể ban và vẫn ban ân
sủng cho những người chưa được công
chính hóa và những người chưa tin Đức Yêsu.
Ba năm sau khi
kết thúc công đồng Trentô, tức là năm 1567,
Đức Giáo Hoàng Piô V đã kết án một số
mệnh đề của Baius chủ trương sai
lầm về tự do của con người và những
hành vi của dân ngoại. Baius chủ trương:
·
“Tất
cả mọi công việc của dân ngoại đều là
tội và các nhân đức của hiền nhân là lỗi
lầm”[56];
·
“Tự do
của con người, nếu không có sự trợ giúp
của ân sủng Thiên Chúa, không thể làm gì ngoài tội”[57].
Những mệnh
đề của Baius này giống những mệnh
đề của Augustin, nhưng bầu khí của thời
đại thì khác!
Cuối thế
kỷ XVI và sang đầu thế kỷ XVII, vấn
đề ơn cứu độ được hàm
chứa trong vấn đề tiền định.
Chỉ những
ai được tuyển chọn và được
tiền định mới được cứu
độ.
Nhưng phải
chăng việc Thiên Chúa tiền định cho
người này được cứu độ
người khác không được cứu độ là
hoàn toàn theo “sở thích” của Thiên Chúa? Nếu đúng
như vậy thì còn đâu:
·
“Thiên Chúa là
Đấng nhân từ và muốn cho mọi người
được cứu độ” (x. 1Tm.2, 4);
·
Tự do
của con người để chống lại ý Chúa
hoặc thuận theo ý Chúa.
Nếu Thiên Chúa
nhân từ và quyền năng vô cùng, thì:
·
không có
hỏa ngục trong trường hợp Ngài tiền
định tất cả được cứu
độ; nhưng như vậy dường như con
người chẳng còn tự do!
·
chẳng có
hỏa ngục nếu Thiên Chúa thực sự nhân từ!
Nếu con
người có tự do để chống lại Thiên Chúa
và từ chối ân sủng của Ngài, thì e rằng Thiên
Chúa không toàn năng và ân sủng của Ngài không kiến
hiệu!
Giả sử
như Thiên Chúa toàn năng có thể biến đổi lòng
người bằng ân sủng của Ngài, và giả sử
con người có tự do chống lại ân sủng của
Thiên Chúa hoặc thánh ý Chúa, thì Thiên Chúa dựa vào đâu
để tiền định cho người này
được cứu độ, người khác không?
Phải chăng Thiên Chúa dựa vào công nghiệp của
mỗi người, hoặc dựa vào thái độ
của mỗi người đối với ân sủng
của Thiên Chúa mà tiền định?
·
Có một
lập trường cho rằng Thiên Chúa tiền
định dựa vào công nghiệp hoặc thái độ
của mỗi người đối với ân sủng
của Thiên Chúa được Ngài thấy trước
từ thuở đời đời[58].
Lập trường này bảo vệ được
sự tự do của mọi người và sự hợp
lý của việc Thiên Chúa tiền định, nhưng không
cho thấy Thiên Chúa toàn năng qua ân sủng của Ngài!
·
Một
lập trường khác cho rằng Thiên Chúa tiền
định người này được cứu
độ người kia không, là hoàn toàn do ý muốn Thiên
Chúa chứ không do công trạng hoặc việc thấy
trước công trạng mỗi người[59].
Lập trường này đề cao sự siêu việt và
toàn năng của Thiên Chúa, nhưng không cho thấy con
người còn tự do.
Để
giải thích con người có tự do cũng như
quyền năng của ân sủng Thiên Chúa, các thần
học gia đã tạo ra những “từ” mới, như:
ân sủng đủ (grâce suffisante), ân sủng hữu
hiệu (grâce efficace)...! Hai từ ngữ biểu lộ hai
lập trường quan điểm khác nhau, một
khởi từ con người và một khởi từ Thiên
Chúa! Cả hai lập trường đều không sai
nhưng bổ túc cho nhau[60]:
mỗi người được cứu độ hay
không tùy thuộc thánh ý Thiên Chúa tiền định nhưng
cũng tùy ở tự do con người có chấp nhận
ân sủng của Thiên Chúa hay không.
Mỗi
người được cứu độ hay không là tùy
thuộc Thiên Chúa tiền định, nhưng phải
chăng Thiên Chúa không muốn mọi người
được cứu độ?
Dù Corneille Jansen
giám mục giáo phận Ypres đã chết năm 1638
nhưng Đức Giáo Hoàng Innocent X vẫn kết án giáo lý
của Jansen[61] trong
hiến chế Cum Occasione ngày 31.05.1653[62].
Những
người chủ trương theo giáo lý của Jansen
đã gây xáo trộn trong Giáo Hội, và Đức Giáo Hoàng
Alexander VIII đã kết án những sai lầm của phái
này ngày 07.12.1690. Phái Jansenisme chủ trương:
·
Trong
mọi công việc, lương dân đều phạm
tội (DS. 2308);
·
Tất
cả những cái không bởi đức tin kitô siêu nhiên
đều là tội (DS. 2311)[63].
Năm 1713 Giáo
Hoàng Clemens XI kết án các mệnh đề của Paschasius
Quesnel trong hiến chế Unigenitus Dei Filius (DS.2400-2502).
Về vấn đề ơn cứu độ, Quesnel
chủ trương:
·
Ân sủng
không được ban ngoài Giáo hội (DS. 2429);
·
Ý muốn
mà ân sủng không ưu thắng, không có ánh sáng gì ngoài
lầm lạc, không có sự hăng hái nào ngoài sa ngã, không có
sức mạnh nào ngoài làm tổn thương chính mình. Ý
muốn có khả năng làm mọi sự dữ nhưng không
có khả năng làm sự lành nào (DS. 2439)[64].
Nhìn chung, giáo lý
về ơn cứu độ của trường phái
Jansénisme rất bi quan. Họ chủ trương Thiên Chúa
chỉ cứu độ một số ít người, và
Đức Kitô cũng chỉ chết cho một số
người được chọn. Ân sủng không
được ban ngoài Giáo Hội, nghĩa là lương
dân không có ân sủng, và nếu không có ân sủng thì ý chí
tự do chỉ là nghiêng chiều về sự tội, và
như vậy... không có ơn cứu độ cho
lương dân!
Về ân sủng
cứu độ cho những người ngoài kitô giáo,
Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Singulari quadam ngày 09.12.1854 nói:
chúng ta phải giữ đức tin cho rằng ngoài Giáo Hội
tông truyền Roma không có ai được cứu vì chỉ
có một con tàu cứu độ mà bất cứ ai nếu
không vào thì phải hư mất trong nước; nhưng
cũng chắc chắn rằng những người làm
việc dưới sự vô tri bất khả ngoài tôn giáo
chân thực, không có lỗi về vấn đề này
dưới con mắt của Chúa[65].
Ngoài Giáo Hội
không có ơn cứu độ. Đây là giáo lý truyền
thống của Giáo Hội Công Giáo, nhưng chúng ta không
được hiểu mệnh đề trên một cách tự
ý, mà phải theo giáo huấn của Giáo Hội.
Trong thư
gởi Tổng Giám mục Boston, Thánh Bộ với sự
đồng ý của Giáo Hoàng Piô XII, đã phủ nhận
lập trường cho rằng, những người không
công giáo- trừ những người dự tòng có ý rõ ràng
gia nhập Giáo Hội Công Giáo- không được ơn
cứu độ[66].
Công đồng
Vatican II trong hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium) số
16 đã giải quyết dứt khoát và rõ ràng vấn
đề ơn cứu độ cho những người
ngoài kitô giáo:
“Sau cùng, những ai chưa lãnh nhận Phúc âm cũng
được an bài bằng nhiều cách để
thuộc về dân Thiên Chúa. Trước tiên phải kể
dân tộc đã lãnh lời hứa và giao ước, mà
bởi dân ấy, Chúa Kitô đã sinh ra theo thể xác (x. Rm. 9,
5). Họ là dân rất được yêu quý, bởi đã
được tuyển chọn vì cha ông họ: Thiên Chúa
đã không ân hận gì vì đã ban ơn và kêu gọi họ
(x. Rm.11, 28-29). Nhưng kế hoạch cứu độ
cũng còn bao hàm những ai nhận biết Đấng
Tạo Hóa: trước tiên phải kể người
Hồi giáo, họ xưng rằng họ giữ đức
tin của Abraham; cùng với chúng ta họ thờ
phượng Thiên Chúa duy nhất, nhân từ, Đấng
sẽ phán xét loài người trong ngày sau hết. Và
những kẻ đang tìm kiếm Chúa trong bóng tối và qua
ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả
những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bởi vì
chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi
thở và tất cả mọi sự (x. Cv.17, 25-28). Và vì là
Đấng Cứu Thế Ngài muốn mọi người
đều được cứu rỗi (x. 1Tm. 2, 4).
Thực vậy những kẻ vô tình không nhận biết
Phúc âm của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng
nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa trong công việc mình theo
sự hướng dẫn của lương tâm thì họ
có thể được cứu rỗi. Cả những
kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng,
nhưng nhờ ơn Chúa cố gắng sống đời
chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn
trợ giúp cần thiết để họ
được cứu rỗi. Thực vậy Giáo Hội
xem những gì là chân thiện nơi ho, như để
chuẩn bị họ lãnh nhận Phúc âm, và như một ân
huệ mà Đấng soi sáng mọi người ban cho
hầu cuối cùng họ được sống. Nhưng
thường con người bị ma quỷ gạt
gẫm, làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ
đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối,
khiến họ phụng sự tạo vật hơn là
phụng sự Đấng Tạo Hóa (x. Rm.1, 21.25); hoặc
vì họ sống chết như không có Thiên Chúa trên
đời này, nên liều mình rơi vào sự thất
vọng tột độ. Vì hằng quan tâm làm vinh danh Thiên
Chúa, và cứu rỗi tất cả những người
ấy và hằng nhớ lời Chúa truyền: “Hãy rao
giảng Phúc âm cho mọi tạo vật” (Mc.16, 15), nên Giáo
Hội tận tâm lo lắng và cổ võ việc truyền
giáo”.
Trong số
được trích dẫn trên của hiến chế
về Giáo Hội, Công đồng có cái nhìn rất thoáng
về từ ngữ “thuộc về Giáo Hội”: không
những anh em ly khai mà cả những người sống
trong tôn giáo ngoài kitô, những người vô thần[67]
cũng có thể được kể như “thuộc
về Giáo Hội”. Với quan niệm này của Công
đồng, thành ngữ “ngoài Giáo Hội không có ơn
cứu độ” đã được giải thích
dứt khoát và mở ra cái nhìn lạc quan về ơn
cứu độ.
Có thể nói
vấn đề “ơn cứu độ cho những
người ngoài kitô giáo” là vấn đề “ngoài Giáo
Hội không có ơn cứu độ”, cho nên lịch
sử thần học về vấn đề ơn
cứu độ cho dân ngoại là lịch sử giải
thích thành ngữ “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu
độ”. Vấn đề này liên hệ đến
những vấn đề ân sủng, tội nguyên tổ,
và bí tích- xét như những phương thế giao hòa con người
với Thiên Chúa và xóa tội nguyên tổ cũng như
tội riêng...
Tín điều
tội nguyên tổ là một yếu tố giải thích
thành ngữ “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu
độ”. Nhưng phải chăng tất cả mọi
người chấp nhận nguyên tội đều có cái
nhìn bi quan về ơn cứu độ cho lương dân
như Fulgence de Ruspe, như Luther và phần lớn anh em Tin
lành, như C. Jansen và những người thuộc quan
điểm Jansénisme, và như Léonard Feeney ở thế
kỷ XX này? Lịch sử thần học cho thấy không
như vậy.
Theo thiển ý, có
nhiều sai lầm trong vấn đề này vì người
ta đã đặt vấn đề không khéo. Người
ta thường đặt vấn đề: “Không có ân
sủng con người có thể làm gì?” “Không có ân sủng,
con người có thể làm những hành vi tốt
để được cứu độ không?”. Dù
rằng đặt vấn đề như vậy
người ta vẫn có thể trả lời
được và vẫn có thể trả lời đúng,
nhưng thực tế có khi nào con người sống mà
không có ân sủng của Thiên Chúa đâu! Ngày nay các thần học
gia thường đặt vấn đề “tương
quan giữa ân sủng và tự nhiên” để giải
quyết vấn đề nguyên tội, nguyên sủng, ân
sủng, và vấn đề ơn cứu độ cho
những người ngoài kitô giáo.
Thánh Augustin đã
từng chủ trương ân sủng không được
ban cho tất cả mọi người[68].
Nhưng nếu ân sủng không được ban cho tất
cả mọi người, thì số phận của
những người không có ân sủng sẽ ra sao,
đặc biệt những người sống ngoài kitô
giáo[69]?
Từ quan điểm này phát sinh vấn đề: không có
ân sủng người ta có thể làm gì và không thể làm
gì? Cách đặt vấn đề như vậy tồn
tại trong suốt dòng lịch sử thần học cho
tới ngày nay[70].
Cách đặt
vấn đề “không ân sủng con người có thể
làm gì và không thể làm gì” phản ánh quan niệm về con
người:
·
Đầu
tiên Thiên Chúa tạo dựng con người trong tình
trạng thuần túy tự nhiên (pura natura);
·
và rồi
Ngài ban ân sủng cho con người: ân sủng thánh hóa và các
ơn ngoại nhiên;
·
Adam và Eva
phạm tội, con người mất ân sủng thánh hóa và
ơn sủng ngoại nhiên;
·
con
người ở trong tình trạng tội do tội nguyên
tổ.
Sau khi Adam phạm
tội, con người sống trong tình trạng không ân
sủng, nói cách khác, trong tình trạng “tự nhiên”, hay
đúng hơn tình trạng “tự nhiên sa đọa”. Để
có thể được cứu độ và có thể làm
những hành vi cứu rỗi, con người phải
sống trong tình trạng ân sủng được ban
lại nhờ tin vào Đức Yêsu Kitô và chịu phép
rửa trong Giáo Hội Người. Đối với
những người không sống trong tình trạng ân
sủng, họ có được cứu độ không?
Họ có thể làm những hành vi cứu độ không?
Với nhãn quan này, ơn cứu độ của dân ngoại
thật mong manh và bi quan! Cái nhìn này đã tồn tại lâu
dài và ưu thắng trong lịch sử thần học.
Thời Trung
cổ, thánh Bonaventura (1221-1274) đã đưa ra lý
thuyết hai con đường cứu độ: một
qua bí tích và một không qua bí tích, nhưng phần lớn
được áp dụng cho kitô hữu.
Hồng y Nicola de
Cusa (1401-1464) cũng chủ trương những
người ngoại được cứu độ và
những tôn giáo ngoài kitô cũng là những phương
tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ dân
ngoại[71]. Nhưng
quan điểm này không ảnh hưởng ngay trên nền
thần học thời bấy giờ.
Nói chung, quan
điểm “tự nhiên thuần túy- ân sủng thêm vào cho
tự nhiên- trở lại tình trạng tự nhiên không ân
sủng” đã ảnh hưởng quá sâu vào thần học
kể từ thánh Augustin, và đã chi phối quan niệm
ơn cứu độ cho lương dân. Quan điểm
về con người như trên khó cho ta cái nhìn đúng
đắn và chính xác về ơn cứu độ của
những người ngoài kitô giáo.
Vào đầu
thế kỷ này Ripalda cho rằng, con người
được tạo dựng hướng về trật
tự siêu nhiên, thế nên mọi hành vi của con
người đều có thể mang ơn cứu
độ hay đúng hơn đều có tính cứu
độ[72].
Đặc
biệt với K. Rahner (1904-1984), cái nhìn nhân học của
ngài giúp hiểu rõ và hiểu chính xác hơn quan điểm
của Giáo Hội về ơn cứu độ cho
những người ngoài kitô giáo. Karl Rahner lấy lại
tư tưởng của J. Maréchal cho rằng con
người có ước muốn tự nhiên hưởng
kiến hạnh phúc. Ước muốn này tuy bị
điều kiện hóa nhưng vẫn là một khao khát
tuyệt đối. Ước muốn hưởng
kiến hạnh phúc này, được gọi là tự
nhiên vì nếu con người cố ý gạt bỏ nó, con
người sẽ không đạt được sự
triển nở toàn vẹn và hạnh phúc[73].
Con người là
thể xác và tinh thần, là tinh thần nhập thể, là
hữu thể cho Thiên Chúa, nghĩa là con người có
khả năng đáp trả lời mời của Thiên Chúa;
và tùy mức độ con người đáp trả
lời mời gọi của Thiên Chúa con người
trở nên hoàn toàn hơn, hạnh phúc hơn, triển
nở trọn vẹn hơn. Hiểu như vậy,
chương trình tạo dựng con người và tạo
dựng con người để con người được
hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, là một
chương trình liên tục nơi Thiên Chúa; không phải
đầu tiên con người được tạo
dựng trong tình trạng thuần túy tự nhiên (pura natura),
sau đó mới được nâng lên tình trạng siêu nhiên
(surnatura). Thiên Chúa tạo dựng con người, là
để con người được hưởng
sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con
người giống hình ảnh Thiên Chúa ngay từ lúc
tạo dựng con người, chứ không phải Ngài
tạo dựng con người giống cái gì khác,
trước khi giống hình ảnh Thiên Chúa.
Khái niệm
“thuần túy tự nhiên” chỉ xuất hiện vào thế
kỷ XVI sau cuộc tranh luận với Baius. Nơi thánh
Thomas người ta cũng thấy tư tưởng cho rằng
Thiên Chúa có thể không ban tính bất tử, tình trạng an
bình và ơn hưởng kiến cho con người;
nhưng chỉ ở thế kỷ XVI người ta
mới nói một cách rõ ràng: trên nguyên tắc Thiên Chúa có
thể tạo dựng con người mà không cho con
người được hưởng kiến Thiên Chúa[74].
Con người
thuần túy tự nhiên là một giả sử không có
thực. Nói theo P. Schoonenberg, cách nói “con người trong tình
trạng thuần túy tự nhiên”, chỉ cho thấy rõ tính
nhưng không của ân sủng, cũng tương tự
như cách nói “không ân sủng của Thiên Chúa con
người có thể làm gì?[75]“.
Con người hiện tại luôn luôn sống trong lời
mời gọi thông chia sự sống với Thiên Chúa, không
bao giờ con người hiện tại sống trong tình
trạng con người thuần túy tự nhiên. Nhưng
tình trạng con người hiện tại cũng không
“tự nhiên”, mà đã là ân sủng, nghĩa là
được ban “nhưng không” cho con người. Khi nói
con người ở trong tình trạng thuần túy tự
nhiên, hay trên nguyên tắc có thể ở trong tình trạng
thuần túy tự nhiên, cho thấy “con người
được gọi chia sẻ sự sống của
Thiên Chúa” là một hồng ân, chứ không có nghĩa “Thiên
Chúa phải ban sự sống vĩnh cửu cho con
người”.
Ân sủng là tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người
được biểu lộ qua việc:
·
tạo
dựng và mời gọi con người thông chia sự
sống của Thiên Chúa;
·
ban
những đặc ân cho con người trong những hoàn
cảnh cụ thể;
·
tha thứ
và giao hòa khi con người phản bội;
·
ban Con
Một Ngài là Đức Yêsu cùng với Thánh Thần, làm con
người trở nên dễ thương, dễ yêu và
“đầy ơn phước”.
Nếu con
người được tạo dựng do tình yêu và cho
tình yêu, thì làm gì có trường hợp một ai đó
sống ngoài ân sủng của Thiên Chúa? Như vậy, chúng
ta không nên đặt vấn đề “không có ân sủng,
con người có thể làm gì và không thể làm gì?”, cũng
không nên nói “con người trong tình trạng thuần túy
tự nhiên” vì thực tế không có như vậy; và
nếu chúng ta đề cập vấn đề như
vậy, chúng ta phải hiểu đây chỉ là giả
thiết; và khi đặt vấn đề như vậy,
chúng ta có ý làm nổi bật tính “nhưng không” của tình
yêu và ân sủng Thiên Chúa đối với con người.
Nếu con
người được tạo dựng vì tình yêu và cho
tình yêu, nghĩa là để thông chia sự sống vĩnh
cửu với Thiên Chúa, để hưởng kiến Thiên
Chúa- thì ơn cứu độ là chuyện trong tầm tay
của mỗi người, vì đó là điều Thiên Chúa
muốn: “Thiên Chúa muốn mọi người
được cứu và nhận biết chân lý” (1Tm.2,4).
Thiên Chúa muốn; và Ngài toàn năng cùng rất mực khôn
ngoan để thực hiện ý định và chương
trình cứu độ của Ngài; nên nếu ai không từ
chối lời mời gọi của Ngài đều
được cứu độ. Hiểu như vậy,
ơn cứu độ được ban cho tất cả
mọi người kể cả những người
đang sống ngoài kitô giáo, vì thực sự họ vẫn
thuộc về Hội Thánh của Đức Yêsu Kitô
một cách nào đó, nếu họ tin vào chân lý và thể
hiện niềm tin này bằng chính cuộc sống của
họ, khi họ sống cho chân lý, cho tình yêu.
Trong thần
học người ta phân biệt ân sủng bất tạo
và ân sủng thụ tạo; ân sủng thụ tạo
lại được phân ra thường sủng[76]
và hiện sủng; hiện sủng còn được phân
ra ân sủng đủ, ân sủng kiến hiệu, ân
sủng trợ giúp, ân sủng chữa trị v.v. Nhưng
tất cả mọi ân sủng dù là ân sủng này hay
đặc sủng kia, ân sủng trợ giúp hay chữa
trị, ân sủng kiến hiệu hay đủ..., tất
cả đều hướng tới ơn cứu
độ; nghĩa là làm cho chúng ta được làm con
Thiên Chúa, được sống trong tình yêu của Thiên
Chúa, được hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên
Chúa.
Có thể nói
lịch sử đời người là lịch sử tình
yêu và ân sủng của Thiên Chúa đối với con
người; nói cách khác lịch sử mỗi người
là lịch sử Thiên Chúa cứu độ người
đó. Mọi biến cố xảy ra trong cuộc
đời đều là biến cố tình yêu, ân sủng,
cứu độ. Chỉ khi nào con người, dù là kitô
hữu hay lương dân, cố tình từ khước tình
yêu và ân sủng của Thiên Chúa, con người mới
bị kết án mà thôi!
Thiên Chúa vui lòng ban
ân sủng cứu độ cho tất cả mọi
người, kể cả những người không mang
danh kitô hữu. Đây là chân lý đã được
lịch sử thần học soi sáng, các suy tư thần
học và huấn quyền Giáo Hội trong mọi thời
đại và đặc biệt trong thế kỷ XX
khẳng định. Vấn đề còn lại là: đâu
là phương tiện Thiên Chúa dùng để ban ân sủng
cứu độ cho những người sống không mang
danh kitô hữu. Chúng ta sẽ bàn vấn đề này trong
những trang tiếp theo.
HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Không thể đối thoại nếu cho rằng các tôn giáo ngoài kitô hoàn toàn sai lầm và không có giá trị cứu độ!
[2] Chẳng hạn nơi Dòng Tên. Xem Tổng Hội 32, 4, 53-56; 5, 1-2; Tổng Hội 33, 1, 37.41
[3] Chúng ta hiểu tại sao quyển sách của H. R. SCHLETTE, Towards a Theology of religions, bản dịch của W. J. O’HARA, HERDER-FREIBURG 1966 được xuất bản trong bộ QUESTIONES DISPUTATAE.
[4] Những ki-tô hữu bản xứ tự hỏi “ông bà tổ tiên mình là người ngoại, sống trong các tôn giáo ngoài kitô, liệu có được cứu độ không?”.
[5] Anh em duy vật cho rằng tất cả đều do vật chất mà có, thế nên không có thần thánh Thượng Đế chi cả. Chết là hết đối với con người, không có đời sau hoặc kiếp sau, không có gì phải mong hoặc hy vọng sau cái chết. Tuy quan niệm như vậy nhưng người duy vật vô thần vẫn ao ước khao khát hạnh phúc: hạnh phúc cá nhân và tập thể, dù nó hoàn toàn tại thế. Người duy vật vô thần ao ước một thế giới đại đồng, trong đó không còn cảnh người bóc lột người, và như thế là hạnh phúc, vì mọi người sẽ được hưởng theo nhu cầu nhưng vẫn làm theo khả năng của mình. Để có được thế giới đại đồng- nơi trong đó con người sống hạnh phúc- con người không được mong đợi một sự trợ giúp nào của thần thánh hoặc Thượng Đế (vì làm gì có thần thánh thượng đế), nhưng con người phải tự cứu lấy mình, phải đứng lên tự giải phóng mình khỏi cảnh áp bức bóc lột. Chỉ có con người mới cứu được con người. Chỉ có con người mới làm cho con người được hạnh phúc. Với anh em duy vật vô thần, không có vấn dề hạnh phúc vĩnh cửu, không có việc cứu độ hiểu như sự cứu độ từ trên, và như vậy cũng không có vấn đề ân sủng.
Anh em Phật tử cho rằng đời là bể khổ: sinh- lão- bệnh- tử. Để được hạnh phúc thật, nghĩa là thoát khỏi cảnh luân hồi nghiệp chướng, con người phải diệt dục để có thể đi vào cõi thường hằng hạnh phúc chốn niết bàn. Với quan niệm của đức Phật: không ai có thể cứu người khác khỏi cảnh luân hồi khổ ải nếu không phải là chính người đó. Mỗi người phải tự cứu lấy mình bằng diệt dục, thực thi bát chính đạo và giữ các giới luật. Với thời gian trong dòng lịch sử, phật tử đã cầu nguyện với đức Phật và các vị bồ tát để giúp mình chóng được giác ngộ, mau được siêu thoát,... Về điểm này đạo Phật đã tiến triển: coi việc giác ngộ, giải thoát không chỉ hoàn toàn do mình, nhưng cũng cần sự trợ giúp của chư Phật thập phương và các vị bồ tát.
Anh em Ấn Độ giáo tin vào Tuyệt Đối Brahman và cho rằng: con người được giải thoát khỏi nghiệp chướng và biết bao điều kiềm tỏa khác nhờ biết Brahman. Vì vậy họ đã khẩn cầu để được dẫn tới ánh sáng, tới sự sống và tới cái chân thực, và nhờ ân sủng họ được nhìn thấy Đức Chúa.
[6] C. BIHLMEYER- H. TUCHLE, Histoire de l' Eglise, t.1, PARIS 1962, p. 362
[7] cf. AUGUSTINUS, Epist. 194, 8 PL.33, 877
AUG., De gratia Christi et de peccato originali I, 3 PL.44, 361
cf. H. RONDET, Gratia Christi,
BEAUCHESNE ET SES FILS- PARIS 1948, pp. 118-119
[8] cf. AUG., Epist.186,1 PL.33, 816
[9] cf. AUG., De Gratia Christi, 33, PL.44, 376
[10] cf. E. PORATLIÉ, art. Augustin,
trong DTC., t. I/1, col. 2381 trích bởi H. RONDET, op. cit., p.113
[11] AUG., Ad Simplicianum, l.1, q.2, 20 PL.40, 125
l.1, q.1, 10 PL.40, 106
[12] Ibidem, q.1, 11 PL.40, 107
[13] Ibid., q.1, 10 PL.40, col.106
[14] Ibid., q.1, 11, PL.40, 107
[15] Ibid., l.1, q.2, 16 PL.40, 121
[16] AUGUSTINUS, De divers. quaest. ad Simpli. I, 16 PL.40, 121
In Joannem, tract.109, n. 2 PL.35, 1918
Serm.22, 9-10 PL.38, 153-154
Serm.27, 2-3 PL.38, 178-179
Epist.194, 14 PL.33, 879
In Joannem, tract. 87, n. 3 PL.35, 1853
[17] AUG., De civitate Dei, 21, 12 PL.41, 727
cf. H. RONDET, op.cit., pp. 133-135
[18] AUG., Contra duas epist. Pelag. I, 6-7 PL.44, 553
De corrept. et gratia 42 PL.44, 942
[19] Ibidem 39 PL.44, 940
[20] Ibid., 40 PL.44, 940
[21] AUG., De praedestinatione sanctorum 7 PL.44, 964
[22] AUG., In Joannem, tract. 45, n. 13 PL.35, 1725
De corrept. et gratia 14 PL.44, 941
[23] AUG., De corrept. et gratia 10 PL.44, 921
trích bởi H. RONDET, De gratia Christi, pp. 133-135
[24] AUG., Ad Simplicianum I, 2, 16-22 PL.40, 120-128 trích bởi A. GAUDEL, art. “Péché originel” trong DTC. XII/1, col. 379
[25] AUG., De dono perseverantiae, 16 PL.45,1002
cf. H. RONDET, op. cit., p.140: “Cur, inquit, gratia Dei non secundum merita datur? Respondeo: quoniam Deus misericors est. Cur, ergo, inquit, non omnibus? Et hic respondeo: quoniam Deus judex est. Ac per hoc et gratis ab eo datur gratia, et justo ejus in aliis judicio demonstratur quid in eis quibus datur conferat gratia”.
[26] Ibid., PL.45, 925
[27] AUG., Contra Juli., IV, 3, 14 sq PL.44, 743sq.
[28] AUG., Contra duas epist. Pelag., 3, 24; 2,9 PL.44, 607. 577
De spir. et lit., 3, 5 PL.44, 203
De Gratia Christi 26, 27 PL.44, 374
Tưởng cũng cần phải nói ở đây: Giáo Hội đã kết án Baius vì những mệnh đề tương tự. Xem DS.1927.1928. cf.CH. BAUMGARTNER, La grace du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN- DESCLÉE- BELGIUM 1963, pp. 60-61
[29] AUG., De libero arbitrio, III, 23, 66 PL.32, 1303 sq
Không phải vì trẻ phải đau khổ mà được cứu độ (Ibidem, III, 23, 68 PL.32,1304)
trích bởi A. GUDEL, art. “Péché originel” trong DTC XII/1, PARIS 1933, col.376-377
[30] AUG., De spir. et lit. 28, 48 PL.44, 230
[31] AUG., De pecc. mer. et rem. 18, 31 PL.44, 169
Ad Simplic. I, 2 PL.40, 111-112
[32] Thật sự trong những quy phạm này, công đồng kết án chứ không khẳng định, những kết án cũng là một cách khẳng định.
DS.225 cf. AUG., Epist.175, 2 PL.33, 760: gratia Dei qua christiani sumus, qua et ipsum nostrae voluntatis arbitrium vere fit librum! Còn các đối thủ của Augustin lại nói: dicunt gratiam Dei ad hoc tantum valere, ut peccata praeterita dimittentur, non ut futura vitentur (apud AUG., De gratia et lib. arbit., I, 26 PL.44, 896-897);
DS.227 cf. AUG., Serm., 156, 13 PL.38, 856: iam ergo dicunt adiutricem esse gratiam Dei ad facillius facienda. Ista sunt verba eorum: ad hoc dedit Deus gratiam suam hominibus ut quod facere iubentur per liberum arbitrium facilius possint implere per gratiam.
[33] H. RONDET, Gratia Christi, PARIS 1948, p. 124
cf. AUG., Epist.214, 1-2, PL.33, 969. Các tu sĩ cho rằng nếu Thiên Chúa điều khiển ý muốn chúng ta, thì khi chúng ta phạm tội chúng ta đâu có lỗi và như vậy chúng ta đâu đáng trách mắng, người ta chỉ cần xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta thôi (apud AUG., De correptione et gratia, 4-5 PL.44,918)
[34] H. RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce,
PARIS 1964, trg.232
[35] AUG., De civitate Dei, VIII, 10 PL.41, 235: ab uno vero Deo atque optimo et naturam esse qua facti ad ejus imaginem sumus, et doctrinam qua eum nosque novermus, et gratiam qua illi cohaerendo beati sumus.
AUG., De libero arbitrio, II, 54 PL.32, 1270: “Omme bonum ex Deo sed quoniam non sicut homo sponte cecidit, ita etiam sponte surgere potest, per rectam nobis desuper dexteram Dei, id est Dminum nostrum Jesum Christum fide firma teneamus”
cf. H. RONDET, Gratia Christi, PARIS 1948, p.107.110
[36] AUG., Retract. I, 9, 6 PL.32, 598: “Quia omnia bona, sicut dictum est, et magna et media et minima a Deo sunt, sequitur ut ex Deo sit etiam bonus usus liberae voluntatis”.
AUG., In Joannem, V, 1 PL.35, 1414: Qui lequitur mendacium, de suo loquitur. Nemo habet de suo nisi mendacium atque peccatum. Si quid autem homo habet veritatis atque justitiae, ab illo fonte est, quem debemus sitire in hac eremo, ut ex eo quasi guttis quibusdam irrorati et in hac peregrinatione interim consolati, ne deficiamus in via, venire ad ejus requiem satietatemque possimus.
[37] AUG., Epist.217, 4, 12 PL.983: “nous avons perdu le libre arbitre pour aimer Dieu par suite de la grandeur du premier péché. cf. CH. BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, BELGIUM 1963, p. 60
AUG., Enchir., 30 PL.40, 246: “Libero arbitrio male utens homo, et se perdidit et ipsum... cum libero peccaretur arbitrio, victore peccato amissum est liberum arbitrium”. Cf. H. RONDET, op. cit., p. 105-106
[38] AUG., De spiritu et littera, 52, PL.44, 23
cf. H. RONDET, op. cit., pp. 122-123
[39] AUG., De natura et gratia, 50 PL.44, 271
cf. DS. 1536; H. RONDET, ibid.
[40] CH. BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, BELGIUM 1963, p. 60
[41] AUG., De divers. quaest. 17, PL.40, 15
Confess. XI, 16 PL.32, 815
De divers. quaest. ad Simplici., II, 2, 2 PL.40, 138-139
cf. H. RONDET, op. cit., p.141 ghi chú 1.
[42] cf. C. BIHLMEYER- H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t.I, pp. 365-370
[43] DS.390 cf. AUG., Contra duas epis. Pelag., II, c. 9 n.21 PL.44, 586
DS.392 cf. AUG., In Evangelium Johann., tract.V, 1 PL.35, 1414
[44] Xem 25 quy phạm (canon) của công đồng Orange II năm 529, đặc biệt quy phạm 3-7; cf. DS.373-377
[45] CYPRIANUS CARTHAG., Ep. ad Iubaianum c.21, PL.3, 1169A Công Đồng LATÊLANÔ, De fide catholica, c.1, DS. 802
Thư của Thánh Bộ gởi TGM. BOSTON, DS. 3866-3873
[46] FULGENCE DE RUSPE, De fide ad Petrum, 38, 79
Xem Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse,
TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN- FV. 27, p. 111
[47] Tôi e rằng không thể đặt vấn đề “không có ân sủng của Thiên Chúa, con người có thể làm gì?”, vì ân sủng của Thiên Chúa bao trùm tất cả, thâm nhập tất cả vũ trụ này!
[48] “Quod liberum arbitrium per se sufficit ad aliquod bonum”
cf. DS. 725; cf. E. PORTALIÉ, art. “Abélard”, trong DTC. I/1 PARIS 1923, col. 36-55. 47
[49] E. PORTALIÉ, Ibid.
[50] (44). MELANCHTHON, Loci com., trong CORP. REF., t.XXI, col. 88.92: Nulla est voluntatis nostrae libertas..., internos affectus prorsus nego in potestate nostrae esse.
[51] DS. 1551-1553
[52] DS. 1554
[53] DS. 1555
[54] DS. 1556
[55] DS. 1557
[56] DS. 1925
[57] DS. 1927
[58] Đây là lập trường của Louis Molina (1536-1600) và đặc biệt của Léonard Lessius (1554-1623), các ngài chủ trương Thiên Chúa tiền định ex praevisis meritis, nghĩa là post praevisa merita.
cf. H. RONDET, Essais sur la théologie de la grâce, pp. 210 seq.
Gratia Christi, pp.306 seq.
[59] Đây là lập trường của Hồng y giám mục Robert Bellarmin (1542-1621) và của Francois Suarez (1548-1617). Các ngài chủ trương Thiên Chúa tiền định ante pravisa merita. cf H. RONDET, Essais sur ..., pp. 211 seq.
Petau cho rằng chỉ có tiền định ante praevisa merita là của Augustin cf. H. RONDET, Gratia Christi, p. 330
Hai lập trường này đều được những người thuộc dòng Tên bảo vệ, và để tránh những tranh luận gây gương xấu, bề trên cả dòng Tên là Aquaviva đã truyền dòng chấp nhận lập trường tiền định ante praevisa merita của Suarez và Bellarmin.
[60] H. RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, pp.215 seq.
[61] Jansen chủ trương “Thiên Chúa không muốn cứu độ tất cả mọi người và Đức Kitô không chết cho tất cả mọi người”.
[62] Giáo lý này hàm chứa trong mệnh đề của Corneille Jansen và được phái mang tên ông trích dẫn nhiều: “Semipelagianum est dicere, Christum pro omnibus omnino hominibus mortuum esse aut sanguinem fudisse” (DS.2005)
[63] DS. 2308: Necesse est, infidelem in omni opere peccare.
DS. 2311: Omne, quod non est ex fide christiana supernaturali, quae per dilectionem operatur, peccatum est.
[64] DS.2429: Extra Ecclesiam nulla conceditur gratia.
DS.2439: Voluntas, quam gratia non praevenit, nihil habet luminis nisi ad aberrandum, ardoris nisi ad se praecipitandum, virium nisi ad se vulnerandum est capax omnis mali et incapax ad omne bonum.
[65] Cf. H. R. SCHILETTE, Towards a theology of religions, HERDER FREIBURG 1966, p.16 bản dịch của W. J. O'HARA trong bộ QUESTIONES DISPUTATAE 14.
[66] Ep. S. Officii ad archiep. Bostoniensem ngày 08.08.1949 cf. DS.3866-3873.
[67] Không do lỗi của họ, nghĩa là những người vô thần “vô tri bất khả thắng”.
[68] AUG., De dono perseverantiae, 16 PL.45, 1002:
“Cur, inquit, gratia Dei non secundum merita datur? Respondeo: quoniam Deus misericors est. Cur ergo, inquit, non omnibus? Et hic respondeo: quoniam Deus judex est. Ac per hoc et gratis ab eo datur gratia et justo ejus in aliis judicio demonstratur quid in eis quibus datur conferat gratia”.
cf. H. RONDET, op. cit., p. 140
[69] Trên nguyên tắc những người này thiếu ân sủng vì họ không biết Đức Kitô. Có chỗ Augustin cho rằng tất cả hành động của lương dân là tội (AUG., Jul., IV, 3, 14 sq. PL.44, 743sq. etc.); nhưng cũng có chỗ thánh nhân cho rằng nơi lương dân cũng có những hành vi tốt (cf. AUG., De spir. et lit., 28, 48 PL.44, 230).
[70] ST. THOMAS, S.T., Ia-IIae, q.109, a.1-10
V. D. MEERSCH, art. “Grâce”, trong DTC.VI/2, col.1571-1594
A. DREXEL, Traité de la Grâce (ou l'home dans le Christ),
COLLÈGE PONTIFICAL St. PIE X- ĐALAT, sans date, pp. 64-98
[71] G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966, p. 73
J. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, BĐM 1982, trg.12
[72] Cf. H. RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, trg 49 ghi chú 27
[73] K. RAHNER, La nature et la grâce,
trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t.II,
DDB-PARIS 1963, trang 18-19
Theo G. Muschalek, Cajetan đã phủ nhận lập trường cho rằng con người có ước vọng tự nhiên hưởng kiến Thiên Chúa. Cũng theo Muschalek, trong tư tưởng của thánh Thomas có nói con người có ước ao hưởng kiến Thiên Chúa trực tiếp. Ước muốn này có cơ cấu của bản tính con người được tạo dựng.
Tuy vậy đối với thánh Thomas, việc hưởng kiến trực tiếp Thiên Chúa vẫn là một hồng ân nhưng không, mà con người không thể tự mình đạt được. Hồng ân này con người không chấp nhận nó như từ ngoài hoặc không quan trọng với mình, nhưng ngược lại như một hồng ân mà con người ao ước khao khát từ chính tâm hồn mình.
(Xem G. MUSCHALEK, La création et l'alliance: problème des rapports entre la nature et la grâce, trong MYSTERIUM SALUTIS, VI, trg.337-354.344).
J-H. WALGRAVE coi con người là một hữu thể cho Thiên Chúa. cf. JAN- HENDRIK WALGRAVE, un salut aux dimensions du monde, dịch từ tiếng Hòa Lan bởi EMMANUEL BRUTSAERT, CERF-PARIS 1970, pp.43-44.
[74] G. MUSCHALEK, op.cit, p. 343
[75] P. SCHOONENBERG, L'home dans le péché,
trong MYSTERIUM SALUTIS, VIII, p. 45
[76] Thường sủng hay thánh sủng là ân sủng làm cho con người được làm con Thiên Chúa, được sống trong tương giao thiết thân với Thiên Chúa.