HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
iii).
Lập trường tích cực từ nhăn quan mặc
khải
Con
người có thể tiếp nhận mặc khải
Có
mặc khải trong các tôn giáo ngoài ki-tô
b). Biểu tượng- ngôn
ngữ tôn giáo
Ân sủng cứu độ qua
biểu tượng trong các tôn giáo
PHẦN III: TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ TÔN GIÁO
KHÔNG KITÔ
i).
Đức tin cần thiết để được
cứu độ
Trường
hợp không tin không có tội 8
b). Qua việc thờ
phượng trong tôn giáo
B. BÍ TÍCH CÔNG GIÁO VÀ BIỂU
TƯỢNG TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ
Với quan
điểm kitô giáo, chúng ta nhận thấy nơi các tôn giáo
ngoài kitô có những điểm sau:
·
những
điểm tích cực như tin vào Tuyệt Đối;
dạy ăn ngay ở lành; có nhiều điều
đúng và hay,
·
có những
nhà thần bí kết hiệp với Tuyệt
Đối,
·
nhưng
cũng có nhiều điều sai lầm không thể dung
hợp với đức tin kitô giáo, chẳng hạn
như thuyết luân hồi nơi đạo Phật
và đặc biệt hiện tượng Hồi giáo
phá hủy các cộng đoàn kitô hữu ở Đông
Phương cũng như việc coi Mahomet trên đức
Yêsu; các tôn giáo ngoài kitô dường như ngăn cản
người ta tin nhận Đức Yêsu.
Lập
trường tiêu cực về các tôn giáo ngoài kitô lấy
những điểm không tích cực làm luận
chứng chính, thế nhưng không giải thích
được cách ổn thỏa những điểm
tích cực nơi các tôn giáo ngoài kitô. Lập trường
tích cực như chúng ta đă xét từ trước
tới giờ, giải thích tạm ổn những nét tích
cực nơi các tôn giáo ngoài kitô, nhưng vẫn chưa
giải thích thỏa đáng những sai lầm
nơi các tôn giáo ngoài kitô và đặc biệt hiện
tượng Hồi giáo.
Với nhăn quan
mặc khải nh́n các tôn giáo ngoài kitô, hy vọng đóng góp
phần nào vào nỗ lực giải thích hiện
tượng các tôn giáo ngoài kitô, theo quan điểm kitô giáo,
có những điểm tích cực cũng như tiêu
cực.
Những
bước chính của lập luận này như sau:
·
Thiên Chúa
muốn cứu độ con người, Ngài đă mặc
khải để cứu độ con người.
Mặc khải là hành vi cứu độ.
·
Nếu tôn
giáo ngoài kitô có mặc khải, th́ tôn giáo ngoài kitô cũng là
phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu
độ con người.
·
Với ánh
sáng về Do Thái giáo và với giáo huấn về việc
lưu truyền và bảo vệ mặc khải nơi
Kitô giáo, chúng ta giải thích được những sai
lầm nơi các tôn giáo ngoài kitô và hiện tượng
Hồi giáo.
Thiên Chúa muốn
tất cả mọi người được cứu
độ và nhận biết chân lư (1Tm.2, 4).
Để
thực thi chương tŕnh cứu độ con
người, Thiên Chúa đă mặc khải chính Ngài và
chương tŕnh cứu độ loài người cho con
người. Thiên Chúa mặc khải để cứu
độ con người; và nếu không có mặc
khải th́ không có cứu độ; hành vi mặc khải
của Thiên Chúa cũng là hành vi Thiên Chúa cứu
độ con người.
Như vậy,
để biết các tôn giáo ngoài kitô có là phương
tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con
người hay không- hay nói cách khác các tôn giáo ngoài kitô có
nằm trong chương tŕnh Thiên Chúa cứu độ con
người hay không- chúng ta t́m hiểu xem các tôn giáo ngoài
kitô có mặc khải không. Nếu chúng ta chứng minh
được có mặc khải trong các tôn giáo ngoài kitô,
chúng ta có thể kết luận các tôn giáo ngoài kitô
nằm trong chương tŕnh cứu độ con
người của Thiên Chúa, hay nói cách khác, các tôn giáo
ngoài kitô cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng
để cứu độ những người sống
trong các tôn giáo đó.
Con người có
khả năng tiếp nhận mặc khải của Thiên
Chúa, bởi v́ Thiên Chúa đă tạo dựng nên con
người để con người được
sống hạnh phúc với Thiên Chúa, để con
người được thông giao với Thiên Chúa.
Con người
tự bản chất có khả năng khai mở về
Tuyệt Đối và khả năng này vô hạn.
Nếu con người tự đóng kín với chính ḿnh hay
những ǵ phàm trần mà không vươn lên, con
người không đạt được chính ḿnh, không
trở nên như ḿnh phải là, nghĩa là không
đạt đến mức độ thành toàn.
Khi Thiên Chúa
tạo dựng nên con người, Ngài đă tạo
dựng để con người được
trở nên giống Ngài. Nói cách khác, khi tạo dựng nên
con người, Ngài đă sống tương quan thân
thiết với con người, nghĩa là không
ngừng mở ra với con người, không ngừng
mặc khải cho con người. Hiểu như vậy,
Thiên Chúa luôn luôn mặc khải cho con người!
Những
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô tin rằng
Tuyệt Đối đă mặc khải cho họ qua tôn
giáo họ đang sống. Nói cách khác họ tin rằng
tôn giáo của họ là tôn giáo mặc khải. Chẳng
hạn những người theo đạo Balamôn coi
Rig-Veda là Çruti, nghĩa là Lời mặc khải,
người sống trong Do Thái giáo tin rằng Ngũ
Kinh của họ được mặc khải,
người Hồi giáo tin rằng kinh Coran là Kinh
Thánh,...[1].
Mặc khải
cũng có nhiều cấp độ, chúng ta có thể
tạm chia làm 3 cấp độ:
Nghĩa là qua
tự nhiên thiên nhiên, con người có thể nhận
ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Chẳng hạn:
“Vinh quang Thiên Chúa trời xanh vang lời kể lể,
ṿm cao xanh thuật lại việc Người làm,
ngày ngày thổ lộ nên lời,
đêm với đêm tỉ tê rằng biết;
nhưng chẳng rằng cũng chẳng nói năng,
không vang một tiếng ḥng lọt thấu tai
mà ḱa vạn lư thấy toàn cơi đất,
và từ ngữ đạt tới mút
cùng dương gian” (Tv.18, 2-5). Hoặc:
“V́ chưng lộ hiện rồi những ǵ biết
được về Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa đă bày
tỏ cho họ. V́ từ buổi tạo thành vũ
trụ, những ǵ nơi Người, mắt xác
thịt không thể thấy, th́ trí khôn nh́n ngắm
được nơi công việc Người làm” (Rm.1,
19-21).
Chúng ta có thể nói: mặc khải tự nhiên này
được ban cho tất cả mọi người, và
nếu không nhận được mặc khải nào
đặc biệt hơn, con người vẫn phải
đáp trả mặc khải tự nhiên này bằng
đức tin “tự nhiên”. Lương tâm cũng
được coi là mặc khải tự nhiên, v́
được coi là “tiếng Chúa” nói với mỗi
người.
Mặc khải
thần bí là mặc khải được ban cho một
số người đặc biệt, chẳng hạn
cho các nhà thần bí. Có
thể coi những người khởi lập nên tôn giáo
được mặc khải này- nếu họ
được mặc khải thực, v́ mặc khải
gắn liền với con người, mà con
người có tính xă hội, nên khi một người
được mặc khải, họ thường chia
sẻ kinh nghiệm về Tuyệt Đối họ
gặp được cho những người thân, cho
những người xung quanh. Và như vậy một tôn
giáo được khởi lập, bởi v́ với
những mặc khải họ nhận được (và
sau đó những người cùng chia sẻ niềm tin
với họ), họ có thái độ đối với
Tuyệt Đối được biểu lộ qua
những hành vi cá nhân (khi chỉ có một người) hay
qua hành vi tập thể (khi có nhiều người cùng chia
sẻ niềm tin[2]).
Mặc khải đặc biệt nơi ki-tô giáo
Mặc khải
đặc biệt nơi Kitô giáo với Đức Yêsu là
Lời Nhập Thể!
Kinh thánh kitô giáo
cũng chấp nhận sự kiện Thiên Chúa mặc
khải cho những người ngoài kitô giáo, những
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô.
Ngay sau khi con
người đầu tiên phản bội, Thiên Chúa đă
đi t́m con người và ngỏ lời với con
người đầu tiên, dù rằng con người
lẫn tránh Thiên Chúa (Kn 3, 9-10). Trong lần gặp
gỡ này, ơn cứu độ đă được
hứa ban cho con người (Kn.3, 15).
Hênok được Kinh Thánh ca ngợi, cho
rằng ông đă bước đi với Thiên Chúa (Kn.5,
22-24).
Như vậy chúng ta thấy Thiên Chúa không ngừng
hiện diện với con người.
Trong giao
ước Thiên Chúa kư kết với Noe và gia đ́nh ông,
giao ước này không chỉ gồm Noe và gia đ́nh,
nhưng bao gồm tất cả sinh vật sống với
họ: “Này đây là dấu Ta đặt giữa Ta và các
ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở với các
ngươi, đời đời măi măi” (Kn.9, 12.15-17).
Tương quan
giữa Thiên Chúa và con người đă được
chính Thiên Chúa quyết định, Ngài không ngừng
ngỏ lời, đối thoại và tỏ hiện
với con người để cứu độ con
người. Sau biến
cố Thiên Chúa gọi Abraham, Ngài vẫn tỏ ḿnh cho
những người ngoại như trong trường
hợp Balaam. Balaam là tiên tri của dân ngoại bên
bờ sông Phơrat, ông đă có tương quan
khá mật thiết với Thiên Chúa dù ông không phải
người Israel. Thiên Chúa đă phán dạy ông không
được trù ẻo dân Israel, v́ Israel là dân đă
được Thiên Chúa Yavê chúc phúc, và ông đă vâng
lời Thiên Chúa (Ds.22, 2-14). Với tŕnh thuật của Kinh
thánh về Balaam, chúng ta thấy Thiên Chúa đă tỏ
ḿnh cho tiên tri dân ngoại để can thiệp vào vận
số của con dân Israel. Nếu Balaam đă có
tương quan mật thiết với Thiên Chúa như
vậy, chắc chắn ông cũng đă truyền
đạt kinh nghiệm của ông với Thiên
Chúa cũng như những ư định của Thiên Chúa
mà ông đă lănh nhận cho những người ông
gặp, dù đó là những người lân cận sống
với ông hay những người tới thỉnh
cầu ư kiến ông từ xa.
Với Kyrô xứ
Batư, tiên tri Ysaya nói là Thiên Chúa đă xức dầu
phong vương để ông giải phóng dân Israel
khỏi bị lưu đày ở Babylon, Kyrô là một
người ngoại làm vua dân ngoại, nhưng Thiên Chúa
đă gọi ông, tuyển chọn ông, đă nói với
ông (Ys.44, 28; 45, 1). Kyrô được Thiên Chúa phong
vương, nhờ ông mà dân Israel được trở
về từ nơi phải lưu đày, ông đă
thực hiện ư định của Thiên Chúa nơi
dân Israel. Như vậy không có lư ǵ buộc ta phải
phủ nhận ư kiến cho rằng cũng chính vua
được xức dầu này đă thực hiện ư
Chúa nơi dân tộc ông tức dân Batư. Có thể nói qua vị vua
“được xức dầu” này, Thiên Chúa đă nói và
cai trị, không những với dân Israel mà thôi, nhưng c̣n
với cả dân Batư nữa.
Như vậy,
với ư định Thiên Chúa muốn cứu độ
mọi người, cùng với những
đoạn Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đă nói với
dân ngoại và ngay cả tiên tri của dân ngoại, cùng
với những kinh nghiệm về Thiên Chúa mà chúng ta
thấy nơi các tôn giáo ngoài kitô những kinh nghiệm
rất sâu xa và những điều chân thật[3].
Chúng ta có thể kết luận: Thiên Chúa không chỉ
mặc khải cho dân ngoại và cho những người
sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua việc tạo dựng,
qua lương tâm, qua sự khôn ngoan do lư trí t́m kiếm,
nhưng Ngài c̣n mặc khải cho họ qua lời hoặc
qua chính cuộc sống và con người của
người mà Thiên Chúa đă và bày tỏ ư định
của Ngài cách đặc biệt.
Nếu những
tôn giáo ngoài kitô cũng có những yếu tố
được mặc khải, cũng là phương
tiện Thiên Chúa dùng cứu độ những
người sống trong đó, th́ tại sao có
những sai lầm không thể dung hợp với
đức tin kitô giáo, chẳng hạn:
·
đạo
Cao Đài cho rằng đạo Công Giáo cũng chỉ
như những đạo khác, đức Yêsu chỉ là
một vị tiên tri lớn như bao vị tiên tri lớn
khác mà thôi?
·
đạo
Phật chủ trương luân hồi, nghĩa là chết
có thể đầu thai làm người lại hoặc
làm con vật nếu họ không đuợc giải thoát lên
cơi niết bàn?
·
Hồi giáo
coi đức Yêsu là một tiên tri lớn nhưng không
phải là Thiên Chúa.
Để trả
lời, chúng ta xem gương người Do thái. Họ cùng
với chúng ta tin Cựu Ước là Lời Thiên Chúa nói
với con người, và như vậy không thể
sai lầm. Chính đức Yêsu cũng tin như vậy:
“Trước khi trời đất qua đi th́ một
chấm một phết cũng sẽ không qua khỏi
lề luật, trước khi mọi sự đă
xảy ra” (Mt.5, 18). Nhưng nơi người Do thái, chúng
ta thấy không chỉ có Kinh thánh mà người ta c̣n có
tập tục tiền nhân, và lắm khi người ta c̣n
coi tập tục của tiền nhân trên cả lệnh
truyền của Thiên Chúa. Đức Yêsu đă tố
cáo việc này (Mt.15, 1-20). Người Do thái đă quá nô
lệ vào lề luật vào chữ viết, và không
hiểu đúng lệnh truyền của Thiên Chúa; chẳng
hạn họ coi con người được tạo
dựng v́ lề luật, chứ không phải lề
luật v́ con người (Mt.12, 1-14). Khi họ giải
thích lề luật như vậy, giải thích
Lời Chúa như vậy, họ đă đem ư họ
làm ư Chúa, và như vậy là sai lầm. Hậu quả là
họ không tin nhận Đức Yêsu!
Với ánh sáng
của người Do thái giáo, chúng ta có thể trả
lời:
Các tôn giáo ngoài kitô có những sai lầm và cũng có
những chân lư, có những yếu tố mặc
khải;
những yếu tố mặc khải và chân lư
đến từ Thiên Chúa nhưng những điều sai
lầm đến từ con người, là công tŕnh của
con người.
Sở dĩ có trường hợp như vậy
một phần là v́ con người đă đi
quá những điều Thiên Chúa muốn mặc
khải, con người muốn có một hệ
thống hợp lư và chắc chắn; phần khác v́ con
người chưa b́nh tâm lắng nghe Thánh Thần và không
được đặc ân lưu truyền mặc
khải cách vẹn toàn như Giáo Hội Công Giáo.
Nếu chúng ta
hiểu biểu tượng là dấu chỉ của
thực tại vô h́nh, và dấu chỉ là thực
tại khả giác mang ư nghĩa, th́ biểu tượng là
thực tại khả giác mang ư nghĩa của thực
tại vô h́nh[4].
Dựa
vào tương quan giữa thực tại
được biểu tượng và thực tại
biểu tượng, người ta đă phân làm ba
loại: biểu tượng quy ước, biểu
tượng tự nhiên và biểu tượng thực.
Chẳng hạn
trong lănh vực tôn giáo,
·
biểu
tượng quy ước: cái hào quang trên đầu ai
đó là biểu tượng người đó
thuộc về Thiên Chúa, là thánh;
·
biểu
tượng tự nhiên: trái tim đức Yêsu
là biểu tượng t́nh yêu của Thiên Chúa hoặc
của chính đức Yêsu đối với con
người;
·
biểu
tượng thực: các bí tích kitô giáo như phép rửa,
Thánh Thể.... Gọi là biểu tượng thực, v́ nó
vừa là biểu tượng vừa là thực tại
được biểu tượng.
Biểu
tượng- xét như dấu chỉ của thực
tại vô h́nh- là cây cầu giữa cái khả kiến và
cái vô h́nh, giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa
hữu hạn và vô cùng. Dưới một khía cạnh nào
đó, có thể coi thiên nhiên như tỏ lộ của
Thiên Chúa, và như vậy chỉ cần nh́n thiên nhiên, và
thấy nơi những ǵ hữu h́nh này dấu chỉ về thực
tại vô h́nh, dấu chỉ của Thiên Chúa. Thiên nhiên là
biểu tượng của Thiên Chúa[5].
Đây là những biểu tượng tự nhiên mà
đă là người, với bất cứ nền văn
hóa nào, cũng có thể lănh hội được. Ngay
cả cục đá, cái cây, một lịch sử, một
người,....cũng có thể trở thành biểu
tượng của Thiên Chúa cho những người
có kinh nghiệm hoặc những người chấp
nhận chia sẻ niềm tin của những
người được kinh nghiệm[6].
Biểu
tượng xét như là một dấu chỉ của
thực tại vô h́nh là ngôn ngữ của tôn giáo. Nói
đến tôn giáo là nói đến thực tại vô h́nh,
một “thực tại hoàn toàn khác” không thuộc thế
giới của chúng ta; là nói đến kinh nghiệm
về thực tại vô h́nh và nỗ lực diễn tả
chính thực tại hoàn toàn khác này, là nói đến thái độ của con
người đối với thực tại siêu việt
này.
Người có
kinh nghiệm về thực tại hoàn toàn khác này, có
thể diễn tả những kinh
nghiệm ḿnh có với thực tại cũng như
chính thực tại bằng
ngôn ngữ triết học và thần học, hoặc
bằng các h́nh ảnh nghệ thuật, nhưng ngôn
ngữ thích hợp nhất đối với
đối tượng “thực tại hoàn toàn khác” này
là ngôn ngữ biểu tượng[7].
V́ thực tại
được kinh nghiệm thuộc về thế
giới khác, nên chỉ diễn tả được
phần nào, chỉ diễn tả được khía
cạnh nào đó của thực tại siêu việt
thôi. Ngay cả với biểu tượng- ngôn ngữ
đặc biệt của tôn giáo- cũng chịu
giới hạn này: một đàng giúp hiểu thực
tại siêu việt nhưng đàng khác cũng che
dấu chính thực tại này[8].
Biểu
tượng không là thực tại đó, không trùng khít
với thực tại siêu việt mà
biểu tượng diễn tả[9];
tự bản tính, biểu tượng mời gọi
con người vượt biểu tượng để
đi đến chính thực siêu vượt mà biểu
tượng diễn tả. Trường hợp đức
Yêsu là đặc biệt, Ngài vừa là h́nh ảnh, biểu
tượng của Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng chính là
Thiên Chúa nữa. Ngài là biểu tượng thực: vừa
là biểu tượng vừa là chính thực tại siêu
việt[10].
Diễn tả kinh nghiệm với Đấng Siêu việt
Kinh nghiệm
với Đấng Hoàn Toàn Khác, với Đấng siêu
việt của cá nhân hay của một tập thể (khi
tập thể này chia sẻ cái biết, niềm tin, và cách
diễn tả đối với Thực Tại Siêu
Vượt của một cá nhân), được diễn
tả đầu tiên bằng ngôn ngữ của
biểu tượng, dù thuộc lănh vực tri thức hay thái
độ sống, thuộc lănh vực giáo lư hay nghi lễ.
Chẳng hạn đức tin của các kitô hữu “Tôi
tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng, tôi tin đức
Yêsu là Con Một Thiên Chúa là Chúa chúng tôi, tôi tin Thánh
Thần,...” đầu tiên được gọi là
biểu tín (biểu tượng của đức tin)
nghĩa là cái qua đó diễn tả thực tại
ḿnh tin[11].
Từ ngữ Cha
để chỉ Thiên Chúa, và từ ngữ Con Một
để chỉ Ngôi Lời, cũng được coi
là những từ ngữ biểu tượng; v́ rằng nếu
không hiểu theo nghĩa biểu tượng
người ta sẽ luôn luôn hiểu Cha có trước Con,
và Con hiện hữu sau Cha, bé hơn Cha; nhưng
đối với đức tin của chúng ta: Cha và Con
bằng nhau, không ai lớn hơn ai, Cha không có
trước Con và Con không có sau Cha. Như vậy nếu
hiểu theo nghĩa b́nh thường, chúng ta thấy
đầy dẫy mâu thuẫn trong niềm tin của
chúng ta và khó có thể chấp nhận
được; nhưng nếu chúng ta hiểu từ
ngữ này như những từ ngữ biểu
tượng, diễn tả Thực
Tại Siêu Việt, th́
chúng ta có thể hiểu được phần nào Thực Tại, và có thể
chấp nhận cùng tin được. Lấy thêm thí
dụ, chẳng hạn khi người ta thờ
trời và bầu trời được coi là biểu
tượng của Thiên Chúa. Trong trường hợp
này người ta không tôn thờ khoảng không ở trên
đầu, nhưng người ta tôn thờ Thực Tại Siêu Vượt mà
khoảng không “trời” ở trên
đầu người ta diễn tả những thuôïc
tính của Ngài, như thực sự siêu vượt
cao vời trên con người, sự vô cùng; và như
vậy người ta tôn thờ thực tại mà
bầu trời biểu hiện! Cũng tương tự
như vậy khi người ta tôn thờ thần Cây
Đa, thần Cục Đá; người ta không thờ v́
chúng là Đá là Cây, nhưng người ta tôn thờ Thực Tại ẩn
giấu sau những biểu tượng Đá Cây đó[12].
Biểu
tượng gắn liền với kinh nghiệm “thánh
thiêng” của một cá nhân hay một tập thể nào
đó, như vậy biểu tượng gắn
liền với nền văn hóa của tập thể kinh
nghiệm về thực tại hoàn toàn khác này[13].
Biểu
tượng không có gía trị như nhau. Có biểu
tượng diễn tả thực tại siêu việt
trong suốt hơn, và cũng có những biểu
tượng diễn tả “thực tại hoàn toàn khác” kém
rơ ràng hơn.
V́ gắn liền
với nền văn hóa, nên có biểu tượng mất
dần ư nghĩa hoặc tác dụng theo thời gian và
tùy theo thế hệ. Ngay với một người, theo
thời gian, biểu tượng cũng có thể biến
nghĩa[14]. Nói
như vậy không muốn nói tất cả mọi biểu
tượng đều mai một theo thời gian; có
những biểu tượng gắn liền với kinh
nghiệm của một tập thể và tôn giáo, và biểu
tượng này chỉ mất nếu không c̣n tôn giáo đó
nữa!
Qua biểu
tượng, con người có thể gặp lại kinh
nghiệm của những người đi
trước, có thể có kinh nghiệm với thực
tại siêu việt như những người và
tập thể xưa đó.
Trong những trang
trên, chúng ta đă t́m hiểu và đi đến khẳng
định:
·
Thiên Chúa vui
ḷng ban ân sủng cứu độ cho tất cả mọi
người, không những cho kitô hữu, mà c̣n cho
cả những người sống trong các tôn giáo ngoài
kitô và cho cả những người chưa nhận
biết Thiên Chúa-trừ phi lỗi tại họ cố t́nh
từ chối Tin Mừng đức Yêsu Kitô[15].
·
Thiên Chúa
tạo dựng con người là hồn và xác, và Ngài
thường ban ân sủng cho con người theo cơ
cấu “xác hồn”.
·
Các tôn giáo
ngoài kitô có những biểu tượng như dấu
chỉ của thực tại siêu việt vô h́nh. Các tôn giáo
ngoài kitô này diễn tả kinh nghiệm với những
hiểu biết của ḿnh về Thực Tại Siêu
Việt cũng như thái độ của ḿnh với
Tuyệt Đối bằng những biểu tượng.
Biểu tượng ở đây có thể là những h́nh
ảnh nghệ thuật, hoặc thực tại qua
đó có hiện tượng thần hiển, hoặc
những từ ngữ, những biểu tín như giáo
lư phải tin, hoặc những nghi thức tế tự con
người dâng lên Thiên Chúa, v.v.
·
Những
người sống trong tôn giáo ngoài ki-tô này, qua các
biểu tượng, có thể gặp lại
kinh nghiệm của người xưa (cá nhân hay
tập thể), và có thể có những kinh nghiệm và
sự hiểu biết mới về Tuyệt Đối
cũng như thái độ phải có đối với
Ngài nữa. Lịch sử các tôn giáo ngoài kitô cho chúng ta
thấy điều này qua những bậc thánh, tăng
và các nhà thần bí.
·
Những
biểu tượng, cũng như những tôn giáo ngoài kitô
này, không là công tŕnh hoàn toàn do con người xét như
con người độc lập với Thiên Chúa,
nhưng là công tŕnh của con người với sự
trợ giúp của Thiên Chúa trong t́nh yêu của Ngài[16].
Nghĩa là có những biểu tượng trong các tôn
giáo ngoài kitô là công tŕnh của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể
ban ân sủng cho con người mà không cần dấu
chỉ[17], đây
là trường hợp “đặc biệt” có thể
áp dụng cho tất cả mọi người dù
người đó thuộc bất cứ tôn giáo nào. Sự
thường, Thiên Chúa ban ân sủng cho con người
qua trung gian dấu chỉ hoặc biểu tượng,
v́ đó là ư định của Thiên Chúa. Sở dĩ
vậy v́ Thiên Chúa tạo dựng con người là
hồn và thân xác, tinh thần và vật chất, là tinh
thần nhập thể. Nói cách khác, ân sủng
của Thiên Chúa là t́nh yêu của Ngài đối với con
người được diễn tả và biểu
lộ qua những dấu chỉ khả giác, và tương
tự con người đáp trả bằng t́nh yêu
đối với Thiên Chúa cũng được diễn
tả và biểu lộ qua những dấu chỉ
khả giác[18].
Vậy chúng ta có
thể kết luận: Thiên Chúa muốn và vui ḷng ban ân
sủng cứu độ cho những người
sống trong tôn giáo ngoài kitô qua những biểu
tượng, những dấu chỉ khả giác mang ư
nghĩa của thực tại vô h́nh có trong các tôn giáo đó,
phần nào giống như Ngài muốn ban ân sủng cho
những kitô hữu qua những biểu tượng có trong
Kitô giáo[19].
Tất cả
mọi người- nếu họ được cứu
độ, dù chưa nhận biết Thiên Chúa hoặc
đang sống trong các tôn giáo ngoài kitô- đều được
cứu độ nhờ
đức Yêsu Kitô và Giáo hội của Người, v́
chỉ có một Đấng trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và con người (1Tm.2, 5) và
v́ dưới gầm trời này không có một Danh nào
khác đă được ban xuống cho nhân loại
để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông
được ơn cứu thoát (Cv.4, 12), cũng
như v́ ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi.
Kitô hữu được
cứu độ nhờ:
·
tin vào Thiên
Chúa và đức Yêsu Kitô, v́ “không có đức tin, th́
vô phương làm đẹp ḷng Thiên Chúa” (Dt.11, 6);
·
lănh
nhận bí tích rửa tội và các bí tích khác;
·
ăn ngay
ở lành, sống giới răn yêu thương như
Thiên Chúa truyền cho chúng ta.
C̣n những người chưa nhận biết Thiên
Chúa cách rơ ràng, nghĩa là họ chưa tin và không lănh
nhận các bí tích như chúng ta, phải chăng
họ được cứu độ chỉ nhờ
ăn ngay ở lành, sống theo lương tâm? hay họ
vẫn được cứu nhờ đức tin, qua
các biểu tượng xét như dấu chỉ của
thực tại vô h́nh? Cũng vậy đối
với những người sống trong các tôn giáo ngoài
kitô, họ có được cứu bởi đức
tin không? và đức tin nào? và các biểu tượng
giúp họ nhận ân sủng cứu độ như
thế nào?
Trong phần
tương quan giữa Công Giáo và các tôn giáo ngoài kitô này, chúng
ta sẽ xét về:
đức tin;
tương quan giữa bí tích Công Giáo và biểu
tượng ban ân sủng nơi các tôn giáo ngoài kitô;
công giáo tính của Giáo Hội thể hiện qua
việc truyền giáo.
Thánh Phaolô trong
thư gởi tính hữu Do Thái khẳng định: “Không
đức tin th́ vô phương làm đẹp ḷng Thiên
Chúa” (Dt.11, 6).
Vậy
đức tin là ǵ? Để chỉ điều này
tiếng Do thái dùng những chữ:
·
nma (Aman) gợi lên sự chắc
chắn, vững chăi; với từ ngữ này bản LXX
dịch bằng chữ PistiV, Pisteuw, Alhqeia, và bản phổ thông dịch
bằng chữ fides, credere, veritas;
·
hTB (Batah) gợi lên sự bảo
đảm, tín thác; bản LXX dịch bằng ElpiV, Elpizw, Pepoiqa; bản phổ thông dịch
bởi spes, sperare, confido[20].
Tin là một hành
vi nhân linh, nghĩa là với tất cả tự do và ư chí,
chấp nhận một ai đó, cho những
điều họ nói là thật, chắc chắn, trông
cậy được[21]. Hiểu
như vậy, tin là sự gặp gỡ giữa hai ngôi
vị, là một cách biết, là sự thông hiệp
giữa hai ngôi vị. Đối với kitô hữu
trong lănh vực tôn giáo, tin là biết Thiên Chúa hiện
hữu, chấp nhận tất cả những ǵ Ngài
mặc khải, thông hiệp với Thiên Chúa trong t́nh
yêu.
Đối
tượng đức tin không phải là một sự
vật nhưng là một ngôi vị. Người ta không
bao giờ tin vào cái ǵ, nhưng tin vào ai đó, với
đối tượng là một sự vật,
người ta có thể xác tín, chứ không tin, không
đặt niềm tin tưởng vào một sự
vật[22].
Tin không chỉ
chấp nhận ai đó hiện hữu, nhưng c̣n là tin
tưởng phó thác trông cậy nơi người
đó. Tôi tin vào một ngân hàng, là tin vào người lănh
đạo ngân hàng đó có khả năng đáp ứng
những đ̣i hỏi cũng như hy vọng của tôi[23]. Một
người mẹ tin vào con ḿnh dù đă bao lần làm cho bà
thất vọng, không phải v́ bà đơn sơ hy
vọng hăo hoặc ảo tưởng nơi người
con, nhưng c̣n v́ cái sâu xa khác nữa. Như vậy
đức tin là hành vi qua đó con người phải
dấn thân, và như vậy cũng có thể nói, có tính
chất như một cuộc đánh cá phần nào, đ̣i
con người tin phải liều lĩnh, liều
lĩnh nhưng vẫn có sự chắc chắn nào đó.
Đức tin
phải được biểu lộ qua việc
làm. Thánh Yacôbê tông đồ nói: “Đức tin không có
việc làm là đức tin chết” (Yac.2,
17). Đức tin là lời đáp lại mặc
khải của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không mặc
khải, th́ con người không thể biết về Thiên
Chúa, và như vậy không thể tin vào Thiên Chúa[24].
Ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục mặc khải cho con
người qua trung gian những người rao giảng,
và con người vẫn đáp ứng bằng
đức tin, bằng sự vâng phục đức tin:
“Làm sao kêu lên Đấng mà người ta không tin? làm sao tin
Đấng mà người ta không được nghe?
làm sao nghe nếu không có người rao giảng?” (Rm.10,
14).
Đức tin có
được là do mặc khải. V́ con người là
tinh thần và thân xác, là tinh thần nhập thể, nên
Thiên Chúa mặc khải cho con người qua những
dấu chỉ khả giác, và rồi con người
đáp trả bằng ḷng tin được biểu
lộ qua lời nói, qua việc làm, qua những dấu
chỉ khả giác.
Cũng như
trong lănh vực t́nh yêu, người ta không chỉ yêu
bằng lời nói nhưng c̣n bằng cả việc
làm, nếu chỉ nói yêu mà không có hành động cụ
thể đi theo, e rằng người ta không yêu thật
(1Yn.3, 11-18). Nếu ta chỉ nói ta tin, mà không diễn
tả đức tin bằng hành động, th́ e
rằng chúng ta cũng không tin thật. Thánh Yacôbê tông
đồ nói: “Hăy cho tôi thấy đức tin không
việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm
của tôi mà cho anh thấy đức tin của tôi...
cũng như thể xác không hồn là thây chết”
(Yac.2, 18.26).
Chỉ qua dấu
chỉ mà hữu thể nhân linh mới có thể gặp
gỡ nhau, và nếu không qua dấu chỉ, không có
cuộc gặp gỡ đích thực giữa con
người[25]. Chính
v́ vậy Thiên Chúa đă nhập thể, cần phải có
người đi rao giảng, và cũng cùng lư do mà con
người diễn tả đức tin của ḿnh qua
những dấu chỉ, qua lời nói và qua chính cuộc
sống của ḿnh với những việc làm. Trong
mục này chúng ta t́m hiểu đức tin của những
người chưa nhận biết Thiên Chúa, và
đức tin của những người sống trong các
tôn giáo ngoài kitô được diễn tả qua cuộc
sống thường ngày.
Ở đây chúng
ta đề cập đặc biệt đến
người chưa nhận biết Thiên Chúa, hoặc
những người cũng tin có sự hiện hữu
của một Đấng Tuyệt Đối
nhưng họ không sống trong một tôn giáo nào.
Với những
người vô thần, công đồng Vatican II dạy:
“Cả những kẻ chưa nhận biết Thiên Chúa cách
rơ ràng nhưng nhờ ơn Chúa, họ cố gắng
sống đời chính trực, th́ Chúa quan pḥng không từ
chối ban ơn trợ lực cần thiết
để họ được cứu rỗi”
(LG.16). Lời dạy của công đồng hoàn toàn phù
hợp với truyền thống của Giáo Hội:
“Thiên Chúa không từ chối ân sủng cho những
người làm điều họ phải làm”[26]. Trong
lịch sử thần học chúng ta thấy Giáo Hội
dạy những người chết trong t́nh trạng
nguyên tội không được thừa hưởng
Nước Trời, thế nhưng điều này không
hàm chứa khẳng định “một người
chết không chịu phép rửa tự bản chất
phải loại khỏi Nước Trời”[27].
Đức Giáo Hoàng Innocente III khi nói về các con trẻ
chết trong t́nh trạng không được lănh
phép rửa, Ngài nói: “Thiên Chúa không thể nào lại
để cho bao nhiêu con trẻ phải hư mất
đời đời”[28].
Với lời
khẳng định của công đồng trong LG.16, chúng
ta giải thích làm sao lời kết án của
Đức Giáo Hoàng Innccentê XI năm 1679 về những
mệnh đề của những người chủ trương
nền luân lư “rộng răi”? Mệnh đề bị
kết án chủ trương:
·
“Đức
tin Thiên Chúa duy nhất được coi là cần
thiết, sự cần thiết phương tiện,
không phải đức tin rơ ràng Thiên Chúa Đấng
thưởng phạt” (DS.2122);
·
“Đức
tin theo nghĩa rộng, từ chứng từ các tạo
vật hay bởi nguyên do tương tự đủ
để được công chính hóa” (Ds.2123).
LG.16 cho rằng,
không những người tin Thiên Chúa hiện hữu
nhưng cả những người chưa nhận
biết Ngài cũng có thể được cứu
rỗi. Sở dĩ những người
chủ trương nền luân lư rộng răi bị
kết án v́ họ cho rằng chỉ cần tin có Thiên
Chúa là đủ để được cứu
độ, và như vậy hàm chứa phủ nhận
sự cần thiết của việc mặc khải
trong ḍng lịch sử. Lập trường chủ
trương như vậy rơ ràng là sai lầm!
Lời kết án
của Đức Giáo Hoàng Innocentê XI ở trên không áp
dụng cho những người không nhận biết
Thiên Chúa khi họ không thấy rơ phải tin; v́ người
ta chỉ bị buộc cách luân lư phải tin khi
người ta thấy rơ sự khả tín[29],
c̣n nếu không thấy rơ th́ không buộc phải tin.
Ai cũng biết
là mọi người đều được
hưởng mặc khải tự nhiên qua tạo vật,
lương tâm. Nếu con người cố t́nh từ
chối khi thấy rơ phải tin, người đó có
lỗi và như vậy coi như cố t́nh từ
chối ơn cứu độ; nhưng nếu
người đó không thấy rơ phải tin, có thể v́
một lư do nào đó như ảnh hưởng nền
giáo dục và xă hội, v́ hiểu sai về Thiên Chúa[30],v.v...,
người đó không buộc phải tin; và như vậy
khi người đó không tin, người đó không có
lỗi; trường hợp sau này là trường
hợp được công đồng nói tới.
Dầu ngày nay
vẫn có những người chủ trương vô
thần, nhưng thời gian gần đây có những
tác phẩm nói về Thiên Chúa của người vô thần[31].
Chúng ta không biết họ trả lời thế nào
trước Thiên Chúa về khẳng định vô thần
của ḿnh, có thể họ không có lỗi và nếu
vậy họ là đối tượng của lời cầu
trong kinh nguyện Thánh Thể: “chỉ một
ḿnh Chúa biết ḷng tin của họ”[32].
Những
người vô thần, những người chưa
nhận biết Thiên Chúa, và cả những người
nhận biết Thiên Chúa hiện hữu nhưng không
sống trong một tôn giáo nào, tất cả những
người này đều lănh nhận mặc khải
tự nhiên như vũ trụ vạn vật,
lương tâm và bao dấu chỉ tự nhiên trong
cuộc sống con người. Có thể họ không
đọc ra ư nghĩa của biểu tượng
“thực tại thiêng liêng” này, dù những dấu
chỉ hay biểu tượng này vẫn hiện diện
đối với họ:
·
vũ
trụ đẹp tươi là dấu chỉ cho thấy
phải có Đấng sáng tạo tuyệt vời;
·
t́nh yêu
giữa con người với nhau như t́nh yêu nam nữ,
t́nh yêu vợ chồng, t́nh yêu con cái, t́nh người,
t́nh bạn,... là dấu chỉ cho thấy có một
Đấng yêu họ vô cùng;
·
sự chân
thật, trung thành, quảng đại mà họ gặp trong
cuộc sống thường ngày cũng là dấu
chỉ biểu tượng cho thấy chân, thiện,
mỹ của Đấng đă thông ban những sự
đó cho con người;
·
lương
tâm như tiếng nói nhủ bảo họ ăn ngay ở
lành, làm lành lánh dữ... nhưng có thể họ không
nhận ra tiếng nói luôn trung thành dơi theo họ là
của Thượng Đế, dù trong cuộc sống
họ vẫn tùng phục vâng lời.
Mặc khải
tự nhiên vẫn luôn là hiện tại cho những
người vô thần, cho những người đă
nhận biết Tuyệt Đối nhưng không sống
trong một tôn giáo nào, cũng như cho tất cả
mọi người kể cả những người
sống trong các tôn giáo ngoài kitô và trong Kitô giáo. Bổn
phận chúng ta, tất cả mọi người không
trừ ai, đều phải đáp trả mặc khải
này của Thiên Chúa, nếu không chúng ta sẽ mắc
lỗi. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta đă
thấy bao nhiêu người tự xưng là vô thần
đă sống đáp trả những biểu
tượng hay dấu chỉ tự nhiên
của thực tại vô h́nh một cách rất chu đáo
tốt đẹp; nghĩa là họ đă
đang sống đức tin, đang biểu lộ
đời sống đức tin bằng chính cuộc
sống hằng ngày mà họ không biết, và như vậy
họ vẫn được cứu độ.
Sau đây, chúng ta
sẽ t́m hiểu sâu hơn về lựa chọn căn
bản- một lựa chọn quyết định theo
đường lành hay đường dữ, theo sự
ác hay sự thiện, theo đường tà hay nẻo chính,
theo Thiên Chúa hay ma quỷ.
Lựa chọn
căn bản xảy ra khi một người đến
tuổi khôn, có thể phân biệt sự thiện
sự ác, có khả năng suy nghĩ và quyết
định khi có dịp, và chọn sự thiện
v́ chính sự thiện chứ không phải v́ một lư
do nào khác. Không phải tất cả mọi hành vi tự do
của con người đều là lựa chọn
căn bản. Lựa chọn căn bản chi phối
hầu như tất cả những hành vi luân lư
của người đó, trừ phi nó được
chọn lựa ngược lại.
Chẳng hạn,
một em bé ra khỏi t́nh trạng trẻ con chưa
biết ǵ bằng hành vi tự do đầu tiên của
ḿnh, khi dịp đến em quyết định không
nói dối v́ đó là điều xấu chứ không
phải v́ cha mẹ không muốn, cũng không phải v́
em sợ bị phạt hoặc sợ sẽ bị phát giác
là đă nói dối; nghĩa là em quyết định
bằng một chọn lựa đầu tiên trong
đời cách tự do hoàn toàn, không làm điều
xấu v́ nó là điều xấu. Và cả cuộc
đời em sẽ được chi phối bởi
lựa chọn căn bản đầu tiên này, trừ phi
nó được thay đổi bằng một lựa chọn
tương tự[33].
Một em bé
sống trong gia đ́nh ngoài kitô giáo hoặc không tôn giáo,
em không biết Thiên Chúa cách rơ ràng, nhưng khi làm
cuộc lựa chọn căn bản bằng việc
làm điều thiện v́ đó là điều thiện
chứ không v́ một lư do nào khác, em đă chọn Thiên
Chúa qua hành vi lựa chọn điều thiện này.
Giả sử như sau này em trở thành kitô hữu, th́ hành
vi đức tin đầu tiên sẽ hàm chứa và làm
mới lại lựa chọn ban đầu; như vậy
có thể nói, lựa chọn luân lư và lựa chọn
thần học tự nền tảng là một; cái khác
là đi từ mặc nhiên đến minh nhiên.
Với một em
bé sinh trong một gia đ́nh Kitô giáo, em được nghe
nói về Thiên Chúa, biết Thiên Chúa. Hành vi tự do
đầu tiên của em là sự lựa chọn Thiên
Chúa. Hành vi tự do lựa chọn đầu tiên này
cũng hàm chứa lựa chọn sự thiện[34].
Lựa chọn
căn bản cũng có thể là lựa chọn
điều dữ! Và nếu vậy suốt
cuộc đời của người này vẫn
chịu ảnh hưởng của quyết định
lựa chọn này, trừ phi người đó chọn
lựa lại.
Bằng hành vi
lựa chọn căn bản- lựa chọn điều
thiện- một người có thể lănh nhận
ơn công chính hóa, dù người đó sống trong tôn giáo
ngoài ki-tô hay trong một gia đ́nh không nhận biết Thiên
Chúa. Lựa chọn căn bản là một hành vi tin
nhận hoặc từ chối Thiên Chúa được
thể hiện qua hành động của ḿnh, một
cách dứt khoát.
Nếu một
người chọn sự thiện v́ đó là sự
thiện, th́ ngay cả khi họ chưa tuyên xưng
nhận biết Thiên Chúa họ đă biểu lộ
đức tin mặc nhiên vào Thiên Chúa rồi. Và nếu
họ chết trong t́nh trạng này, họ được
cứu độ. Những quyết định và hành
động trong cuộc sống thường ngày là những diễn
tả đức tin của ḿnh!
Đức Piô
XII trong bài diễn văn nói với các “cô đỡ” ngày
29.10.1951, đă nói:
“một hành vi t́nh yêu có thể đủ cho một
người trưởng thành nhận lănh ân sủng
thánh hóa và bù lại sự không có bí tích thanh tẩy”[35].
Nếu vậy, trong đời sống hằng ngày
của một người, có bao nhiêu dịp để
nhận lănh hồng ân cứu độ của Thiên Chúa?!
“Dù xây chín
đợt phù đồ,
không bằng làm phúc cứu cho một người”.
Những người nghèo luôn có bên chúng ta, những
người thiếu thốn đau khổ về tinh
thần đầy dẫy trên mặt đất này, như
vậy có rất nhiều dịp cho con người
thực thi bác ái để nhận lănh ơn cứu
độ!
Nếu
người nào đó làm một hành vi bác ái v́ đó là
điều tốt điều thiện điều nên
làm và phải làm, th́ người đó lập lại
chọn lựa căn bản ḿnh đă chọn trước.
Qua việc sống theo tiếng lương
tâm- tiếng Thiên Chúa nói qua lư trí này, người đó
biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa cho dù
họ không nhận biết Ngài cách rơ ràng; và rồi qua
hành vi tin vào Thiên Chúa cách minh nhiên hay ngay cả mặc
nhiên này, ân sủng thánh hóa có thể được ban cho
người đó!
Trong đời
sống gia đ́nh, tương quan giữa cha mẹ,
vợ chồng con cái đều phải là tương
quan t́nh yêu; mà t́nh yêu không bao giờ thiếu những
hy sinh triền miên phát xuất từ sự cảm
thông, tha thứ, quảng đại chịu đựng
trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày. Nếu chúng
ta sống đời gia đ́nh trong cuộc sống
hằng ngày cách ư thức và tự do, sống t́nh yêu v́
t́nh yêu, th́ chúng ta cũng lănh nhận ân sủng của
Thiên Chúa cho dù có thể chúng ta chưa nhận biết Ngài,
v́ “Thiên Chúa là t́nh yêu, và ai sống trong t́nh yêu là sống trong
Thiên Chúa” (1Yn.4, 8.16).
Những
đức tính tốt của bao người chúng ta gặp
trong cuộc sống thường ngày, như sự
thật thà, trung thực, thành tín, quảng đại, yêu
thương, có thể trở thành những tấm
gương, thôi thúc chúng ta sống tốt hơn,
thành tín trung thực hơn, quảng đại hơn,
yêu thương hơn! Dưới một khía cạnh
nào đó, chúng là những biểu tượng, dấu chỉ
của thực tại vô hằng mà qua đó Thiên Chúa dùng
để ban ơn cho những người không
sống trong bất cứ một tôn giáo nào hoặc ngay
cả những người chưa nhận biết Thiên
Chúa.
Tóm lại,
nếu một người chọn “điều
tốt” cho tất cả cuộc sống, hoặc trong
cuộc sống hằng ngày họ sống ăn ngay ở
lành theo tiếng lương tâm, th́ Thiên Chúa vui ḷng ban ân
sủng công chính hóa cho họ.
Những phong cảnh thiên nhiên, những người
tốt việc tốt ta gặp trong cuộc sống
hằng ngày như sự trung tín thật thà, ḷng
quảng đại, t́nh yêu dành cho nhau trong gia đ́nh hay
nơi bạn bè hay nơi nam nữ, đều là biểu
tượng, dấu chỉ qua đó Thiên Chúa mặc
khải và ban ơn cho con người, ngay cả cho
những người chưa nhận biết Ngài cách minh
nhiên.
Mọi tín
hữu của bất cứ tôn giáo nào, ngay cả Kitô
giáo, cũng đều phải sống tốt và vâng
phục tiếng lương tâm, đáp trả những
điều Thượng Đế nói với ḿnh qua các
biểu tượng tự nhiên, như t́nh yêu giữa con
người với nhau, t́nh yêu giữa vợ chồng
con cái, ḷng chân thành của con người mà chúng ta
gặp trong cuộc sống hằng ngày! Tín hữu của
bất cứ tôn giáo nào cố t́nh không đáp trả
những “mặc khải qua các biểu tượng tự
nhiên” này, e rằng họ cũng không đáp trả mặc
khải qua các biểu tượng nơi tôn giáo họ!
Người
chưa biết Thiên Chúa hoặc không sống trong một tôn
giáo, không có điều mà các tín hữu của mọi
tôn giáo có: những điều phải tin nhận
được diễn tả qua các biểu tượng[36].
Qua những biểu tín này, tín hữu có thể gặp
gỡ Tuyệt Đối; rồi qua các nghi lễ xét
như cách diễn tả hữu h́nh của đức
tin, tín hữu dâng lên Thượng Đế những
lời ngợi khen cùng tấm ḷng tôn kính bái thờ; và
qua những dấu chỉ hữu h́nh này, Thiên Chúa sẵn
ḷng biểu lộ t́nh yêu của Ngài đối với
họ, hoặc ban cho họ ân sủng thánh hóa, hoặc
ban cho họ những ân đặc biệt trong cuộc
sống, như ơn được bền đỗ,
ơn dễ dàng sống tốt hơn, sẵn sàng đáp
trả mọi “mặc khải” qua những biểu
tượng tự nhiên và đặc biệt trong cuộc
sống hằng ngày.
Một
điều khác cần ư thức khi nói đến các
biểu tượng nơi mọi tôn giáo: các biểu
tượng- nếu không là biểu tượng thực
như đức Yêsu- đều là dấu chỉ
của thực tại vô h́nh, nên không trùng khít với
thực tại; nó chỉ là dấu chỉ, nên nó
vừa tỏ lộ Thực Tại nhưng lại vừa
che dấu thực tại[37].
Nếu coi những biểu tượng này là thực
tại, là người ta tôn thờ ngẫu
tượng; mệnh lệnh cấm làm h́nh tượng
Thiên Chúa Yavê trong Cựu Ước, là cấm theo
nghĩa này!
Các biểu
tượng có tính cách hàm hồ- trừ biểu
tượng thực là đức Yêsu Kitô- nên nếu
không được hiểu đúng đắn sẽ che
dấu thực tại, tuy vậy người ta cũng không
thể bỏ biểu tượng v́ nếu vậy
thực tại không được diễn tả và không
thể được hiểu; do vậy người ta
đă dùng cách phủ định, để cố gắng
diễn tả và lại gần thực tại hơn[38];
hiểu trong nghĩa này, một cao tăng nói: “ngón tay
chỉ, hăy nh́n điều ngón tay chỉ chứ đừng
nh́n ngón tay”, một danh sĩ đạo Lăo dạy “bè
để qua sông, qua sông hăy bỏ bè”.
Thực Tại
Tuyệt Đối có nhiều tên gọi như Trời,
Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Tối
Cao, Tuyệt Đối, v.v., nhưng mỗi tên gọi chỉ
có thể diễn tả một khía cạnh nào đó
của thực tại. Những tên gọi này cũng
được coi như những biểu tượng
của Tuyệt Đối!
Các biểu
tượng cũng không có giá trị như nhau; có biểu
tượng thích hợp hơn để diễn
tả thực tại thiêng liêng nhưng cũng có
những biểu tượng diễn tả kém, có biểu
tượng thích hợp cho nhóm người này nhưng không
thích hợp cho nhóm khác, có biểu tượng thích hợp
cho thời này nhưng không thích hợp cho thời khác[39]. Đó
là lư do tại sao có hiện tượng biểu
tượng mai một với thời gian, và cũng có
những biểu tượng mới xuất hiện[40].
Với những
lưu ư trên, chúng ta đi vào những biểu tượng
nơi các tôn giáo ngoài kitô. Chúng ta chỉ đưa vài nét
đại cương, v́ để làm điều này
cách thích đáng, chúng ta phải nghiên cứu kỹ
lưỡng và thấu đáo hơn.
Với tín
đồ đạo Phật, đức Phật là một
biểu tượng, và hơn nữa là một biểu
tượng lịch sử[41].
Đức Phật là biểu tượng người tu
hành đắc đạo, giác ngộ, đă đạt cơi
phúc. Đức Phật không nhận ḿnh là Tuyệt
Đối, và tín đồ Phật giáo cũng không tôn
thờ Đức Phật như Tuyệt Đối.
Đức Phật nói: “Ta là Phật đă thành, các ngươi là
Phật sẽ thành; hết thảy mọi loài miễn là có
cảm giác hay hiểu biết, đều sẽ thành
Phật trong một mai sau”[42].
V́ có những
học tṛ lầm lẫn coi Đức Phật cũng
như tượng Phật là tuyệt đối, nên
một vị tổ sư trong đạo, muốn phá
trừ thành kiến chật hẹp của học tṛ,
đă chẻ tượng Phật ra cho vào lửa làm
củi[43].
Với tín
đồ Phật giáo, cây bồ đề cũng là
biểu tượng của sự giác ngộ. V́ vậy
Phật tử không cầu xin ân huệ vật chất hay
tinh thần khi đảnh lễ Phật mà chỉ bày
tỏ ḷng tôn kính ngưỡng mộ lư tưởng siêu
việt mà bức tượng tiêu biểu. Phật tử
cũng đảnh lễ cây bồ đề, không phải
để tỏ ḷng tôn sùng thờ lậy cái cây, mà xem
đó là tượng trưng của sự giác ngộ.
Dầu có nhiều nghi thức lễ bái trong các buổi
lễ, tín đồ Phật giáo không tôn sùng Đức
Phật như một thần linh[44].
Khi đứng
trước tượng Phật hay dưới gốc
bồ đề, phật tử nhớ lại
vị thầy đi trước đă được
giải thoát, đă giác ngộ, đă đạt hạnh
phúc; phật tử cũng nhớ lại con
đường đức Phật đă đi, cũng
như khả thể thành phật của mỗi
người; và có thể nhờ đó phật tử
ước muốn sống tốt hơn, muốn
sống từ bi hỷ xả hơn, muốn thực thi
hành vi bác ái hơn; nghĩa là, muốn bắt chước
Đức Phật và mong ước được
giải thoát, được giác ngộ,
được hạnh phúc.
Khi hành lễ, bái
lạy, xá hương, phật tử cũng có tâm t́nh
được nên giống Phật, có tâm t́nh ao ước
giải thoát và được hạnh phúc miên
trường.
Trong đạo
Phật c̣n có những biểu tượng khác nữa,
nhưng hiện tại với giới hạn của
bài cũng như với khả năng, không tiện đề
cập tới. Những điều được nói
ở đây về Đức Phật xét như biểu
tượng, qua đó những người Phật giáo
có thể gặp gỡ Thực tại Tuyệt
Đối, cũng đúng cho các biểu tượng
tương tự nơi các tôn giáo ngoài kitô khác.
Qua những
biểu tượng trong các tôn giáo ngoài kitô, tín hữu
vượt qua những dấu chỉ khả giác
để vươn tới thực tại vô h́nh, và
họ có thể được gặp gỡ thực
tại vô h́nh; qua ngôn ngữ biểu tượng này họ
hướng ḷng lên những sự thuộc về
thế giới khác, về Tuyệt Đối; họ
muốn sống tốt hơn, muốn trở thành con
người toàn diện hơn! Trước những
điều này chúng ta phải chân nhận Thiên Chúa
đă và đang hoạt động, đă và đang ban
ân sủng qua các biểu tượng, v́ tất cả
điều tốt đều đến từ Thiên
Chúa[45].
Kierkegaard cho
rằng “lời cầu nguyện cũng có thể là không
chân thực khi cầu nguyện với Thiên Chúa chân
thực, nhưng người ta cũng có thể cầu
nguyện trong chân lư mặc dù người ta dâng lời
cầu nguyện trước một “ngẫu
tượng””[46].
Một điều chúng ta nên biết rơ, nếu một
biểu tượng không là biểu
tượng thực, mà người ta coi biểu
tượng đó là Thực Tại, biểu
tượng đó trở thành ngẫu tượng.
Điều này đúng cả cho những biểu
tượng trong Kitô giáo; chính v́ vậy Yavê Thiên Chúa ra
lệnh cho con dân Israel không được làm h́nh
tượng Yavê để thờ (Tl.4, 15-20). Nếu
một người ngoại, họ nh́n các biểu
tượng như một biểu tượng, nghĩa là
như dấu chỉ của thực tại vô h́nh, th́
biểu tượng đó không là ngẫu tượng
đối với người ngoại này. Nếu
hiểu như vậy chúng ta có thể đồng ư với
Raymond Panikkar và Paradkar cho rằng “người Ấn giáo được cứu bởi
Đức Kitô nhưng qua các bí tích của Ấn giáo”[47].
Tóm lại,
niềm tin của những người sống trong các tôn
giáo ngoài kitô được diễn tả qua các
biểu tượng nơi các tôn giáo của họ; khi
họ nghĩ hay nh́n tới những biểu tượng
này, hoặc khi họ đáp trả bằng niềm tin
được biểu lộ qua những hành vi tôn
giáo như cúng tế bái lạy, họ có thể
nhận lănh ân sủng cứu độ của Thiên Chúa,
cũng như họ có thể được gặp
gỡ Thiên Chúa như Thực Tại của biểu
tượng tôn giáo họ sống, Đấng mà họ
không gọi cùng một tên với kitô hữu.
HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] A. M. WENSINCK, The Muslim Creed, 2nd. édition, CASS-LONDON 1965, p. 189, trích bởi G. PARRINDER, art. “Revelation in other Scriptures”, trong STUDIA MISSIONALIA, vol.20, pp. 101-102: “Coran là Lời Thiên Chúa, được viết trong sách, được ǵn giữ trong trí nhớ, được lập lại bằng lưỡi, được mặc khải cho vị tiên tri. Những lời loan báo, việc sao chép, việc đọc lại kinh Coran của chúng ta là được tạo thành, c̣n Coran th́ không được tạo thành”.
É. CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des Religions non-chrétiennes, PARIS-CERF 1965, p. 31, trích bởi G.THILS, op. cit., p. 109
[2] Xin đọc thêm về vấn đề này trong
Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, ĐALAT 1982, bđm. pp. 21-25
[3] Xem trong Y. PHẠM THANH LIÊM, op. cit., p. 21-25
[4] Xem ở trên, mục ....
Lời đầu Liminaire trong quyển Symbole, trong bộ RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959), pp. 7-9: biểu tượng là dấu chỉ của thực tại vô h́nh.
L. LEAHY, Philosophie de l'homme, DALAT 1974, p. II/6: dấu chỉ là thực tại khả giác mang ư nghĩa.
[5] M-M. DAVY, “Les symboles et l'histoire”
trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959), p. 32
[6] Nếu cục đá, cái cây này, và lịch sử này đă là phương tiện thần hiển (hierophanie).
[7] P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970,p. 169
Liminaire trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959), p. 8
Thực ra, mọi ngôn ngữ diễn tả “thực tại hoàn toàn khác” đểu là ngôn ngữ biểu tượng, có tính biểu tượng.
[8] Phần Liminaire trong Le Symbole, Ibid., p. 8
[9] Xem J. TROUILLARD, “Symbole et distance”,
trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959), p. 42
[10] Xem LOUIS MILLET, “Le pouvoir du symbole”, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959), p. 19-20
P. TILLICH, op. cit., p. 162-163
[11] DS. 1-5, 6 tt.
[12] H. MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE-PARIS 1965, p. 85-86.
M. ÉLIADE, Le sacré et le profane, GALLIMARD 1965, p. 15
[13] FERNAND, trong “introduction” cho P.TILLICH, op. cit., pp. 21-22
[14] M-M. DAVY, art. cit.,
trong Le Symbole, RECHERCHES ET DEBATS XII (1959), p. 34
FERNAND, “introduction” cho P. TILLICH, op. cit., pp. 21-22
[15] Xem ở trên, phần A, trang
[16] Xem mục ư kiến về các tôn giáo ngoài kitô, ở trên, trang 30-43.
Ngay cả khi chúng ta nghe ai mà không nói lời nào, chúng ta vẫn không ngừng nói với chính chúng ta. Bởi v́ bài dạy của giáo sư, bài giảng của vị giảng thuyết, lời nói của xướng ngôn viên cũng gợi lên trong chúng ta những suy nghĩ, chấp nhận, nghi vấn, bài bác, diễu cợt và ngay cả những châm biếm chua cay. V́ không thể nói lên lời, chúng ta đành nói một ḿnh với chúng ta. Đó là hiện tượng ngôn ngữ nội tâm.
Khi đọc một tác phẩm, chúng ta không ngừng đối thoại với tác giả, tuy không nói nên lời nhưng vẫn mănh liệt.
L. LEAHY, Philosophy de l'home, DALAT 1974, p. II/2
[17] St. IGNACE, Exercises Spirituels, bản dịch của FRANÇOIS COUREL, n. 330, p. 174
[18] Điều này chúng ta cũng đă t́m hiểu ở trên: phần B, a và b, đặc biệt mục về cơ cấu con người đ̣i dấu chỉ. Ân sủng- xét như t́nh yêu- cần được biểu lộ qua những dấu chỉ khả giác đối với con người. V́ nếu không được biểu lộ qua dấu chỉ khả giác, con người không thể biết, không thể đáp trả, và như vậy không được cứu độ. Điều này trái với ư định của Thiên Chúa.
[19] Các bí tích trong Kitô giáo là những biểu tượng thực, vừa khác lại vừa giống với những biểu tượng khác trong Kitô giáo.
[20] Vocabulaire de théologie biblique, ed. X. LÉON-DUFOUR, CERF-PARIS 1966, art. “Foi”, col.389
E. C. BLACKMAN, art. “Faith-Faithfulness”
trong INTERPRETER' S DICTIONARY OF THE BIBLE, vol.II, pp. 222-223, ABINGDON PRESS- NEW JORK 1962
[21] G. DOMINICI, Notes de théologie morale- Vertus théologales, GHHV., pp. 15.17
[22] G. DOMINICI, op. cit., p.10
G. MARCEL, Foi et la réalité, AUBIER 1967, F.V. 38, PP. 95- 100
G. Marcel cho rằng có sự khác nhau sâu xa giữa ư kiến, xác tín, và đức tin. Cf. G. MARCEL, op. cit., pp. 93.96-97.
[23] G. MARCEL, Ibidem
[24] H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV.159, p.85
[25] ROQUEPLO, La foi d' un mal croyant, CERF-PARIS 1969, p. 169; J. MOUROUX, Je crois en Toi, CERF-PARIS 1968, p. 25tt trích bởi G. DOMINICI, op. cit., p. 9
[26] Facienti quod in se est, Deus non denegat gratiam;
trích bởi G. THILS, op. cit., p. 16
[27] E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133, p. 160
[28] Cf. A. DREXEL, op. cit., p. 128
[29] G. DOMINICI, op. cit., p. 45.46.50
[30] Những người không nhận biết Thiên Chúa, và đặc biệt những người chủ trương vô thần thường dựa vào ư niệm nào đó về Thiên Chúa và với lư luận họ khẳng định “niềm tin vô thần” của họ; chẳng hạn họ lư luận: nếu Thiên Chúa hiện hữu th́ Ngài có những phẩm tính này phẩm tính nọ, và nếu vậy th́ phải như vầy như vầy, nhưng thực tế th́ không có như vậy, vậy không có Thiên Chúa.
Cf. G. MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967, F.V. 38, p. 91. Chẳng hạn nếu Thiên Chúa nhân lành và toàn năng th́ tại sao có sự dữ? Mà chúng ta thấy sự dữ hiện diện đầy tràn, vậy Thiên Chúa không hiện hữu.
Nếu Thiên Chúa toàn tri th́ con người đâu có tự do!
[31] Xem ROBERT COFFY, Dieu des athées, xb. CHRONIQUE SOCIAL DE FRANCE
[32] Kinh Nguyện Thánh Thể IV trong SÁCH LỄ GIÁO DÂN- SÀIGON 1972, trg. 1415
[33] G. DOMINICI, op. cit., pp. 47-48; Cf. J. MARITAIN, Neuf lecons sur les notions premières de la philosophie morale, pp. 119-121.
J. MARITAIN, L'opzione fondamentale della vita morale e la grazia, GREGORIANUM 41 (1960), pp. 601-603.
J. DE FINANCE, Ethica generalis, PUG-ROMAE 1959, pp. 155-162
[34] G. DOMINICI, op. cit., pp. 49-50
[35] Trong D.C. 1951 col.1480 trích bởi Y. CONGAR, op. cit., p. 141
[36] Nơi các kitô hữu đầu tiên, lời tuyên xưng “Tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng, và đức Yêsu Kitô Con Một Thiên Chúa,...” được gọi là các biểu tượng đức tin (biểu tín).
Xem DS.1-5.6tt
[37] RECHERCHES ET DÉBATS XII (1969), Le Symbole, trg. 8
[38] J. TROUILLARD, art. “Symbole et distance” trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1969), Le Symbole, trang 40-41
[39] P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970, pp. 19-20
[40] FERNAND CHAPEY trong P. TILLICH, op. cit.,p, 22
[41] P. TILLICH, op. cit., p. 162-163
Đức Kitô cũng là biểu tượng lịch sử.
[42] HUYỀN CHÂN, Đạo Phật,
PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN NHA TRANG 1965, trg. 16
[43] HUYỀN CHÂN, op. cit., trg. 45
[44] NARÀDA M. T., Buddha and his teachings,
bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật pháp, SG.1971, trg. 289-290
[45] Cf. L. MONDEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960, p. 121
[46] É. CORMÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non- chrétiennes, CERF 1965, p. 58
[47] RAYMOND PANIKKAR, “Confrontation between Hinduism and Christ”, trong LOGOS X (June 1969), p. 48, 43.
PARADKAR, Christian Encounter, p. 33,
trích bởi ASANDAS BALCHAND, sj, The salvific value of non- christian religions according to Asian Christian Theologians Writings in Asian Published Theological Journals 1965-1970, EAPI- MANILA 1973, p. 37