HOME    THẦN HỌC    ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG        ASVBT1       ASVBT2      ASVBT3      ASVBT4      ASVBT5

 

 

ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

MỤC LỤC:

 

B. BÍ TÍCH CÔNG GIÁO VÀ BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ.. 1

a). Đặc tính của bí tích Công Giáo. 2

i). Sinh ân sủng do sự (ex opere operato) 2

ii). Đức Yêsu thiết lập. 3

Giáo Hội đại diện Chúa Yêsu. 3

Ư hướng thừa tác viên. 3

b). Biểu tượng ban ân sủng nơi tôn giáo không kitô. 3

i). Ơn công chính ngoài bí tích cho kitô hữu. 4

Do nhân (ex opere operantis) 4

Bởi ḷng nhân hậu của Thiên Chúa (ex divina decreta eterna) 5

Dự ṭng. 5

Trẻ em.. 6

ii). Người Do Thái giáo thời Cựu Ước và hiện tại 6

Nhờ nghi lễ biểu tượng. 6

Qua biến cố biểu tượng. 6

iii). Người sống trong tôn giáo ngoài kitô. 7

Qua biểu tượng. 7

Do chủ thể (ex opere operantis) 7

Do ư định Thiên Chúa (ex divina decreta eterna) 7

C. TRUYỀN GIÁO.. 7

i). Biểu lộ công giáo tính. 8

Tin Mừng đ̣i chia sẻ. 8

Mệnh lệnh của Chúa Yêsu phục sinh. 8

V́ là con đường tuyệt nhất 9

ii). Hội Nhập Văn Hóa. 9

iii). Đối thoại tôn giáo. 10

Thay lời kết: BIỂU TƯỢNG, ÂN SỦNG VÀ THÁNH THẦN.. 11

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT. 13

THƯ MỤC.. 14

 

 

B. BÍ TÍCH CÔNG GIÁO VÀ BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ

            Bí tích là một từ ngữ đa nghĩa,

·        nó dùng để chỉ bảy “dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng” của Giáo Hội Công Giáo (nghĩa là bảy bí tích theo nghĩa vẫn được dùng);

·        nó cũng được dùng với nghĩa dấu chỉ của “thực tại vô h́nh” như “Đức Kitô là bí tích nguồn” và “Giáo Hội là bí tích nguyên thủy”[1];

·        nó cũng được dùng, đặc biệt ở đây, để chỉ những biểu tượng, tức là dấu chỉ của thực tại vô h́nh, trong các tôn giáo ngoài kitô.

            Một số tác giả, chẳng hạn như Karl Rahner, đă coi các bí tích Kitô giáo là những biểu tượng thực[2]; đức Kitô là biểu tượng thực uyên nguyên, v́ Ngài vừa là biểu tượng vừa là thực tại của biểu tượng. Như vậy, biểu tượng được gọi là bí tích theo nghĩa rộng; và chúng ta có thể gọi các biểu tượng ngoài kitô là bí tích của các tôn giáo ngoài kitô, và bí tích của Giáo Hội Công Giáo là biểu tượng thực.

            Để thấy tương quan dị đồng giữa bí tích Công Giáo và bí tích các tôn giáo ngoài kitô, chúng ta sẽ xét những đặc điểm của bí tích Công giáo và sau đó của các bí tích ngoài kitô giáo.

a). Đặc tính của bí tích Công Giáo

            K. Rahner định nghĩa bí tích là lời của Đức Kitô đặt nơi miệng Giáo Hội, và Lời này sinh ân sủng do sự[3]. Quan niệm “bí tích là hữu hiệu” này bắt nguồn từ những suy tư về Lời Chúa của K. Rahner. Ngài cho rằng:

·        Lời Chúa được kư thác cho Giáo Hội bảo tồn và lưu truyền;

bí tích cũng là lời, một lời hữu hiệu[4]. Khi nói bí tích là lời hữu hiệu tác giả đă cho thấy dấu chỉ và biểu tượng cũng thuộc về lời.

i). Sinh ân sủng do sự (ex opere operato)

            Đức Yêsu nói: “Hăy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin cùng chịu Thanh Tẩy th́ sẽ được cứu, c̣n ai không tin sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16). Đây là mệnh lệnh của đức Yêsu sau khi Ngài đă phục sinh! Nhưng ngay khi đức Yêsu bắt đầu rao giảng, Ngài đă dạy các môn đệ làm thanh tẩy cho dân chúng (Yn.3, 22.26). Vâng lệnh đức Yêsu Phục Sinh, các tông đồ cũng rao giảng và ban phép thánh tẩy như trường hợp cho hoạn quan (Cv.8, 38tt), cho gia đ́nh Cornêliô (Cv.10, 47-48).

            Chúng ta được thanh tẩy trong đức Yêsu Kitô, chính trong cái chết của Ngài mà ta được thánh tẩy. Như vậy nhờ thánh tẩy, chúng ta đă được mai táng làm một với Đức Kitô trong sự chết, ngơ hầu như Đức Kitô nhờ bởi vinh quang Cha, đă được sống lại từ cơi chết, th́ cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới (Rm.6, 3-4).

            Thanh tẩy là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ ban ân thánh do việc cử hành dấu chỉ này. Bí tích có hiệu lực do sự (ex epere eperato) v́:

·        Thiên Chúa là nguyên nhân chính, nhờ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là nguyên nhân ban công nghiệp và nhờ đức tin của Giáo Hội[5];

·        Đức Yêsu đă thiết lập những dấu chỉ này, và Ngài muốn những dấu chỉ này ban ân thánh khi được cử hành theo ư và nhân danh Ngài.

            Bí tích nếu chỉ là một dấu chỉ của thực tại thiêng liêng, th́ cũng có giá trị như những biểu tượng khác, hoặc trong Kitô giáo hoặc trong các tôn giáo ngoài kitô. Điểm khác biệt giữa bí tích Công Giáo và các biểu tượng khác trong Giáo Hội Công Giáo và trong các tôn giáo ngoài kitô, là các bí tích Công giáo có hiệu quả do sự (ex opere operato).

ii). Đức Yêsu thiết lập

            Cái làm cho bí tích Công Giáo có hiệu quả do sự, là chúng được đức Yêsu Kitô thiết lập, và được thiết lập để ban ân thánh cho con người. Khi Đức Kitô cử hành những dấu chỉ này, chẳng hạn như Ngài ḥa nước bọt vào bùn và xức cho người mù, th́ những dấu chỉ hành vi này ban cho người mù được sáng và được ơn công chính.

Giáo Hội đại diện Chúa Yêsu

            Đức Kitô thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công việc cứu thế của Ngài nơi trần gian, nên khi Giáo Hội cử hành các dấu chỉ này, cũng là Đức Kitô cử hành, và như vậy các dấu chỉ sinh hiệu quả do chính việc cử hành, nghĩa là “do sự”.

            Suy luận tương tự, để các bí tích sinh hiệu quả do sự, các bí tích phải được thừa tác viên cử hành đại diện Giáo Hội nhân danh Đức Kitô; và xét dưới khía cạnh chủ thể lănh nhận bí tích, chủ thể này phải hội đủ yếu tố mà nếu đức Kitô làm, đức Kitô đ̣i hỏi để Ngài làm những dấu chỉ này; hiểu như vậy, chủ thể lănh nhận phải hội đủ yếu tố Giáo Hội quy định xét như đại diện Đức Kitô tại trần gian.

Ư hướng thừa tác viên

            Nơi thừa tác viên cử hành bí tích,

họ phải là người đại diện Giáo Hội của Đức Kitô,

và do đó phải làm theo ư Đức Kitô nơi Giáo Hội,

cụ thể thi hành điều Giáo Hội xét như đại diện của Ngài nơi trần thế dạy phải làm.

            Nơi chủ thể lănh nhận bí tích, thụ nhân phải có đức tin, và hội đủ những điều kiện Đức Kitô đ̣i hỏi qua Giáo Hội[6] đại diện Ngài.

b). Biểu tượng ban ân sủng nơi tôn giáo không kitô

            Như đă nói trên, nét đặc trưng của bí tích kitô giáo là có hiệu quả do sự (ex opere operato), thế c̣n bí tích nơi các tôn giáo ngoài kitô? Khi nào hay do đâu các bí tích, biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô ban ân sủng và đặc biệt ân sủng công chính hóa cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô đó?

            Để giải quyết vấn đề này, đầu tiên sẽ xét ân sủng công chính được ban cho kitô hữu ngoài bí tích, rồi tới những người dự ṭng, và sau đó những tín hữu nơi các tôn giáo ngoài kitô. Chính nhờ ánh sáng Kitô giáo mà chúng ta có thể giải đáp câu hỏi về đặc tính của bí tích các tôn giáo ngoài kitô.

i). Ơn công chính ngoài bí tích cho kitô hữu

            Sách giáo lư của Giáo Hội Công Giáo dạy, ta có thể được lại ân sủng thánh hóa nhờ ăn năn tội cách trọn[7].

            Các thần học gia trường phái Thomas cho rằng chỉ có một con đường để được ơn công chính hóa, và coi bí tích như một yếu tố không thể thiếu trong tiến tŕnh lănh ơn công chính hóa này[8]. C̣n Duns Scott cho rằng có hai con đường cứu độ khác nhau, đường này độc lập với đường kia, một là ngoài bí tích như việc thống hối ăn năn cách trọn, và một khác là bằng bí tích phát sinh ơn công chính do sự (ex opere operato), nhưng không phải con đường thứ nhất làm cho việc lănh nhận bí tích thành dư thừa v́ việc này dựa vào quyền Thiên Chúa theo đó ư hướng thú tội là yếu tố không thể miễn trừ của tất cả hối nhân đích thực[9]. Theo Duns Scott việc có hai con đường công chính hóa cho tội nhân, là một dấu chỉ cho thấy ḷng nhân từ của Thiên Chúa, hơn là chỉ có một con đường[10]. Cũng theo ông, con đường bí tích là con đường dễ hơn con đường kia[11].

            Với K. Rahner không có hai con đường cứu độ nhưng chỉ có một con đường cứu độ và như vậy không thể đặt vấn đề nên theo con đường này hay theo con đường kia. Theo ông, có hai thời điểm chứ không phải hai đường của cùng một biến cố cứu độ[12]: tương tự như “Lời duy nhất có tính cứu độ và hữu hiệu của Thiên Chúa” có một lịch sử nhưng có những thời điểm khác nhau, mỗi thời điểm có giá trị tương ứng với toàn thể và thời điểm sau không làm thời điểm trước mất giá trị, th́ cũng vậy biến cố cứu độ nơi mỗi cá nhân [13].

Do nhân (ex opere operantis)

            Để lănh nhận bí tích, để bí tích có thể sinh hiệu quả do sự cho thụ nhân, chủ thể lănh nhận phải hội đủ những điều kiện do Giáo Hội đại diện Chúa Kitô quy định. Chẳng hạn nơi bí tích ḥa giải, để có thể lănh nhận ân sủng công chính hóa sau khi phạm tội, thụ nhân phải có ḷng thống hối; nếu thiếu ḷng thống hối này, bí tích không sinh hiệu quả, nghĩa là không ban ơn công chính hóa cho họ. Như vậy ngay nơi bí tích, yếu tố chủ thể lănh nhận cũng rất quan trọng. “Thiên Chúa đă sinh ta chúng ta không hỏi ư kiến chúng ta nhưng Ngài không thể cứu độ chúng ta nếu chúng ta không đồng ư”; chính yếu tố chủ thể (ex opere operantis) làm cho chủ thể được ân sủng công chính hóa[14].

            Khi một kitô hữu lănh nhận ân sủng công chính hóa trước khi lănh nhận bí tích, không hàm chứa rằng việc lănh nhận bí tích là dư thừa hoặc không cần thiết, bởi v́ các bí tích là biểu lộ của đức tin[15]. Hành vi thống hối đă là tác động của ân sủng, và nó không chỉ thuần túy là thái độ nội tâm nhưng c̣n được biểu lộ ra bên ngoài qua việc quỳ gối cầu nguyện, nghĩa là, nó đă được diễn tả qua hành động[16]. Việc lănh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích, cũng vẫn là lănh nhận ân sủng này trong Giáo Hội; và nếu xét chủ thể lănh nhận như thành phần của Giáo Hội th́ hậu quả cũng được biểu lộ nơi Giáo Hội, cụ thể nơi thụ nhân lănh nhận ân sủng, và cao điểm là lănh nhận bí tích[17].

            Các bí tích ban ân sủng “do sự”; c̣n trường hợp ân sủng được ban “do nhân”, là ân sủng được ban nhờ thái độ của thụ nhân; có thái độ này, là nhờ các biểu tượng ngoài bí tích; và thái độ này cũng được diễn tả qua những hành vi biểu tượng như cầu nguyện, làm việc bác ái.

            Do sự khác do nhân ở chỗ, cũng tương tự như trước khi đức Yêsu Kitô xuất hiện, con người cũng được ân sủng thánh hóa, cũng được cứu độ nhưng con người vẫn phải chờ biến cố đức Yêsu dù họ không biết, và chỉ với biến cố đức Yêsu Kitô con người mới biết rơ ḿnh đă được cứu độ và được cứu độ nhờ đức Yêsu Kitô; con người có thể được ơn công chính hóa trước khi lănh nhận bí tích nhưng con người vẫn chưa biết rơ ḿnh được điều này, và chỉ khi lănh nhận bí tích, người ta mới biết rơ ḿnh đă được công chính hóa[18].

            Ân sủng của Thiên Chúa đă hoạt động nơi con người khi lănh nhận bí tích; và tùy thuộc thái độ của thụ nhân, ân sủng c̣n được biểu lộ cách hữu h́nh ra bên ngoài, và người lănh nhận bí tích có sự chắc chắn chủ quan lẫn khách quan về ân sủng ḿnh nhận được. C̣n khi người ta nhận lănh ơn công chính ngoài bí tích[19], ân sủng của Thiên Chúa cũng hoạt động nơi người ấy, giúp người ấy chuẩn bị lănh nhận ân sủng công chính hóa, và chính Thiên Chúa ban ân sủng công chính hóa khi Ngài thấy được, và rồi ân sủng này cũng được biểu lộ ra qua những dấu chỉ biểu tượng bên ngoài. Người nhận lănh ân sủng thánh hóa ngoài bí tích, có thể có sự chắc chắn chủ quan nhưng sự chắc chắn này có thể không hoàn toàn.

Bởi ḷng nhân hậu của Thiên Chúa (ex divina decreta eterna)

            Một người lănh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích hay đúng hơn là trước bí tích, là do ḷng thương xót nhân từ của Thiên Chúa và nhờ thái độ thống hối được biểu lộ qua việc đọc kinh cầu nguyện, công tác bác ái. Chúng ta dùng từ ngữ “do nhân” (ex opere operantis) để chỉ đặc tính trường hợp được ân sủng công chính ngoài hoặc trước bí tích.

Dự ṭng

            Người dự ṭng có thể đă được ân sủng công chính hóa trước khi lănh nhận bí tích Rửa Tội do thái độ của họ (ex opere operantis), và như vậy nếu họ chết trước khi lănh nhận bí tích rửa tội, họ được cứu độ. Các nhà thần học và ngay cả huấn quyền giải thích việc lănh nhận ân sủng công chính hóa trưóc khi lănh bí tích rửa tội bằng phép rửa bởi Thánh Thần, bằng ḷng ao ước lănh bí tích (votum sacramenti), bằng hành vi bác ái.

Trẻ em

            Trẻ con chết trước khi lănh nhận bí tích rửa tội, dù cho cha mẹ là kitô hữu hay lương dân, nếu c̣n mắc tội tổ tông các em cũng không được hưởng tôn nhan Chúa, nhưng chắc chắn “Thiên Chúa không thể nào để cho bao nhiêu trẻ con phải hư mất đời đời”[20]. Như vậy phải chăng Thiên Chúa nhân từ tha thứ tội tổ tông cho các em v́ đức tin của Giáo Hội?

            Vấn đề này liên hệ đến quan niệm về tội tổ tông, về tiến tŕnh thành người của thai nhi, về ḷng nhân từ của Thiên Chúa. Những trẻ chết khi Hêrôđê muốn giết hài nhi Yêsu, được gọi là các thánh anh hài; các em nhỏ được rửa tội trong gia đ́nh Công giáo nhờ đức tin của cha mẹ, được lên thiên đàng; c̣n các em nhỏ khác th́ sao? đức tin của Giáo Hội có tác động đến các em không? Thiên Chúa có thua ḷng nhân từ của chúng ta không, nếu chỉ là người mà chúng ta c̣n nghĩ rằng các em đó phải được hưởng kiến Thiên Chúa?

            Trong quan niệm nhân học cho rằng ơn gọi con người là được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, ngay cả trong t́nh trạng sa ngă hiện tại? Và nếu Giáo Hội khẳng định những người chưa rửa tội có thể được cứu độ khi họ sống theo lương tâm ăn ở ngay lành, c̣n các em bé và các thai nhi- các em chưa thể biểu lộ đức tin của ḿnh qua hành động, đó không là lỗi tại các em- như vậy chúng ta có lư để cho rằng các em có thể được cứu độ. Các em được cứu độ v́ Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân từ và công bằng, v́ Đức Kitô đă chết cho tất cả mọi người, kể cả các thai nhi trong bụng mẹ. Nếu quả các em được cứu độ, các em được cứu độ không cần nhận lănh bí tích và cũng không cần qua biểu tượng nữa, dù là biểu tượng tự nhiên.

ii). Người Do Thái giáo thời Cựu Ước và hiện tại

            Kitô hữu tin rằng những tín hữu Do Thái giáo thời Cựu Ước được cứu độ nhờ ḷng tin vào Thiên Chúa (Kn.15, 6), nhờ việc thực thi lề luật như cách thể hiện đức tin vào Thiên Chúa, nhờ phép cắt b́ như bí tích xóa tội nguyên tổ[21] cũng như nhờ các bí tích khác[22], và đặc biệt vẫn nhờ đức Yêsu Kitô và trong Giáo Hội.

Nhờ nghi lễ biểu tượng

            Cũng như người Công giáo được lại ân sủng thánh hóa sau phạm tội nhờ lănh bí tích ḥa giải hoặc nhờ ḷng thống hối thật, tín hữu Do Thái giáo sau khi cắt b́ mà phạm tội lănh nhận ân sủng thánh hóa nhờ nghi lễ xá tội trong ngày lễ xá tội hằng năm (Lv.16, 33) hoặc nhờ các nghi lễ hay qua các biểu tượng khác.

Qua biến cố biểu tượng

            Thiên Chúa cho dân Israel từ lưu đày trở về, đó là biểu hiệu Thiên Chúa đă tha thứ tội lỗi v́ dân đă thật t́nh sám hối (Bar.1, 15- 3, 8).

            Tiên tri Natan và câu chuyện dụ ngôn của tiên tri là lời biểu tượng để vua David nhận biết lỗi lầm và thống hối; và chính ḷng thống hối đă làm Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của David (2Sam.11, 13).

            Những lời của tiên tri Natan và biến cố lưu đày của dân Israel, cho thấy Thiên Chúa đă ban ân sủng qua lời biểu tượng hoặc qua biến cố biểu tượng. Qua những biểu tượng này, David nhận ra lỗi lầm của ḿnh để thống hối, và biết Thiên Chúa đă tha tội cho ḿnh qua lời tiên tri; Qua biến cố lưu đày, Thiên Chúa đă giúp dân nhận biết lỗi lầm, và như vậy biến cố lưu đày trở thành phương tiện giúp dân thống hối và đón nhận ân sủng được ban; biến cố được trở về quê hương trở thành biểu tượng cho thấy Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân.

            Những biến cố, biểu tượng, và ân sủng, được ban cho dân Israel; và cũng tương tự vậy được ban cho người ngoài Do thái giáo, và rồi cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô ngày nay. Những biểu tượng này tuy không có tính ban ân sủng do sự (ex opere operato), nhưng cũng là phương tiện để Thiên Chúa ban ân sủng cho những tâm hồn xứng đáng (ex opere operantis).

iii). Người sống trong tôn giáo ngoài kitô
Qua biểu tượng

            Tương tự như kitô hữu nhận lănh ân sủng công chính hóa ngoài bí tích, và tín hữu Do thái giáo nhận lănh ân sủng công chính hóa trong nhiệm cục cứu độ tiền ki-tô giáo, ân sủng Thiên Chúa tác động nơi những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua các biểu tượng nơi các tôn giáo họ sống hoặc qua những biểu tượng tự nhiên, để họ có tâm t́nh thống hối và thái độ xứng hợp, hầu Thiên Chúa ban ân sủng công chính hóa cho họ khi Ngài muốn.

Do chủ thể (ex opere operantis)

            Khác với bí tích kitô giáo, v́ là dấu chỉ được đức Yêsu Kitô thiết lập và Ngài muốn những biểu tượng này ban ân sủng do việc cử hành (ex opere operato), các biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô là phương tiện ban ân sủng cho những người sống trong các tôn giáo này tùy thuộc thái độ của họ (ex opere operantis).

Do ư định Thiên Chúa (ex divina decreta eterna)

            Các biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô ban ân sủng cho những người sống trong các tôn giáo này tùy ở thái độ của họ (ex opere operantis), tùy Thiên Chúa theo ư muốn và dự định của Ngài (ex divina decreta eterna).

            Những người lănh nhận ơn công chính hóa ngoài bí tích kitô giáo, có thể có sự xác tín chủ quan về ân sủng nhận được; và sự xác tín khách quan có thể có khi ân sủng công chính hóa được biểu lộ ra bên ngoài qua các biểu tượng, chẳng hạn hành vi bác ái, đời sống lương thiện, yêu mến tha nhân đồng loại, những cảm nghiệm về Tuyệt Đối.

            Trong nhăn quan kitô và nhân bản không bị lệch lạc, nhận lănh ân sủng công chính hóa qua bí tích kitô giáo là con đường đơn sơ và dễ dàng nhất, và thụ nhân có sự xác tín chủ quan lẫn khách quan về ân sủng ḿnh được nhận.

C. TRUYỀN GIÁO

            Đối với kitô hữu, truyền giáo là loan báo cho muôn dân biết Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài muốn cho tất cả được thông dự sự sống vĩnh cửu của Ngài.

            Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ban Con Một của Ngài cho con người, tức là đức Yêsu Kitô (Yn.3, 16). Với biến cố Yêsu Kitô, tất cả được biến đổi. Con người, nhờ đức Yêsu Kitô, đă thấy rơ ư nghĩa cuộc sống của ḿnh, biết rằng ḿnh được Thiên Chúa yêu thương, biết rằng ḿnh sẽ được cứu độ, sẽ được thông phần hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa nếu ḿnh tin vào đức Yêsu Kitô (Yn.3, 16).

            Truyền giáo là loan báo tin mừmg đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu Kitô chính là Tin Mừng cho tất cả nhân loại; không có Ngài, không có ơn cứu độ; và có Ngài tất cả được đổi mới, tất cả được hạnh phúc, tất cả được tham dự sự sống Thiên Chúa.

i). Biểu lộ công giáo tính

            Truyền giáo có thực sự cần thiết không khi các tôn giáo ngoài kitô cũng có những biểu tượng, qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho những người thuộc tôn giáo đó?

            Câu trả lời thật đơn sơ rơ ràng: dù các tôn giáo ngoài kitô có là phương tiện cứu độ cho những người sống trong đó, dù các tôn giáo ngoài kitô có những biểu tượng qua đó Thiên Chúa vẫn dùng để ban ân sủng cứu độ cho họ, th́ việc truyền giáo “loan báo đức Yêsu cho những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô” là một chuyện rất cần thiết và không thể miễn trừ. Sau đây là những lư do buộc các kitô hữu phải truyền giáo.

Tin Mừng đ̣i chia sẻ

            Kitô hữu là người có niềm vui lớn lao vô cùng: “Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người v́ yêu thương chúng ta, Ngài đă chết và sống lại để chúng ta cũng được sống lại với Ngài, Ngài muốn cho con người được thông chia sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa”. Khi một người có niềm vui, họ thường đem chia sẻ với những người xung quanh, với những người thân, với những người họ yêu mến. Như vậy nếu một kitô hữu xác tín niềm tin của ḿnh, chắc chắn họ phải chia sẻ Tin Mừng này cho những người họ yêu, cho những người thân, cho những người xung quanh họ. Nếu họ không chia sẻ Tin này, th́ e rằng đây không phải là một Tin Mừng thật, hoặc họ không có t́nh yêu đối với những người xung quanh và với những người thân, và nếu vậy họ không giống Thiên Chúa là Đấng yêu thương mọi người và muốn chia sẻ niềm vui, sự sống của Ngài với con người.

Mệnh lệnh của Chúa Yêsu phục sinh

            Đức Yêsu Kitô sau phục sinh, đă truyền cho các môn đệ mệnh lệnh “các con hăy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy sẽ được cứu, c̣n ai không tin sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16//).

            Thánh Thần của đức Yêsu Phục Sinh cũng đă tách riêng Phaolô và Barnaba để sai các ngài đi rao giảng tin mừng đức Yêsu cho người Do Thái, và sau đó cho dân ngoại (Cv.13, 2.46). Phaolô đă xác tín ơn gọi rao giảng Tin Mừng của Ngài: “khốn cho tôi, nếu tôn không rao giảng Tin Mừng “ (1Cor.9, 16).

            Mệnh lệnh đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc, làm thành tính công giáo của Giáo Hội: “Vậy các con hăy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy chúng tuân giữ hết mọi điều thầy đă truyền cho các con” (Mt.28,18-19). Giáo Hội đă nhận lănh sứ mạng như đức Yêsu nhận lănh từ Cha: “như Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Yn.20, 21).

            Đức Yêsu Kitô là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người (1Tm.2, 5), Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người (Yn.1, 14), nên Ngài là bí tích nguồn ban ân sủng cho con người (Yn.1, 18). Giáo Hội, được Thánh Thần đức Yêsu Kitô hướng dẫn, là bí tích phổ quát ban ơn cứu độ cho con người[23], cho tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia ngôn ngữ. Nếu Giáo Hội không truyền giáo, Giáo Hội không c̣n tư cách đại diện Chúa Kitô nữa, không c̣n là bí tích phổ quát nữa, và như vậy Giáo Hội không c̣n là Giáo Hội nữa.

V́ là con đường tuyệt nhất

            Chúng ta vẫn phải truyền giáo, bởi v́

·        chính trong đức Yêsu Kitô và nhờ đức Yêsu Kitô mà các tôn giáo ngoài kitô trở thành phương tiện cứu độ;

·        chính trong Giáo Hội- ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ- mà ân sủng được ban cho những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô, hay những người không theo một tôn giáo nào, hoặc ngay cả những người vô t́nh không tin nhận Thiên Chúa, dù rằng qua các biểu tượng trong tôn giáo ngoài kitô hoặc qua các biểu tượng tự nhiên.

·        Hơn nữa, chúng ta cũng đă thấy ở trên, các tôn giáo ngoài kitô vẫn có những sai lầm v́ có những yếu tố thuần túy con người, v́ các tôn giáo ngoài kitô không được Thánh Thần bảo đảm việc lưu truyền kinh nghiệm với Tuyệt Đối, và v́ các biểu tượng tôn giáo ngoài kitô vẫn có nhiều nét hàm hồ không phản ánh tinh ṛng Thực Tại Vô H́nh, và đôi khi c̣n làm cho con người hiểu sai lệch về Tuyệt Đối.

ii). Hội Nhập Văn Hóa

            Truyền giáo không là truyền bá văn hóa Do thái hay Hy lạp hay tây phương, nhưng là rao giảng tin mừng đức Yêsu Phục Sinh.

            Giáo Hội không truyền bá một ư thức hệ với những giải thích về vũ trụ, Thiên Chúa và con người, nhưng rao giảng tin mừng đức Yêsu Kitô; như vậy Giáo Hội thích hợp với mọi người và với mọi nền văn hóa của mọi dân tộc và mọi thời đại.

            Giáo Hội là Công Giáo, nên Giáo Hội ḥa hợp với mọi dị biệt của những nền văn hóa khác nhau, nên Giáo Hội phải t́m hiểu cách suy nghĩ, diễn tả của từng dân tộc, của từng nền văn hóa, để loan báo tin mừng đức Yêsu Kitô một cách thích đáng, và để mọi người dễ tin nhận hơn.

            Hội nhập văn hóa là t́m hiểu cách suy nghĩ và diễn tả của từng dân tộc, để tŕnh bày tin mừng đức Yêsu Kitô theo cách thức suy nghĩ và diễn tả của dân tộc đó. Nếu chúng ta không hội nhập văn hóa, không tŕnh bày Tin Mừng theo văn hóa của dân tộc được rao giảng Tin Mừng, sẽ làm người ta dễ hiểu lầm Tin Mừng, và hậu qủa là đa số từ chối Tin Mừng đức Yêsu Kitô.

            Đặc biệt với những dân tộc châu Á, có nền văn hóa rất khác với những nước châu Âu, nếu Tin Mừng không được rao giảng bằng ngôn ngữ văn hóa các nước châu Á, e rằng không có bao người tiếp nhận Tin Mừng. Chẳng hạn việc “thờ cúng tổ tiên”, nếu những người Công Giáo làm cho người Việt Nam nghĩ rằng theo đạo là bất hiếu, phải bỏ ông bà, th́ thường họ không chấp nhận theo đạo; thực sự người Công Giáo tôn kính ông bà cách khác, chúng ta không bất hiếu, chúng ta vẫn nhớ cầu nguyện cho ông bà, tổ tiên, cha mẹ chúng ta trong những giờ kinh nguyện; tuy vậy, chúng ta phải để cho người Việt Nam tôn kính ông bà theo kiểu của họ, th́ tin mừng đức Yêsu Kitô mới dễ được nhiều người chấp nhận; chúng ta chỉ ngăn cản khi những hành vi tôn kính này đi ngược lại đức tin mà thôi. Người Công Giáo Việt Nam nói về ḷng tôn kính ông bà tổ tiên theo cách thức, theo nền văn hóa của người Việt Nam; và điều chúng ta nói về ḷng tôn kính tổ tiên cũng đúng cho những vấn đề khác; đó là công tác hội nhập văn hóa của Giáo Hội khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng đức Yêsu Kitô cho mọi dân tộc.

iii). Đối thoại tôn giáo

            Giáo hội khẳng định lập trường với công đồng Vatican II qua tuyên ngôn về các tôn giáo ngoài kitô: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những ǵ là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ngoài kitô. Với ḷng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy tŕ, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lư, Chân Lư chiếu soi cho hết mọi người; v́ thế, Giáo Hội khuyến khích con cái ḿnh nh́n nhận, duy tŕ và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lư và những giá trị xă hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống kitô giáo”[24].

            Như vậy chúng ta thấy, Giáo Hội chấp nhận những ǵ chân thật và tốt lành nơi các tôn giáo ngoài kitô, và cổ vơ việc đối thoại. Việc đối thoại hàm chứa niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô có những chân lư, có những điều tốt lành. V́ nếu Giáo Hội nhận rơ các tôn giáo ngoài kitô là phương tiện của ma quỷ, hoặc là công tŕnh của con người xét như một thế lực chống lại Thiên Chúa như một số người trong anh em Tin Lành chủ trương, th́ chắc Giáo Hội đă thẳng thắn bài bác và không bao giờ khuyến khích con cái ḿnh đối thoại cả. Việc đối thoại với các tôn giáo ngoài kitô hàm chứa phần nào niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, nếu không việc đối thoại chỉ là giả h́nh và thuần túy “ngoại giao”.

            Đối thoại với các tôn giáo ngoài kitô là để thấy rơ những giá trị của tôn giáo ngoài kitô, thấy rơ điều hay điều tốt và cả những điều không thể dung hợp với đức tin kitô giáo nữa, hiểu biết hơn về các tôn giáo ngoài kitô, cũng như những biểu tượng đức tin và những hành vi biểu lộ niềm tin của họ, hiểu biết cách diễn tả thực tại thiêng liêng theo nền văn hóa của dân tộc theo tôn giáo này, và như vậy chúng ta có thể tŕnh bày đức Yêsu cho những người theo tôn giáo đó cũng như cho dân tộc này cách thích hợp hơn.

            Việc t́m hiểu các tôn giáo ngoài kitô rất quan trọng trong việc truyền giáo, trong việc loan báo Tin Mừng đức Yêsu Phục Sinh, bởi v́ khi đă thấy rơ giá trị và ư nghĩa các biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô cũng như cách diễn tả tâm t́nh tôn gíáo của dân tộc với nền văn hóa riêng, chúng ta có thể rao giảng tin mừng đức Yêsu theo những biểu tượng về thực tại thiêng liêng mà ta đă biết. Nói một cách khác, chúng ta kitô hóa các biểu tượng[25] nơi các tôn giáo ngoài kitô nếu có thể được.




Thay lời kết:
BIỂU TƯỢNG, ÂN SỦNG VÀ THÁNH THẦN

            Nói về biểu tượng và ân sủng mà không đề cập tới Thánh Thần là một thiếu sót lớn, bởi v́ ân sủng là t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người, làm cho con người được nên giống Thiên Chúa.

            Thánh Thần là ngôi vị thứ ba của Thiên Chúa, Ngài là “hơi thở” của Cha và Con, nhiệm xuất từ Cha và Con, là t́nh yêu giữa Cha và Con. Ngài được biệt gán cho nhiệm vụ thánh hóa con người và toàn thể vũ trụ! Khi trở về cùng Cha, Đức Yêsu đă gởi Thánh Thần của Ngài trên các tông đồ và toàn thể Giáo Hội, để Thánh Thần tiếp tục và hoàn tất chương tŕnh cứu chuộc loài người của Chúa Cha, được Chúa Con nhập thể thi hành. Có thể nói tất cả những hướng chiều đi lên với Thiên Chúa của con người, đều là tác động của Thánh Thần.

            Ân sủng là tác động của Thiên Chúa nhằm cứu độ con người, luôn đi trước thái độ và lời đáp trả của con người! Không phải chúng ta yêu Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài đă yêu chúng ta trước và đă phó mạng sống ḿnh v́ ta (1Yn.4, 19.10). Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo nó (Yn.6, 44); không ai có thể tuyên xưng Yêsu là Chúa mà không bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3).

            Thiên Chúa yêu thương thế gian vô cùng, Ngài muốn cứu độ tất cả mọi người (1Tm.2, 4), muốn mọi người được nên giống Ngài, được tham dự sự sống vĩnh cửu của Ngài. T́nh yêu của Thiên Chúa chan ḥa vũ trụ và tràn ngập ḷng người, và Thánh Thần T́nh Yêu luôn luôn hoạt động nơi ḷng mỗi người để lôi kéo họ tới với Thiên Chúa, để họ được cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô. Như trước khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đă yêu thương từng người chúng ta, cũng vậy trước khi t́nh yêu ân sủng được biểu lộ cụ thể, th́ Thiên Chúa đă yêu thương ta trong Thánh Thần. T́nh yêu đi trước bí tích, biểu tượng.

            T́nh yêu là tương quan liên vị nên cần phải được diễn tả và biểu lộ. Với con người v́ là hồn và xác, nên t́nh yêu cần và phải được diễn tả qua những dấu chỉ. Thiên Chúa đă biểu lộ t́nh yêu của Ngài khi ban Con Một cho loài người (Yn.3, 16); Đức Yêsu Con Thiên Chúa nhập thể, cũng đă chấp nhận chết nhục nhă trên thập giá để biểu lộ t́nh yêu của Ngài và của Cha cho con người; và Đức Yêsu đă thiết lập Giáo Hội như đại diện hữu h́nh của Ngài nơi trần gian, để trở thành dấu chỉ cứu độ cho con người, bằng việc loan báo Lời Chúa và cử hành các biểu tượng ban ân thánh hữu hiệu.

            Thánh Thần Thiên Chúa luôn hoạt động khắp nơi và trong ḷng mỗi người, nên tất cả mọi hành vi tốt của con người đều là hành vi siêu nhiên và có giá trị cứu độ. Mọi hành vi tốt đều là ân sủng của Thiên Chúa[26]. Thánh Thần hoạt động rất tự do, không bị giới hạn trong những cơ cấu và định chế: “khí muốn đâu th́ thổi, ông nghe được tiếng, nhưng nào có biết từ đâu mà đến hay lại đi đâu? cũng vậy với mọi kẻ sinh bởi Thần Khí” (Yn.3, 8). Hoạt động của Thánh Thần nơi con người cũng được biểu lộ ra bên ngoài, chẳng hạn Thánh Thần đă tỏ lộ hoạt động trong ngày lễ ngũ tuần (Cv.2, 1tt) dù rằng con người, cụ thể các tông đồ đă nhận lănh Thánh Thần ngay trong ngày đức Yêsu phục sinh (Yn.20, 22). Như vậy ân sủng, t́nh yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa, cũng được diễn tả qua các dấu chỉ biểu tượng.

            Tất cả là ân sủng[27]. Hoạt động của Thánh Thần T́nh Yêu Thiên Chúa bao phủ tất cả hoàn vũ và tận trong thâm sâu con người. Chính Thánh Thần tác động để con người vươn lên, nhận ra những điều tốt lành thiện hảo cũng như những điều không hợp với bản tính con người, lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, và giúp con người biểu lộ tâm t́nh của ḿnh qua các biểu tượng, dấu chỉ thực tại thiêng liêng. Không có ǵ tốt lành thánh thiện mà ở ngoài Thiên Chúa, mà lại không được Thánh Thần tác động và hướng dẫn! Những ǵ tốt lành thánh thiện, những ǵ giúp con người vươn lên với Thiên Chúa ngay cả trong các tôn giáo ngoài kitô, đều là hoa trái của Thánh Thần. Chính Thánh Thần đă giúp những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô gặp gỡ Thực Tại Tuyệt Đối qua các biểu tượng, thánh hóa và ban cho họ hồng ân vô giá “trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi” ngay cả khi họ không ư thức.

 

 

 

 

TẤT CẢ CHO VINH DANH CHÚA HƠN

Viết xong 20:40' ngày 06.02.1985

Lễ thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

 

Art.                  Articulus                     Bài

Art. cit.            Articulo citato Bài đă dẫn    

AUG.                                                   Augustinô

DS.                 DENZINGER-SCHONMETZER, Enchiridion Symbolorum Definitionum et Declarationum de rebus fidei et morum, HERDER MCMLXIII

Ep.                  Epistula                      Thư

E.T.                 K. RAHNER, Ecrits Théologiques

F.V.                 Coll. FOI VIVANTE

GH.                 Vatican II, Hiến Chế Giáo Hội

Ibid.                 Ibidem                        Cùng vậy

LG.                  Lumen Gentium    Hiến Chế Giáo Hội

NK.                  Ngoài kitô giáo. Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican II về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô

op. cit.             Opere citato               Sách đă dẫn

p (pp).                                                 Trang (các trang)

PG.                 J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series graeca, PARISIIS 1857 seq.

PL.                  J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series prima latina, PARISIIS 1844 sqq.

R.                    ROUET DE JOURNEL, Enchiridion patristicum, HERDER MCMLXV

S.T.                 St.THOMAS, Summa Theologiae

TG.                  Sắc lệnh Truyền giáo của Công Đồng Vatican II.

·        Trong bài này, kư hiệu Kinh Thánh dùng theo Cha Nguyễn Thế Thuấn, bản dịch in bởi D̉NG CHÚA CỨU THẾ 1976.

·        Kư hiệu của Công Đồng Vatican II dùng theo bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện ĐALAT- VIỆT NAM 1972. 


THƯ MỤC

 

            Ở đây chỉ ghi những sách hoặc những bài báo đă được trích dẫn.

A. BALCHAND, The salvific value of non-christian religions according to Asian Christian Theologians’ Writtings in Asian Published Theological Journals 1965-1970. EAPI-MANILA 1973.

CH. BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN, DESCLÉE- BELGIUM 1963

C. BIHLMEYER et H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t. I, SALVATOR 1962

E. C. BLACKMAN, Faith- Faithfulness, trong INTERPRETER'S DICTIONARY OF THE BIBLE, vol. II,

 ABINGDON PRESS- NEWYORK 1962

LEONARDO BOFF, Le sacrement de mariage, trong CONCILIUM 87 (1973), pp. 21-31

E. CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962

Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse: Vérité et dimensions du salut, TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968- FV.27

ÉTIENNE CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, CERF 1965

M-M. DAVY, Les symboles et l'histoire, trong LE SYMBOLE, bộ RECHERCHES ET DÉBATS n. 29, PARIS XII (1959)

JOSEPH DE FINANCE, Connaissance de l'être: Traité d'ontologie, DDB- PARIS 1966

HENRI DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV. 159.

GILDO DOMINICI, Notes de théologie morale. Les vertus thélogale, GHHV sans date ni lieu

ANTON DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày

ANTON DREXEL, Traité de la grâce du Christ ou L'homme dans le Christ, COLLÈGE PONTIFICAL SAINT PIE X- DALAT 1972

MIRCEA ÉLIADE, Le sacré et le profane, GALLIMARD 1965

PAUL FOULQUIÉ et RAYMOND SAINT-JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF- PARIS 1962

A. GAUDEL, art. “Péché eriginel”, trong DTC XII/1 PARIS 1933

M. HEINRICHS, Théologie catholique et pensée asiatique, CASTERMAN 1965

HUYỀN CHÂN, Đạo Phật, PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN-NHA TRANG 1965

LOUIS LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈCE PONTIFICAL ST. PIE X- DALAT 1974

éd. XAVIER LÉON- DUFOUR, Vocabulaire de théologie biblique, CERF- PARIS 1966

YUSE PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô,  bđm- ĐALAT 1982

LĂO TỬ, Đạo Đức Kinh, bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, xb. KHAI TRÍ-SAIGON 1961

GABRIEL MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967 FV.38

HENRI MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE- PARIS  1965

J. VAN DER MEERSCH, Art. “Grâce”, trong DTC VI/2

LOUIS MILLET, Le pouvoir du symbolisme, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.29, PARIS XII (1959)

LOUIS MODEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960

G. MUSCHALEK, La création de l'alliance, Problème des rapports entre la nature et la grâce,

trong MYSTERIUM SALUTIS VI, BURNS-OATES 1969

NARADA MAHA THERA, The Buddha and his teachings,

bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật pháp, HẠNH PHÚC- SG.1971

GEOFFREY PARRINDER, Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA, vol.20 (1971),

éd. M. DHAVAMONY, sj, GREGORIANA 1971

É. PORTALIÉ, art. “Augustin”, trong DTC I/1 PARIS 1923

É. PORTALIÉ, art: “Abélard”, trong DTC I/1 PARIS 1923

B. POSCHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966

KARL RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t. II, DDB 1960

KARL RAHNER, La nature et la grâce, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II, DDB-PARIS 1963

KARL RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong E.T., t. IX, DDB. 1968

K. RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., t. IX, DDB. 1968

K. RAHNER, Eglise et Sacrements, trong QUESTIONES DISPUTATAE 10, DDB.1970

A-M. ROGUET, Renseignements techniques, trong THOMAS D’AQUIN, S.T. III, q.60-65, bản dịch của A-M. ROGUET, DESCLÉE et Cie, PARIS 1945, pp.255-380

HENRI RONDET, Gratia Christi, BEAUCHESNE ET SES FILS- PARIS 1964

HENRI RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, BEAUCHESNE- PARIS 1964

E. SCHILLEBEECKX, Le Christ sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960 FV.133

HEINZ ROBERT SCHLETTE, Towards a Theology of Religions, bản dịch của W.J. O'HARA, HERDER-FREIBUG 1966,  Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 14

P. SCHOONENBERG, L'home dans le péché, trong MYSTERIUM SALUTIS VIII, CERF 1970

OTTO SEMMEILROTH, Art. “Mediatorship”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS-OATES 1969

GUSTAV SIEWERTH, L'home et son corps, PLON-PARIS 1957

GUSTAVE THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966

St. THOMAS d'AQUIN, Summa Theologiae, MARIETTI 1952

PAUL TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970

JEAN TROUILLARD, Symbole et distance, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n. 29,
PARIS XII (1959)

JAN- HENDRIK WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde,

bản dịch từ tiếng Hà Lan bởi Emmanuel Brutsaert, CERF- PARIS 1970

 

 

 

CHO VINH DANH CHÚA HƠN

AMDG

AD MAIOREM DEI GLORIAM

 

 

 

Bài kết thúc thời gian học thần học,

xong 20:40’ ngày lễ thánh Phaolô Miki (06.02.85)

 

 

HOME    THẦN HỌC    ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG        ASVBT1       ASVBT2      ASVBT3      ASVBT4      ASVBT5

 

Chúc bạn an vui hạnh phúc.

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

[email protected]

 



[1] Cf. E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133.

Cf. A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV-DALAT, không ngày.

[2] K. RAHNER, Pour la thélogie du symbole, trong E.T., IX, DDB. 1968, p. 34-35

[3] K. RAHNER, Parole et Eucharistie,, trong E.T., IX, DDB.1968, p. 74

[4] K. RAHNER, op. cit., pp. 67-68

[5] A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày, trg. 62, trích dẫn GABRIEL BIEL, In 4 S., d. 3, q. unica, a. 2

                                St. THOMAS, S.T., III, 62,

                                St. THOMAS, 4 S, d.1, q.2, a. 6

                                St. AUGUSTIN, In Jon. tract., 80, 3 PL.35, 1840

[6] Với bí tích thánh tẩy, chúng ta thấy rơ điều này; nhưng c̣n với các bí tích khác? Một điều chúng ta lưu ư: người Công Giáo tin có bảy bí tích, nhưng anh em Tin Lành không tin truyền chức và xức dầu, là bí tích! Anh em Chính Thống coi bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức là một! Những bất đồng giữa Chính thống giáo, Công Giáo và Tin Lành, là số bí tích; và hàm chứa vấn đề: Đức Kitô có thiết lập những bí tích mà các giáo phái khác nhau- đều là Kitô giáo- không tin nhận không?! Vấn đề này chúng ta không bàn đến trong phạm vi bài này.

[7] Giáo Lư Công Giáo, TÂN ĐỊNH THIỆN BẢN- SAIGON 1967, số 150, trg. 60.

Sách Bổn dạy những lẽ đạo cần cho được rỗi linh hồn, ĐỊA PHẬN HÀ NỘI- HIỆN TẠI 1957, phần II, đoạn V, điều 2, trg. 76

[8] B. POSHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966, Coll. HISTOIRE DES DOGMES, p. 168

[9] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.17, q.1, n.11

cf.B.POSHMANN, op. cit., p. 63

[10] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.14, q. 4, n. 6

cf. B. POSHMANN, op. cit., p.163

[11] Ibidem, n. 7

[12] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle,

trong E.T., II, DDB. 1960, trg. 120

K. RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., IX, DDB. 1968 p. 83

[13] Ibidem, trg. 83

[14] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong E.T., II, DDB. 1960, p. 124

[15] Đây là quan niệm của thánh Thomas d'Aquin

K. RAHNER, op. cit., p. 125

[16] V́ ân sủng cũng có tính cách nhập thể, biểu lộ qua thân xác.

[17] K. RAHNER, op. cit., pp. 135.138-139.141-142

[18] Xem thêm K. RAHNER, Eglise et Sacrements,

DDB. 1970, p. 38-39, Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 10

[19] Không hàm ư loại trừ việc lănh bí tích.

[20] INNOCENTIUS III, Ep. “Maiores Ecclesiae causas” ad Ymbertum archiep. Arelat., exeunte a.1201; DS. 780/410/

E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p.160

[21] DS.780

[22] DS.1310.1348.1602

[23] VATICAN II, Sắc lệnh Truyền giáo, số 1

[24] VATICAN II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô, số 2

[25] Theo thiển kiến, khái niệm Đạo nơi đạo Lăo là một biểu tượng có thể kitô hóa:

“Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả phi thường Danh”

LĂO TỬ, Đạo Đức Kinh, IA

bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, KHAI TRÍ- SAIGON 1961, trg. 37

[26] Cf. K.RAHNER, La nature et la grâce,

trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II, DDB. 1963, p. 33

[27] K. Rahner cho rằng ân sủng là chính Thiên Chúa... và không thể hiểu ân sủng bằng phạm trù “sự vật” dù rằng lịch sử triết học và thần học có diễn tả ân sủng như một thực tại, như một tính chất, như một tùy thể, như một t́nh trạng,...

                Sở dĩ lịch sử triết học và thần học phải dùng phạm trù hữu thể để nói về ân sủng, bởi v́ có ǵ “thực” hơn t́nh yêu Thiên Chúa, có ǵ có thể biến đổi con người hữu hiệu bằng t́nh yêu Thiên Chúa,... , và bởi v́ chúng ta phải diễn tả những thực tại cao siêu bằng những hạn từ trừu tượng, nên phải trong tinh thần đó chúng ta mới hiểu được những ǵ triết học và thần học thời trung cổ nói về ân sủng.

Xem K. RAHNER, Ibid., p. 28-29.32.

Cf. CH. BAUMGARTNER, La grâce du christ, DESCLÉE- BELGIUM 1963, P. 164-166