HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
PHẦN II: ÂN SỦNG CỨU ĐỘ QUA BIỂU
TƯỢNG TRONG CÁC TÔN GIÁO
A. CƠ CẤU CON NGƯỜI
Đ̉I DẤU CHỈ
Tương
giao qua cơ cấu khả giác
Mặc
khải đặc biệt trước Abraham
Mặc
khải cho Abraham và dân Do-thái 8
B. ĐỨC YÊU: DẤU CHỈ
CỨU ĐỘ NGUỒN
b). Đức Yêsu- bí tích nguyên thủy
nguồn
a). Giáo Hội- dấu chỉ
Đức Yêsu hiện diện
b). Giáo Hội- dấu chỉ t́nh
yêu Thiên Chúa
Do
sự nhờ Đức Yêsu Ki-tô và trong Giáo Hội
D. ÂN SỦNG QUA BIỂU
TƯỢNG NGOÀI KITÔ GIÁO
Kitô hữu tin
rằng các bí tích ki-tô giáo là phương tiện Thiên Chúa
dùng ban ân sủng công chính hóa, ân sủng cứu độ.
Vậy những người không sống trong kitô giáo, qua
phương tiện nào họ nhận lănh ân sủng
cứu độ?
Trong phần này
chúng ta sẽ lần lượt đề cập
đến:
·
cơ
cấu con người đ̣i dấu chỉ;
·
Đức
Yêsu dấu chỉ cứu độ nguồn;
·
Thiên Chúa
dùng những dấu chỉ hay biểu tượng trong các
tôn giáo ngoại để ban ân sủng cho những
người sống trong các tôn giáo đó.
Con người
chỉ triển nở toàn diện khi sống với tha
nhân.
Trong tương
giao với người khác, con người diễn tả
tâm tư t́nh cảm, nguyện vọng, ao ước khao
khát của ḿnh cũng như của người khác qua
trung gian dấu chỉ. Mọi hành vi: nói, viết, vẽ,
điêu khắc, chơi âm nhạc, khiêu vũ, kịch câm,
nheo mắt, giơ tay, siết tay, cười, nh́n cách này
hay cách khác, và ngay cả thinh lặng, hoặc nghiêm nét
mặt,... cũng đều diễn tả tâm tư t́nh
cảm, thái độ của con người[1].
Qua hành vi và cách thức diễn tả của họ, chúng ta
có thể hiểu về người đó, về vũ
trụ quan và cả về Thiên Chúa quan của họ
nữa.
Con người là
tinh thần nhập thể, là hồn và xác. Trong
điều kiện tại thế, không có thân xác, không
thể là người trọn vẹn. Để diễn
tả con người của ḿnh, con người phải
diễn tả bằng thân xác và qua “thân xác”. Trong ư nghĩa
này, chúng ta có thể nói: cơ
cấu con người đ̣i dấu chỉ. Tính
“dấu chỉ” thuộc bản chất con người,
thuộc yếu tính, chứ không chỉ là tùy phụ.
Con người là
hồn và xác. Con người tiếp xúc gặp gỡ tha
nhân qua những biểu lộ của thân xác: cử
chỉ, hành động. Ngay chính Thiên Chúa, Đấng
tạo nên con người, khi gặp gỡ con
người, cũng gặp gỡ họ qua thân xác hoặc
qua những dấu chỉ khả giác mà con người có
thể tiếp nhận được[2].
L. Monden nói rất mạnh: “cái thiêng liêng chỉ có thể đến với con
người qua cái khả giác”[3].
Mọi tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người
được thực hiện nhờ các biểu
tượng. Biểu tượng giúp con người
vượt qua khoảng cách vô tận phân cách cái hoàn toàn tinh
thần và cái không bao giờ hoàn toàn rời lănh vực
khả giác.
Con người
muốn biết Thiên Chúa, muốn đạt đến Ngài
bằng lời cầu nguyện hay lễ vật, muốn
loan báo Ngài cho những người khác, v.v..., con người
luôn luôn phải trở về với những h́nh ảnh
tương tự. C̣n chính Thiên Chúa th́ Ngài chỉ diễn
tả Ngài và làm cho con người nhận biết Ngài qua
việc tạo dựng và bằng chính tạo thành khả
thụ đối với giác quan[4].
Với K. Rahner,
con người ngay trong cái thâm sâu nhất của những
hành vi thiêng liêng cũng luôn luôn hành xử như một
hữu thể là thân xác và linh hồn, đến độ
những hành vi thiêng liêng nhất cũng luôn luôn bén rễ
trong thân xác tính. Nói một cách thô thiển hơn, vẫn
theo ngôn từ của K. Rahner, ngay cả chuyển
động cao thượng nhất của t́nh yêu siêu nhiên
nhất đối với Thiên Chúa trong tận thâm sâu
của ngôi vị thiêng liêng cũng liên hệ với
tiến tŕnh điện vật lư của bộ năo.
Tiến tŕnh này thuộc lănh vực vật chất, mỗi
yếu tố đều phụ thuộc vào những
yếu tố khác và góp phần vào việc xác định
những yếu tố và biến chuyển ấy[5].
Như vậy, ân sủng của Thiên Chúa cũng luôn luôn mang
tính nhập thể.
Ân sủng là hành
vi t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Cũng như thân xác là hiện thể và cách thế
biểu lộ của linh hồn trong không gian và thời
gian và như vậy trong lịch sử, th́ ân sủng
cũng t́m thấy cách diễn tả thân xác tính trong mỗi
hành vi ân sủng. Hiểu như vậy tất cả ân
sủng siêu nhiên trong hiện thể đều có khía
cạnh nhập thể và lịch sử: chính trong khía
cạnh nhập thể và lịch sử này mà ân sủng làm
cho ḿnh hiện diện và tỏ lộ. Tóm lại ân
sủng có cơ cấu gần như bí tích trong trật
tự hiện tại[6].
Đi thêm một
bước nữa, K. Rahner cho rằng, ân sủng và
đặc biệt ân sủng của Đức Kitô- xét
như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con
người- mang cơ cấu xă hội, bởi v́ ân sủng
của Đức Kitô được mang xuống cho toàn
thể nhân loại xét như một cộng đoàn, và nó
đạt đến từng cá nhân xét như cá nhân là
phần tử của cộng đoàn, và nguời
được thánh hóa cùng người thánh hóa đều
từ một chủng tộc[7].
Với cái nh́n
tổng quát chúng ta thấy rằng: ư kiến chung của
các thần học gia mọi thời đều cho rằng
con người cần dấu chỉ để diễn
đạt, lănh hội và tương giao với con
người và với cả thế giới vô h́nh nữa.
Các ư kiến này bắt nguồn từ kinh nghiệm
sống và những suy tư trên chính con người: con
người là hồn và xác. Chính Thiên Chúa- Đấng
tạo dựng nên con người là hồn và xác- khi Ngài
tiếp xúc và thông hiệp với con nguời, Ngài vẫn
tôn trọng cơ cấu con người: Ngài tiếp xúc
với con người với cả thể xác lẫn linh
hồn qua các dấu chỉ khả giác.
Nhằm thấy
rơ hơn cơ cấu con người đ̣i dấu
chỉ, chúng ta sẽ đi t́m luận chứng dựa trên
hữu thể học và trên lịch sử cứu
độ.
Trước tiên
chúng ta xác định rơ hơn về ư niệm dấu
chỉ, biểu tượng.
Dấu chỉ-
tiếng Latin là signum, và tiếng Hylạp là shmeion:
·
P. Foulquié
định nghĩa: Cái cho phép phán đoán hay thấy
trước hoặc biết trước cái ǵ đó,
hoặc, cái tiêu biểu hay hành động khả giác cho
biết ư tưởng hoặc tỏ lộ điều ao
ước[8].
·
L. Leahy
định nghĩa cách đơn sơ hơn: “gọi là
dấu chỉ mọi thực tại khả giác mang ư
nghĩa”[9].
Một số
người cho rằng dấu chỉ thuộc về
sự vật, và sự vật nội tại nơi
dấu chỉ, tuy nhiên sự vật và dấu chỉ không
cùng hiện hữu và trùng khít nhau cách hoàn toàn và chính xác[10].
L. Leahy cho rằng
dấu chỉ được cấu thành trong cơ cấu
nội tại bởi một yếu tố khả giác và
một ư nghĩa, bởi một yếu tố khả giác
và một yếu tố siêu khả giác là ư nghĩa; ư
nghĩa này làm một với cái khả giác nhưng xác
định và vượt trên cái khả giác[11].
Biểu
tượng, đôi khi được gọi là biểu
hiệu, dấu hiệu.
·
A. Drexel
định nghĩa: biểu tượng là dấu chỉ
của một vật ǵ đó, chẳng hạn trái tim là
biểu tượng của t́nh yêu[12].
·
L. Leahy cho
rằng: biểu tượng là một dấu chỉ
loại suy mà ư nghĩa đầu tiên th́ rơ ràng, nhưng ư
nghĩa thứ hai cần được giải thích th́
mới rơ[13]. Chẳng
hạn chữ phép rửa (baptême): nghĩa đầu tiên là
d́m xuống nước, và nghĩa thứ hai biểu
hiệu cái chết và phục sinh của kitô hữu
được tham dự cái chết và sự phục sinh
của Đức Kitô.
·
Với A-M.
Roguet, biểu tượng là một hữu thể cụ
thể có thực, là một bản chất tự nó có giá
trị, nhưng được tháp nhập vào nó một
tương quan chỉ một khách thể hoàn toàn khác; nói
cách khác biểu tượng là một dấu chỉ
khả giác một dấu chỉ suy lư[14].
Cũng theo A-M. Rouguet, sự phân biệt giữa dấu
chỉ và biểu tượng không hoàn toàn rơ ràng[15].
·
Theo lời
đầu sách của Symbole trong Recherches et débats, biểu
tượng đầu tiên không là một sự vật
nhưng là dấu chỉ của sự vật
được diễn dịch cách trừu tượng
hoặc giả tưởng trong một trật tự khác
trật tự của nó. Chẳng hạn cái vô h́nh, cái
ở xa, cái thiêng liêng được chỉ thị
nghĩa là được loan báo và tỏ lộ trong
những biểu tượng khả giác, gần gũi,
được tưởng tượng và có thể
tưởng tượng h́nh dung được, như
vậy tư tưởng được biểu thị
bởi ngôn ngữ, linh hồn được biểu
thị bởi thân xác nhưng tư tưởng không là ngôn
ngữ và hồn cũng không là xác...[16].
·
Ernst Cassirer
cho rằng không thể giản lược biểu
tượng vào dấu chỉ v́ dấu chỉ và biểu
tượng thuộc hai thế giới khác nhau: dấu
chỉ thuộc thế giới vật lư, c̣n biểu
tượng thuộc thế giới nhân linh[17].
Biểu tượng là thế giới của con
người, chứ loài vật không biết đến
biểu tượng[18].
V́ những
bất đồng của các tác giả về việc xác
định đâu là dấu chỉ và đâu là biểu
tượng, các tác giả hay đúng hơn những
người chịu trách nhiệm ra số Symbole trong
Recherches et Débats XII (1959) đă đề nghị dành riêng
chữ biểu tượng cho những dấu chỉ mà
bản chất bí ẩn của những cái được
chỉ chống lại những phân tích rời rạc, chẳng
hạn như thần thoại, ẩn dụ thi ca, cử
chỉ và lời thánh. Và như vậy không dùng từ
biểu tượng để chỉ những dấu
chỉ nhân tạo, và những cái mà dấu chỉ và cái
được chỉ chỉ có tương quan ngoại
diện hoặc do thói quen hoặc do quy ước[19].
Như vậy biểu tượng là dấu chỉ mà cái
được chỉ thuộc về một trật
tự khác, chẳng hạn cái vô h́nh, thiêng liêng. Nếu
chấp nhận đề nghị này, tất cả bí tích
kitô giáo đều là biểu tượng, nhưng c̣n
hơn biểu tượng nữa; nói theo ngôn từ
của K. Rahner th́ các bí tích là những biểu tượng
thực! Nhưng một điều chúng ta phải
biết; không phải mọi người đều
chấp nhận điều này, và như vậy, có
những tác giả dùng từ “dấu chỉ” mà những
tác giả khác lại dùng từ “biểu tượng”
nhưng cả hai đều là một thực tại!
K. Rahner cho
rằng hữu thể tự ḿnh thiết yếu có tính
biểu tượng v́ hữu thể thiết yếu
phải tự diễn tả để t́m được
yếu tính của ḿnh[20].
Thực vậy, hữu thể có tính đơn nhất và
đa phức, trong tính đơn nhất này, đa phức
diễn tả hữu thể.
Thường trong
khoa hữu thể học, người ta cho rằng tính
đa phức là đặc tính của hữu thể
hữu hạn; nhưng với tính đơn nhất
của Thiên Chúa, chúng ta vẫn thấy sự phân biệt
thực các ngôi vị- dù rằng chỉ là sự phân
biệt tương quan- và như vậy dưới khía
cạnh nào đó vẫn có tính đa phức nơi Thiên
Chúa, nghĩa là nơi hữu thể trọn vẹn tṛn
đầy[21] vẫn
có tính đa phức.
Như vậy
chúng ta thấy tính đa phức của hữu thể không
là một giới hạn của hữu thể nhưng
ngược lại- với gương mẫu của Ba
ngôi Thiên Chúa- tính đơn nhất của hữu thể
được thể hiện tṛn đầy trong yếu tố
đa phức. Những yếu tố đa phức của
hữu thể có sự tương hợp sâu xa với nhau
trong tính đơn nhất của hữu thể, bởi v́
chúng liên kết với nhau nhờ tính đơn nhất này[22].
Hữu thể
được nói là đơn nhất không phải do
nhiều yếu tố đa phức nơi hữu thể
được đặt cạnh bên nhau, nhưng do chính
cái một nguyên thủy liên kết tất cả những
yếu tố đa phức “tương hợp” với
nhau, diễn tả nhau, bởi v́ tất cả chúng cùng
được liên kết trong cái một, tính đơn
nhất của hữu thể.
Hiểu sự
tương hợp của những yếu tố đa
phức trong hữu thể như là biểu tượng
của nhau và của chính hữu thể, chúng ta có thể đi
đến kết luận: hữu thể có tính biểu
tượng do chính nó, bởi v́ nó thiết yếu diễn
tả chính ḿnh[23].
Ta có thể tóm
những lư luận trên như sau: đa phức đến
từ đơn nhất như sự thống nhất uyên
nguyên- xét như hữu thể tự biểu lộ trong
đơn nhất tính- hoàn thành hữu thể; đa
phức xét như đến từ đơn nhất uyên
nguyên, tương hợp với nhau cách nào đó và biểu
lộ hữu thể. Như vậy hữu thể- với
tính đơn nhất và đa phức- có tính biểu
tượng, v́ hữu thể- với tư cách là hữu
thể- phải diễn tả và hoàn thành chính ḿnh!
Hữu thể là
một phạm trù dị nghĩa. Nó không hoàn toàn giống
nhau. Hữu thể có những mức độ hiện
hữu khác nhau tùy mức độ phản tỉnh trên
chính nó. Nói cách khác, hữu thể nhận biết và
được nhận biết tùy mức độ
hữu thể thể hiện (in tantum est ens cognoscens et
cognitum in quantum est ens actu). Trong mức độ hữu thể
có và thể hiện hữu thể của ḿnh, hữu
thể có tính “biểu tượng” đối với chính
ḿnh. Nghĩa là hữu thể diễn tả và phản
tỉnh trở về trên chính nó.
Như vậy tính
“biểu tượng” không chỉ được quan
niệm như sự tương hợp giữa hai hữu
thể khác nhau do một quan sát viên thứ ba khẳng
định có sự tương hợp giữa hai hữu
thể, nhưng đúng hơn tính biểu tượng
nơi hữu thể chủ yếu hệ tại hữu
thể trở thành khác ḿnh nhưng vẫn là ḿnh trong sự
nhận thức và t́nh yêu. Sự diễn tả ḿnh- và là cái
tính biểu tượng của hữu thể diễn
tả ḿnh- là một cách nhận biết về chính ḿnh,
khám phá ra ḿnh[24].
Bây giờ xét
đến một hữu thể được nhận
biết bởi một chủ thể khác. Việc một
chủ thể nhận biết một hữu thể khác,
không chỉ hệ tại nơi chủ thể nhận
biết, nhưng c̣n hệ tại nơi hữu thể
được nhận biết nữa: ens est cognitum et
cognoscibile in quantum ipsum est actu. Nghĩa là hữu thể
được nhận biết bởi v́ nó có tính biểu
hiệu không chỉ đối với nó nhưng c̣n
đối với hữu thể khác nữa[25].
Đến đây
chúng ta có thể nói: biểu hiệu thực, là sự hoàn
thành chính ḿnh của một hữu thể nơi một
hữu thể khác, sự hoàn thành này là chính cấu tố
của hữu thể [26].
Với quan
niệm về biểu tượng như là cách diễn
tả và sự thể hiện của hữu thể,
của hiện sinh như trên, chúng ta có thể đi
đến kết luận:
·
Agere sequitur
esse. Nếu hữu thể vừa thiêng liêng vừa thể
xác, th́ hoạt động cũng vừa thuộc trí
tuệ vừa thuộc khả giác. Chủ thể không
thể hoạt động trong một lănh vực mà nó không
thuộc trật tự này cách hữu thể[27].
·
Hành vi
cứu độ của Thiên Chúa đối với con
người, từ lúc khởi đầu cho đến lúc
kết thúc, luôn được thực hiện như
thế này: Thiên Chúa là thực tại cứu độ
được ban cho con người và được con
người lănh nhận trong biểu tượng. Và hơn
nữa biểu tượng không tiêu biểu cho thực
tại như vắng mặt, nhưng thực tại
hiện diện và được biểu lộ bởi
biểu tượng (mà chính thực tại đă tạo
thành biểu tượng)[28].
Tắt một
tiếng, với suy luận về hữu thể chúng ta
khẳng định được rằng con
người cần biểu tượng để diễn
tả và lănh hội chủ thể và tha thể, thực
tại khả giác cũng như thiêng liêng, và ngay cả
ơn cứu độ.
Luận chứng
lịch sử cứu độ về cơ cấu con
người đ̣i dấu chỉ, nghĩa là, Thiên Chúa ban
ơn cứu độ cho con người qua các dấu chỉ,
không có ư muốn nói chúng ta chứng minh điều này,
nhưng đúng hơn giúp chúng ta thấy trong lịch
sử cứu độ, Thiên Chúa đă nói với con
người qua các dấu chỉ, và con người
đă đáp lại tiếng nói của Thiên Chúa qua dấu
chỉ hoặc biểu tượng bằng đức tin,
nghĩa là Thiên Chúa cứu độ con người qua
dấu chỉ.
Vào thế kỷ
thứ IV-V, thánh Augustin cho rằng cơ cấu bí tích
cần thiết và là phương thế Thiên Chúa dùng
để cứu độ con người, ngay cả trong
thời Cựu ước. Ngài viết:”Đừng
tưởng trước khi lập phép cắt b́, Thiên Chúa
đă không dùng một bí tích nào để trợ giúp, v́ ngay
trong thời kỳ này, con người cũng đă tin vào
một Đấng trung gian phải đến; tuy nhiên bí
tích này là ǵ Kinh Thánh không muốn nói tới”[29].
Thánh Thomas vào
thể kỷ XIII cho rằng “con người cần cơ
cấu bí tích v́ ba lư do, lư do thứ nhất là theo
bản tính con người: cái riêng của bản tính
con người là nhờ vào thể xác và cái khả giác
mà đi vào cái thiêng liêng”[30].
Tuy nhiên thánh Thomas cho rằng con người chỉ
cần cơ cấu bí tích sau khi con người phạm
tội dù trước lẫn sau Đức Yêsu[31],
c̣n trước khi con người phạm tội th́ không
cần cơ cấu bí tích; Sở dĩ như vậy
v́ Ngài coi bí tích như phương dược tẩy
rửa tội, nên không có tội th́ không cần bí tích[32].
Để
hiểu rơ hơn về khái niệm biểu tượng- bí
tích, chúng ta xét tới sự kiện mặc
khải. Mặc khải là hành vi Thiên Chúa tỏ lộ
chính Ngài và chương tŕnh cứu độ con
người của Ngài cho con người. Có thể nói,
ngay công tŕnh tạo dựng cũng là dấu chỉ
Thiên Chúa hiện hữu, dấu chỉ của t́nh yêu
Thiên Chúa đối với vũ hoàn và đặc biệt
là con người.
Kinh thánh cũng
nói về việc Thiên Chúa mặc khải qua tự nhiên:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh
không kể ra sự nghiệp tay Người; Ngày này
nhắc nhở cho ngày khác, đêm này truyền tụng
cho đêm kia” (Tv.18, 2-5).
Dân ngoại
cũng có thể biết về Thiên Chúa qua thiên
nhiên. Thánh Phao lô viết: “V́ chưng những ǵ có
thể biết về Thiên Chúa th́ đă nên hiển nhiên
nơi họ rồi, bởi chính Thiên Chúa đă tỏ
cho họ thấy. Từ khi vũ trụ
được tạo thành, những điều ẩn
khuất nơi Người, họ có thể lấy trí
khôn mà chiêm ngắm được nơi các công việc
của Người quyền phép vô thủy vô chung và
thần tính của Người...” (Rm.1, 19-20).
Thiên Chúa mặc
khải cho con người, Ngài cũng luôn mặc khải
qua các dấu chỉ khả giác. Nói cách khác, chính qua
những dấu chỉ khả giác này mà con người
nhận biết Thiên Chúa và chương tŕnh của Thiên
Chúa đối với con người. Những dấu
chỉ khả giác chỉ thực tại siêu việt,
có thể được một số đông người
coi như biểu tượng. Thiên nhiên, tạo thành,
trở thành dấu chỉ của Thiên Chúa, cho thấy
Thiên Chúa hiện hữu, Thiên Chúa yêu con người.
Con người
không chỉ nhận biết Thiên Chúa và t́nh yêu của
Ngài đối với con người qua dấu chỉ
khả giác, nhưng ngay thái độ tâm t́nh của con
người đối với Thiên Chúa cũng
được diễn tả qua những hành vi khả
giác, chẳng hạn như qua việc thờ
lạy, thái độ cung kính, việc dâng lễ
vật tế lễ.
Abel và Cain dâng
lễ vật cho Thiên Chúa là hoa quả mùa màng và chiên
cừu, Noe cũng dâng lễ vật để tỏ tâm
t́nh tạ ơn và thờ lạy Thiên Chúa (Kn.1-11)[33]. Như vậy, Kinh thánh đă
nói về việc Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài
và chương tŕnh của Ngài cho con người
trước khi Thiên Chúa tuyển chọn và
gọi Abraham, và cũng cho thấy con người
diễn tả tâm t́nh thái độ của ḿnh đối
với Thiên Chúa.
Trong tương
quan hai chiều này, cả Thiên Chúa lẫn con người
đều dùng những dấu chỉ khả giác; sở
dĩ vậy để con người có thể lănh
hội được điều Thiên Chúa muốn diễn
tả, và v́ con người phải diễn tả tâm
t́nh thái độ của ḿnh bằng những cử
chỉ và những ǵ khả giác.
Bây giờ chúng ta
xét đến thời điểm Thiên Chúa tuyển chọn
Abraham để h́nh thành một dân tộc, chuẩn
bị cho Lời Thiên Chúa nhập thể cứu
độ con người.
Dân Israel tin
rằng Thiên Chúa đă tuyển chọn và gọi tổ
phụ Abraham, đă giải phóng họ khỏi ách nô
lệ Aicập, và vẫn hằng hiện diện và nói
với họ qua các biến cố và tiên tri trong ḍng
lịch sử.
Với những
người đặc biệt như Abraham, Ysaac, Yacobï,
Môsê và các tiên tri, các vị này vẫn tiếp
xúc với Thiên Chúa qua trung gian khả giác:
·
Yavê Thiên
Chúa đă hiện ra cho Abraham dưới dạng ba
người và đă được ông thiết tiệc
(Kn.18)[34];
·
Môsê gặp
gỡ Thiên Chúa qua bụi gai bốc lửa nhưng không tàn
(Xh.3, 1tt.).
Cắt b́ (Kn.17,
9tt; Lv.12, 3; Yos.5, 2.) được những người
thời sau này coi như một bí tích đối
với dân Israel[35].
Cắt b́ là dấu giao ước giữa Thiên Chúa
và Abraham cùng miêu duệ ông (Kn.17, 11), là dấu chỉ
việc Abraham cùng con cháu ông thuộc về Thiên Chúa, dân
tộc tư tế và thánh thiện của Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước không phải chỉ có cắt b́
nhưng c̣n có những nghi thức khác cũng có thể
được coi như dấu chỉ của ơn thánh
vô h́nh như những nghi lễ tế tự, nghi lễ xá
tội, v.v.
Biến cố
xuất hành là biến cố làm nên dân tộc Israel. Biến
cố ra khỏi Aicập, đi qua biển đỏ khô
chân, giao ước trên núi Sinai, là dấu chỉ lớn
cho dân thấy Thiên Chúa vẫn tiếp tục trung thành
với lời hứa Ngài đă ban cho các tổ phụ
Abraham, Isaac, và Yacob: Thiên Chúa yêu thương họ
nên đă nghe lời họ kêu van (Xh.3, 7), Ngài sai Môsê
giải phóng họ ra khỏi đất nô lệ
Aicập bằng những điềm thiêng dấu
lạ. Nơi cuộc hành tŕnh của dân Do-thái trong sa
mạc, Thiên Chúa vẫn hiện diện với dân qua
cột mây và cột lửa (Xh.13, 21), và sau đó nơi
ḥm bia giao ước, nhà tạm (Xh.40, 34t).
Biến cố vào
đất hứa là biến cố cho dân Israel tin rằng
Thiên Chúa đứng về phía dân và chính Ngài đă ban
đất Canaan cho dân.
Với các tiên tri
trong ḍng lịch sử cũng như với biến cố
lưu đày, dân Israel tin rằng Thiên Chúa Yavê vẫn
hiện diện với họ, Ngài trừng phạt khi
họ ĺa bỏ Ngài và tha thứ khi họ ăn năn
thống hối... Cây “thức sớm” (Yer.1, 11), cái
nồi (Yer.1, 13), tiên tri mang ách (Yer.27), chính cuộc
sống của tiên tri (Hôsê), đă thành biểu
tượng cho dân và cho cả tiên tri nữa.
Qua ḍng lịch
sử dân tộc Israel như Cựu Ước cho thấy:
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ ḿnh cho Abraham và miêu
duệ ông; Ngài nói với dân qua các biến cố và qua các
tiên tri như sứ giả của Thiên Chúa. Dân chúng
đáp lại mặc khải của Thiên Chúa Yavê
bằng ḷng tin, thái độ thờ phượng tôn kính
qua việc tế tự (hy tế tạ tội, hy
tế kỳ an, hy tế toàn thiêu). Với dân Do Thái, các
biến cố và tiên tri là những dấu chỉ-
biểu tượng qua đó Thiên Chúa nói với dân, cho
dân hiểu biết Thiên Chúa là Đấng yêu
thương và giải phóng cùng ở với dân trong
mọi hoàn cảnh và t́nh huống, cho dân nhận
thấy ư định cứu độ của Ngài.
Như vậy khi
xét những hành vi tỏ ḿnh của Thiên Chúa, chúng ta đi
đến kết luận:
·
Thiên Chúa
vẫn tỏ ḿnh ra cho dân qua những dấu
chỉ khả giác;
·
con dân Israel
cũng đáp trả lại mặc khải của
Thiên Chúa bằng ḷng tin được biểu lộ
qua những dấu chỉ như cắt b́, những
nghi thức tế tự, v,v...
“Chỉ có một
Thiên Chúa và cũng chỉ có một Đấng Trung gian
giữa Thiên Chúa và nhân loại: Đức Yêsu,
Đấng đă thí ḿnh làm giá chuộc thay cho mọi
người” (1Tm.2, 5-6).
Xét dưới
khía cạnh hữu thể, để làm trung gian giữa Thiên
Chúa và con người, ngôi vị trung gian đó phải
vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Đức
Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể: “Lời đă ở
nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa... Lời đă thành xác
phàm và đă lưu trú nơi chúng tôi” (Yn.1, 1.14). Như
thế, Đức Yêsu xét như Thiên Chúa nhập thể,
theo bản tính, là trung gian giữa Thiên Chúa và con
người cách tuyệt hảo.
Khi khẳng
định mầu nhiệm Đức Yêsu có hai
bản tính- thiên tính và nhân tính, Huấn Quyền cũng
trích dẫn 1Tm.2, 5 và khẳng định Đức
Yêsu là Đấng Trung Gian, v́ Ngài vừa là Thiên Chúa
vừa là con người[36].
Truyền thống giáo phụ cũng có
những luận chứng theo khía cạnh hữu
thể[37] về
Đức Yêsu là trung gian.
“Mọi sự
đều đă được Cha ta trao phó cho Ta, và không ai
biết được Con trừ phi có Cha; và cũng
không ai biết được Cha trừ phi có Con và
kẻ được Con khấng mặc khải cho” (Mt.11,
27). Đức Yêsu là trung gian mặc khải, Ngài là
Đấng mặc khải Thiên Chúa Cha và chương
tŕnh cứu độ con người.
Con người có
thể diễn tả tâm t́nh ư định qua hành vi
cử chỉ, hoặc bằng cái nheo mắt hoặc
nụ cười hoặc bằng
cử điệu..., và bằng lời nói của ḿnh.
C̣n Thiên Chúa, Ngài đă mặc khải cho chúng ta về
chính Ngài và chương tŕnh của Ngài qua ngôi Lời, là ngôi
vị Thiên Chúa. “Ngày xưa nhiều lần và nhiều
cách Thiên Chúa đă nói với cha ông nơi các tiên tri,
nhưng đến thời sau hết- tức là trong
những ngày này- Người đă nói với chúng ta
nơi Người Con” (Dt.1, 1). Đức Yêsu là chóp
đỉnh mặc khải v́ Ngài là Lời Thiên Chúa.
Với
Đức Yêsu, Thiên Chúa đă cho chúng ta thấy:
·
Thiên Chúa là
t́nh yêu (1Yn.4, 8.16), và Thiên Chúa đă yêu thế gian
đến độ ban Con Một Người cho chúng
ta (Yn.3, 16);
·
ư
định từ muôn đời muôn thuở là thu tóm
vạn sự vạn vật dưới một đầu
mối là Đức Yêsu (Eph.1, 9tt);
·
ư
định cứu độ mọi người (1Tm.2, 4);
·
Đức
Yêsu là đường dẫn chúng ta tới với Thiên Chúa
Cha; Ngài chính là sự thật và sự sống. Ngài nói: “Ai
thấy Ta là thấy Cha” (Yn.14, 6.9). Sự sống
đời đời và hạnh phúc vĩnh cữu là
được sống với Thiên Chúa, được
hiệp thông với Người, thế mà Đức
Yêsu nói: Ai thấy Ta là thấy Cha, không ai đến
được với Cha mà lại không qua Ta- chúng ta
thấy rơ thêm một lần nữa Ngài là Trung Gian
cứu độ duy nhất. Không nhờ Ngài th́ không ai được
cứu độ.
Tác giả thư
gởi tín hữu Do thái cho chúng ta biết thêm: Đức
Yêsu là trung gian giữa Thiên Chúa và con người như
là vị Thượng Tế, trung gian của Giao
Ước mới (Dt.9, 15;4, 14).
Con người
đến với Thiên Chúa qua các trung gian. Trong Cựu
Ước chúng ta đă thấy Môisê, Aarôn, các tiên tri và
các tư tế đóng vai tṛ trung gian này; đặc biệt
trong lănh vực tế tự, con người diễn
tả tâm t́nh thái độ của ḿnh lên Thiên Chúa qua các
lễ vật hy tế. Tư tế đóng vai
đại diện Thiên Chúa và con người, dâng những
lễ tế này v́ đă được chọn bởi
chính việc được sinh trong ḍng họ Lêvi.
Và Thiên Chúa đă ban ân sủng của Ngài qua những
trung gian này.
Ngày nay “máu của
Đức Kitô nhờ Thần Khí hằng có mà hiến ḿnh
làm hy lễ sinh vô t́ tích dâng lên Thiên Chúa, sẽ tẩy
sạch lương tâm ta hơn biết mấy khỏi
các việc chết, mà c̣n phụng sự Thiên
Chúa hằng sống” (Dt.9, 14).
Trong bí tích thánh
thể, Đức Yêsu vừa là của lễ, vừa
là thượng tế dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Khi
truyền phép trong Thánh Thể, linh mục chủ tế
làm nhân danh Đức Yêsu, với tư cách là ngôi vị
Đức Kitô (in persona Christi).
Đức Yêsu là
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con
người. Không có Ngài con người không
được cứu độ v́ Ngài là nguyên
nhân cứu cánh của cả hoàn vũ. Tất cả
mọi người khi được cứu
độ, được lănh ơn làm con Thiên Chúa,
đều được cứu độ
nhờ bởi Đức Yêsu Kitô, dù người đó
là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, là kitô hữu
hay không. Ngay cả những người không tin
Đức Yêsu, thậm chí không tin Thiên Chúa hiện hữu-
nếu họ được cứu độ- th́
những người này vẫn được
cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô, trong
Đức Yêsu Kitô, và qua Đức Yêsu Kitô.
“Ngoài Giáo Hội
không có ơn cứu độ”.
“Đức Yêsu
Kitô là trung gian cứu độ duy nhất giữa Thiên
Chúa và con người”.
Thế nhưng những người sống trong các
tôn giáo khác, những người không tin Đức Yêsu,
những người vô thần, vẫn có thể
được cứu độ, và những
người này khi được cứu độ,
vẫn được cứu độ trong
Giáo Hội của Đức Yêsu Kitô và nhờ
Đức Yêsu Kitô. Nói cách khác, tất cả những
người được cứu độ này
đều thuộc về Giáo Hội Đức Yêsu Kitô
cách nào đó, và vẫn nhờ Đức Yêsu Kitô
để được cứu độ dù họ
biết hay không biết.
Với
đức tin kitô giáo, Đức Yêsu là Ngôi Lời nhập
thể (Yn.1, 14), là Thiên Chúa làm người.
Ngôi Lời là Thiên
Chúa, hằng hướng về Thiên Chúa (Yn.1, 1-3); Ngôi
Lời là diễn tả của Thiên Chúa, là cách diễn
tả của Thiên Chúa, là biểu tượng của
Thiên Chúa[38]. Khi Thiên
Chúa diễn tả, Ngài diễn tả bằng Lời;
Lời là biểu hiệu, biểu tượng, là ngôn
từ của Thiên Chúa.
Lời đă thành
xác phàm (Yn.1,14). Cái vô h́nh thành cái hữu h́nh, vô hạn
thành hữu hạn; Đấng không thể diễn tả
nổi là Thiên Chúa nay đă thành khả giác vật
chất, được diễn tả.
Lời Thiên Chúa
đă thành thân xác khả giác khả tử. Nói cách khác,
Thiên Chúa đă diễn tả chính Ngài bằng cái ǵ
khả giác khả tiếp thu đối với con
người. Đức Yêsu là mặc khải tột
đỉnh của Thiên Chúa, không những cho con
người mà cho mọi tạo thành nữa,
v́ Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa; nếu có tạo
thành nào muốn hiểu Thiên Chúa th́ phải hiểu qua
Lời Ngài[39]. Không qua
Lời, tạo thành không thể hiểu, và không thể
thông giao với Thiên Chúa.
Đức Yêsu là
h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh (Col.1,15). Ngài là h́nh ảnh,
là dấu chỉ, là biểu tượng của Thiên Chúa;
nhưng Ngài không đơn thuần là dấu chỉ
hiểu theo nghĩa dấu chỉ không bao giờ là
thực tại, Ngài cũng không chỉ là biểu
tượng hiểu theo nghĩa biểu tượng là
cái ǵ không hoàn toàn là thực tại; trái lại Ngài là
thực tại, là biểu tượng thực, là dấu
chỉ đồng thời là chính thực tại!
Đức Yêsu là
Lời của Thiên Chúa, là h́nh ảnh của Thiên Chúa,
là biểu tượng thực
của Thiên Chúa; đến độ Ngài nói: “Thầy là
đường, là sự thật và là sự
sống... Ai thấy Ta là thấy Cha” (Yn.14, 6.9). Nói
một cách khác, Đức Yêsu vừa là phương
tiện vừa là cứu cánh, vừa là phương
tiện mặc khải vừa là chính thực tại
được mặc khải, là Sự Thật.
Đức Yêsu là
Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt.1, 23). Nơi
Đức Yêsu, Thiên Chúa nhập thể là một
người giữa chúng ta, Thiên Chúa dứt khoát ở
với con người. Đức Yêsu là dấu chỉ
Thiên Chúa hiện diện với con người; Thiên Chúa
không bao giờ bỏ con người và như thế con
người không c̣n có thể nghi ngờ về t́nh yêu
và sự hiện diện của Ngài nữa, v́ Đức
Yêsu chính là Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa đă làm
người, Ngài măi măi là người và không bao giờ
Ngài ngừng là người[40].
Đức Yêsu,
xét như Thiên Chúa nhập thể, là quà tặng Thiên Chúa
ban cho con người. Những quà tặng khác
là những ǵ ngoài Thiên Chúa, c̣n với Đức Yêsu quà
tặng chính là Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến
độ ban Con Một Ngài cho thế gian” (Yn.3, 16). Thánh
Luca cũng nói: “Hôm nay Cứu Chúa đă được sinh
ra cho các ngươi” (Lc.2,
11).
Đức Yêsu là
dấu chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương
con người, nhưng không chỉ thế, Ngài c̣n là
bảo chứng t́nh yêu của Thiên Chúa đối
với con người. Đức Yêsu là bảo
đảm cho phần rỗi chúng ta. Nói một cách b́nh
dân của giới bài bạc: khi Thiên Chúa ban tặng cho
con người chính Đức Yêsu, th́ con người
như người chơi bài với Thiên Chúa, và đă
nắm được con tẩy của Ngài!
Lề luật th́
được ban qua Môsê, nhưng chân lư và ân sủng th́
được ban qua Đức Yêsu (Yn.1, 17). Có thể
nói, qua Đức Yêsu, Thiên Chúa không c̣n từ chối
với con người điều ǵ nữa; và Ngài ban
cho con người tất cả nơi Đức Yêsu.
Thiên Chúa ban cho con
người tất cả trong Đức Yêsu và nhờ
Đức Yêsu. Đức Yêsu là dấu chỉ t́nh yêu
của Thiên Chúa đối với con người.
Như vậy chúng ta có thể nói: Đức Yêsu là bí tích
nguồn, v́:
·
Chính nhờ Đức Yêsu mà chúng
ta được ban hết ơn này đến ơn khác,
và đặc biệt ơn tha thứ tội khiên,
ơn được giao ḥa với Thiên Chúa, ơn được
trở nên con Thiên Chúa[41]...
·
Chính trong Đức Yêsu chúng ta
nhận lănh mọi ân sủng, ngay cả ơn
được thông hưởng sự sống của
Thiên Chúa, chúng ta cũng lănh nhận qua Đức Yêsu.
Không có Đức
Yêsu, con người không được yêu và không có ân
sủng; và chỉ với Đức Yêsu, nhờ
Đức Yêsu và qua Đức Yêsu mà chúng
ta đưọc lănh nhận, và được yêu. Nói
cách khác, Thiên Chúa yêu chúng ta nơi Con Một của Ngài
là Đức Yêsu. Tuy nhiên Đức Yêsu vừa là bí tích
vừa là chính thực tại bí tích.
Chúa Kitô nhờ
Thánh Thần, đă thiết lập thân thể Người
là Giáo Hội như bí tích phổ quát ban ơn cứu
rỗi (LG.48.9; GS.45; AG.5).
Giáo Hội là
Israel mới. Lịch sử dân Israel qua Kinh Thánh cho
thấy, như Abraham là dấu chỉ chúc phúc cho mọi
dân tộc (Kn.12, 3), Israel cũng là nguồn vui, nguồn
vinh quang, và dấu chỉ chúc phúc cho các dân tộc. Israel
là dấu chỉ được giương cao
giữa các dân tộc[42];
và một cách nào đó có thể nói: Israel cũng là
dấu chỉ ơn cứu độ, là bí tích.
Giáo hội là bí
tích v́ Giáo Hội được Đức Kitô thiết
lập để tiếp tục công tŕnh cứu
độ của Người nơi trần gian; và như
vậy Giáo Hội là dấu chỉ Đức Kitô
hiện diện, dấu chỉ t́nh yêu nhân ái của
Thiên Chúa đối với con người[43].
Như nơi
Đức Yêsu, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là
người, thiên tính và nhân tính không pha trộn và không
phân cách; cũng vậy nơi Giáo Hội, dấu
chỉ và thực tại, yếu tố lịch sử và
Thánh Linh, cũng không phân tách và không lẫn lộn[44].
Như thiên tính không bao giờ rời bỏ nhân tính nơi
Đức Yêsu, th́ Thánh Thần của Đức Yêsu
cũng không bao giờ rời bỏ Giáo Hội[45].
Giáo Hội
được Đức Kitô thiết lập để
thi hành công cuộc cứu độ con người
nơi trần gian. Giáo Hội vừa là bí tích cứu
độ hiểu như dấu chỉ sự hiện
diện của Đức Kitô nơi trần gian, vừa là
bí tích hiểu như phương tiện cứu
độ được thực hiện bởi Đức
Kitô. Xét như sự hiện diện cứu độ
của Đức Kitô nơi trần gian và phương
tiện cứu độ được Đức
Kitô thiết lập, Giáo Hội đại diện
Đức Kitô ban các bí tích như những phương
tiện cứu độ. Nói cách khác Đức Kitô cứu
độ nhân loại qua các bí tích mà Ngài đă thiết
lập qua Giáo Hội.
Giáo Hội là
dấu chỉ t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người, và như vậy là dấu chỉ ân
sủng. Thiên Chúa vô h́nh đă nên hữu h́nh khả giác
với con người qua mầu nhiệm nhập
thể; và cũng phần nào tương tự
như vậy, ân sủng cứu độ của Thiên
Chúa, của Đức Yêsu Kitô, mang khía cạnh nhập
thể nhờ mầu nhiệm Giáo Hội- dấu chỉ
sự hiện diện yêu thương của
Đức Yêsu nơi trần gian.
Giáo Hội
thể hiện ân sủng qua những hành vi của ḿnh. Ân
sủng như chân lư, được thể hiện qua
lời giảng dạy của Giáo Hội, được
thích ứng tùy thời và tùy tŕnh độ thiêng liêng
của con người, để dẫn đưa con
người vào chân lư trọn vẹn của Đức
Kitô. Ân sủng như việc hiến thánh con
người, được thể hiện qua việc ban
các bí tích. Và ân sủng như hy tế dâng lên Thiên Chúa,
được thể hiện qua việc cử hành
thánh lễ mỗi ngày[46].
Giáo Hội là
dấu chỉ ân sủng t́nh yêu của Thiên Chúa cho
con người. Giáo Hội thể hiện ân sủng
của Đức Yêsu Kitô trong thời điểm
hiện tại qua bí tích mà Giáo Hội cử hành cách
đặc biệt đại diện Đức Kitô.
Bây giờ chúng ta xét kỹ hơn về bí tích kitô giáo.
Giáo lư về bí
tích kitô giáo chỉ được h́nh thành rơ ràng vào
cuối thế kỷ XII, nhưng những quan niệm
về bí tích cách cơ bản đă có ngay từ
thời đầu[47].
Chữ bí tích hiểu theo nghĩa Công
giáo được dịch từ chữ sacramentum
của tiếng Latinh, và chữ sacramentum này cũng
được dịch từ chữ musthrion tiếng Hylạp.
Chữ musthrion tiếng Hylạp,
·
trong lănh
vực phượng tự của các tôn giáo ngoài kitô,
chỉ việc cúng hiến một người nào
đó cho thần linh qua việc nhập giáo với
những nghi thức bí mật;
·
với
nghĩa về tri thức, nó chỉ những giáo thuyết
bí mật ít người biết đến;
·
với
nghĩa thông thường nó chỉ tất cả những
ǵ bí mật ít người hiểu, cả trong lănh
vực tôn giáo cũng như trong những ǵ thế tục[48];
·
trong
bản dịch Kinh Thánh LXX chữ musthrion được dùng để
chỉ những nghi lễ dân ngoại (Kn. 14, 15-23), và
cũng được dùng để chỉ ư
định mầu nhiệm của Thiên Chúa mà con người
không thể biết nếu không có mặc khải;
·
trong Tân
Ước chữ musthrion mang nghĩa tri thức, như
“các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cor.4, 1)[49];
·
vào thời
các giáo phụ đầu tiên, đặc biệt
trường Alexandria với Clément d'Alexandria và Origène,
cũng đă dùng chữ musthrion để chỉ phép rửa
và tiệc Thánh Thể[50].
Chữ Sacramentum
do động tự sacrare và danh từ sacrum tiếng Latinh,
·
được
dùng chỉ lời thề của lính Roma;
·
được
dùng chỉ lời hứa của tín hữu buộc giữ
các giới răn của Thiên Chúa;
·
được
dùng để dịch nghĩa chữ musthrion tiếng Hylạp (từ thế
kỷ II sau Công nguyên)[51];
·
được
Tertullien dùng để gọi các nghi lễ dân ngoại
cũng như phép rửa và tiệc Thánh Thể của
ki-tô giáo, v́ ông cho rằng có sự giống nhau giữa
lời thề hứa của lính Roma với lời
thề của tín hữu khi lănh phép rửa; Ambrosio cũng
dùng chữ sacramentum để chỉ các nghi thức
rửa tội, thêm sức và thánh thể. Riêng thánh Augustin,
Ngài đă góp nhiều công trong việc sử dụng
từ sacramentum cũng như việc t́m hiểu và
đào sâu ư nghĩa của việc gọi này[52].
Bí tích của Công
Giáo,
·
theo Augustin,
là dấu chỉ của thực tại thánh[53];
·
theo Pierre
Lombard (chết khoảng 1160), là dấu hiệu của
ơn Chúa và là h́nh thái của ơn vô h́nh, đến
nỗi bí tích mang h́nh ảnh của ơn vô h́nh đó và
làm phát sinh chính ơn đó nữa. Vào cuối thế
kỷ XII này, các nhà tiền kinh viện đă nhận
biết hậu quả do sự (ex opere operato) của bí
tích[54];
·
theo Thomas,
là dấu chỉ của thực tại thánh theo mức
độ nó thánh hóa con người[55];
·
với công
đồng Trentô, là h́nh thức hữu h́nh của ân
sủng vô h́nh và có khả năng ban ơn cứu
rỗi[56];
·
theo cha Antôn
Drexel, là “hành vi biểu tượng có tính tôn giáo của
Chúa Kitô và Giáo Hội, nhờ được Chúa
Kitô thiết lập nên biểu thị ơn thánh hóa con
người và ban ơn đó một cách do sự, cho
những ai không cản trở”[57];
K. Rahner lấy lại tư tưởng của truyền
thống, cho rằng bí tích là những dấu chỉ
thánh của ân sủng Thiên Chúa- và hiểu theo
mạch văn ngài viết- là những biểu
tượng, phát sinh cái mà nó chỉ và chỉ cái nó phát
sinh[58].
Nét đặc
trưng của bí tích kitô giáo, theo đức tin Công Giáo,
là hậu quả do sự (ex opere operato). Sở dĩ bí
tích Công Giáo có kết quả ban ân sủng do sự,
bởi v́ Đức Yêsu Kitô đă thiết lập và
đă muốn như vậy. Ngài đă thiết lập
Giáo Hội như bí tích ban ân sủng cứu độ
cho con người, và đă thiết lập các dấu
chỉ- hoặc thiết lập chúng qua trung gian Giáo
Hội- để ban ân sủng cứu độ
trong Giáo Hội.
Bí tích, dấu
chỉ ban ân sủng cứu độ, sinh hậu quả
do sự khi được thực hiện theo ư
Đức Yêsu, cụ thể là theo ư Giáo Hội, ư
thừa tác viên đại diện Giáo Hội, và ư
muốn ngay lành của thụ nhân.
Đức Yêsu là
trung gian cứu độ duy nhất giữa Thiên Chúa và
con người, v́ “hẳn không có ơn cứu
độ nơi một người nào khác nữa.
V́ dưới gầm trời này, không có một danh nào
khác đă được ban xuống cho nhân loại
để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông
được ơn cứu thoát” (Cv.4, 12). Như
vậy, khi nói “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu
độ”, hoặc nói, “Giáo Hội là bí tích nguyên
thủy hay phổ quát”, chúng ta phải hiểu Giáo
Hội là phương tiện cứu độ, là bí tích
cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô.
Giáo Hội là bí
tích cứu độ v́ Đức Yêsu là bí tích
cứu độ, là bí tích nguồn, là nguyên nhân Thiên Chúa
ban ơn cứu độ cho con người, là nguyên
nhân qua đó và trong đó Thiên Chúa yêu thương con
người.
Khi chúng ta nói bí
tích là phương tiện cần thiết để
được công chính hóa hay được cứu
độ[59], chúng ta
hiểu đó là những phương tiện cần
thiết tùy thuộc chương tŕnh cứu độ
của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ
Đức Yêsu Kitô và do Đức Yêsu Kitô.
Khi chúng ta nói các bí
tích có hiệu quả do sự (ex opere operato), hay theo ngôn
từ của K. Rahner “các biểu tượng thực”,
nghĩa là bí tích sinh cái chúng chỉ và chỉ cái chúng phát
sinh ra[60],
chúng ta phải hiểu: các bí tích Công Giáo có
kết quả như vậy là do ư định của
Thiên Chúa nơi đức Yêsu Kitô. Ngài muốn các
dấu chỉ Ngài thiết lập sinh ơn thánh. Và như
vậy hàm chứa, các dấu chỉ này chỉ sinh ơn
thánh khi nó được cử hành theo ư Chúa Kitô,
thể hiện qua ư Giáo Hội, và cụ thể nữa là theo
ư thừa tác viên đại diện và nhân danh Giáo
Hội.
Chúng ta đă t́m
hiểu về ư định cứu độ hết
mọi người của Thiên Chúa trong Đức Yêsu
Kitô, đă t́m hiểu về con người trong
chiều kích được mời gọi tham dự
sự sống thần linh của Thiên Chúa, và chúng ta
đă thấy Thiên Chúa tạo dựng con người là
hồn và xác; và chính trong cơ cấu “tinh thần qua
thể xác” này mà Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ
con người. Đến đây chúng ta có thể kết
luận:
·
không ǵ
bắt buộc Thiên Chúa phải ban ân sủng cứu
độ con người qua các dấu chỉ khả
giác nếu ta nh́n vấn đề cách tiên thiên;
·
nhưng
thực tế Thiên Chúa đă tạo dựng con
người là hồn và xác; Ngài muốn con người
là con người trong cơ cấu “thể xác tinh
thần” này, nên Ngài đă dùng cơ cấu dấu
chỉ để biểu lộ t́nh yêu ân sủng của
Ngài đối với con người; Ngài cũng muốn
con người diễn tả thái độ sống
của con người đối với Ngài và đối
với nhau qua cơ cấu “thể xác tinh
thần”.
HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] L. LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈGE PONTIFICAL St. PIE X, ĐALAT 1974, pp. II/1-2
Xem thêm G. SIEWERTH, L'homme et son corps, PLON- PARIS 1957, p. 100
[2] Cf. P. BENOIT. Editorial của CONCILIUM 40 (1968), p. 7
[3] L. MONDEN, sj, Le miracle- signe de salut, DDB. 1960, p. 42
[4] Ibidem, p. 43
[5] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong Écrits théologiques, t. II, DDB. 1960, p. 129
[6] Ibidem, p. 130-131
[7] Ibidem, p. 131
[8] P. FOULQUIÉ, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF- PARIS 1962, p. 672-674.
[9] L. LEAHY, Philosophie de l'homme, DALAT 1974, p. II/6
A-M. ROGUET, Renseignements techniques,
trong Les Sacrements, DESCLÉE et CIE, PARIS 1945, p. 314:
“Le signe c'est la pure relation de signification, abstraction faite de la chose qui le soutend, c’est une pure mesure du substitut par le signifié”.
[10] Xem phần Liminaire của Symbole, p. 8 trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959)
[11] L. LEAHY, Philosophie de l'home, DALAT 1974, p. II/6.
[12] A. DREXEL, Bí tích đại cương, GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN-ĐALAT, không ngày, p. 16-17.
[13] L. LEAHY, Ibid.
[14] A- M. ROUGET, Renseignements techniques, trong St. THOMAS, S.T., III, q.60-65,
bản dịch Les sacrements, DESCLÉE ET CIE-PARIS 1945, p. 315
[15] Ibidem, p. 314: “Le signe, de même, si on le prend très rigoureusement, c'est l'extrême pointe du symbole, c'est le point par ó le symbole n'est que signe, abstraction faite de sa nature propre. Pris plus largement, le signe, c'est le symbole lui-même en tant qu'il exerce la fonction de signifier, qu'il est sujet de la relation de signification. Et le symbole, de son côté, n'est symbole que parce qu'il se termine en signe...
Le signe pris au sens précis de signification peut encore désigner soit une signification, proprement dite, soit un symbolisme...
La distinction entre signe et symbole que nous voudrions établir n'est pas une distinction totale.”
[16] Xem Liminaire của quyển Symbole, trang 7 trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959).
[17] ERNST CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962, pp. 32-36.
[18] Ibidem, p. 33.
[19] Xem phần Liminaire của Symbole, p. 8-9 trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959)
[20] Xem K. RAHER, Pour la théologie du symbole, trong ÉCRITS THÉOLLGIQUE, t. IX, DDB. 1968, p. 13
[21] Ibidem, p. 16
[22] Ibidem, p. 17
[23] Ibidem, pp. 18-19
[24] Ibidem, pp. 19-20
[25] Ibidem, p. 21
[26] Ibidem, p. 25
[27] J. DE FINANCE, Connaissance de l'être- Traité d'ontologie, DDB-PARIS 1966, pp. 405-406
[28] K. RAHNER, Pour la théologie du symbole,
trong ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t. IX, DDB. 1968, p. 39
Ghi chú 1: Même la réception du salut de la part de l'esprit libre de l'homme est un acte de tout l'homme, donc aussi corporel: il s'accomplit donc toujours aussi dans le symbole (acte qui est donc toujours aussi historique et social), donc encore “ecclésial”.
[29] AUGUSTINUS, Contra Julianum, 5, 11, 45 R. 1909 (Chữ bí tích ở đây được dùng là sacramentum, nó c̣n có nghĩa là dấu chỉ hoặc biểu tượng). Xem thêm A. DREXEL, Bí tích Đại cương, GHHV- DALAT, không ngày, p. 128
[30] ST. THOMAS, Summa Theologiae, III, q. 61, a.1: “Respondeo dicendum quod sacramenta sunt necessaria ad humanam salutem triplici ratione. Quarum prima sumenda est ex conditione humanae naturae, cujus proprium est ut per corporalia et sensibilia in spiritualia et intelligibilia deducatur. Pertinet autem ad divinam providentiam ut unicuique rei provideat secundum modum suae conditionis. Et ideo convenienter divina sapientia homini auxilia salutis confert sub quibusdam corporalibus et sensibilibus signis, quae sacramenta dicuntur.”
[31] ST. THOMAS, Summa theologiae, III, q.61, a. 3 et 4
[32] Ibidem, a. 2
Nếu chúng ta quan niệm bí tích (dấu chỉ, biểu tượng của ơn thánh vô h́nh) như cơ cấu con người đ̣i hỏi- con người là xác và hồn- th́ bí tích vẫn cần thiết để con người gặp gỡ Thiên Chúa.
[33] Những người sống trong các tôn giáo ngoài ki-tô tin rằng: Thiên Chúa, Đấng Tối Cao đă mặc khải cho họ, và họ cũng dùng những nghi thức tôn giáo để diễn tả tâm t́nh, thái độ sống với Thiên Chúa mà họ tin thờ.
[34] Yavê Thiên Chúa đă hiện ra cho Hagar dưới dạng “thiên thần”. Thiên thần được dùng trong Kinh Thánh Cựu ước, khi th́ để chỉ người được Thiên Chúa sai đến với con người (Kn.16, 7), khi th́ chỉ chính Thiên Chúa (Kn.16,13; 22,15). Xem thêm ghi chú nơi Kn.16,7 trong bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn.
[35] Ư kiến của Augustin (R.1646,1875), Gregôriô Cả (R.2306), Thomas (ST.,III, q.37, a.1 ad 1), Innocente (DS.780), Frirenze (DS.1310.1347), Trentô (DS.1602).
[36] Ep. “Lectis dilectionis tuae” ad Flavianum epis. Constantinopolitanum, sive “Tomus (I) Leonis”, 13 Jun. 449
DS.293/143/
[37] OTTO SEMMELROTH, art. “Mediatorship”,
trong SACRAMENTUM MUNDI-BURNS&OATES 1969
[38] Xem K. RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong ET., t. IX, DDB.1968, pp. 27tt.
[39] Khi Ngôi Lời nhập thể, các thiên thần hiểu hơn về Thiên Chúa. Mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể đă được dấu kín từ đời đời, chỉ được tỏ ra vào thời điểm của nó. Cf. Eph.1, 3tt.
[40] Nhập thể theo kitô giáo không là một hóa thân (avatar) trong Ấn giáo.
[41] Điều này vẫn đúng trước khi Chúa Yêsu được sinh ra v́ biến cố Yêsu Kitô đă là nguyên nhân cứu cánh trong việc tạo dựng của Thiên Chúa.
[42] W.BULST, “Israel als signum levatum in Nationes...” trong Zeitschrift fuer Katholische Theologie 74 (1952), pp. 167-204
[43] Đức Yêsu thiết lập Giáo Hội: Ngài đă chọn và gọi nhóm mười hai (Mc 3, 13tt; 6,7tt), cho nhóm 12 ngồi trên ṭa xét xử 12 chi tộc Israel (Mt.19, 28), trao quyền ch́a khóa cho các tông đồ và đặc biệt cho Phêrô (Yn.20, 22-23; Mt.16, 16tt).
Giáo Hội là dấu chỉ của Đức Kitô: xem K. RAHNER, Eglise et sacrements, QUESTTIONES DISPUTATAE 10- DDB.1970, p. 24tt.
[44] K. RAHNER, op. cit, p. 25
[45] K. RAHNER, Eglise et sacrements, QUESTIONES DISPUTATAE 10- DDB 1970, p. 24
[46] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle,
trong ET., t.II, DDB. 1960, p. 133
[47] Xem A. DREXEL, Bí Tích Đại Cương, GHHV-DALAT không ngày, p. 14
[48] A. DREXEL, op. cit., p. 10
[49] Ibidem, p. 10-11
[50] Ibidem, p. 11
[51] Ibidem, pp. 11-12
[52] A. DREXEL, Bí Tích Đại Cương, GHHV-DALAT không ngày, pp. 12-13
[53] AUG, Epist., 138, 1 PL.33, 527: Sacramentum est sacrae rei signum.
Từ Augustin đến thế kỷ XII đều cho rằng: bí tích là h́nh thức hữu h́nh của ơn thánh vô h́nh. Xem A. DREXEL, op. cit, p. 13
[54] PIERRE LOMBARD, IV Sent., d.1, n.2
Cf. A. DREXEL, op. cit, pp. 13-14
[55] A. ADREXEL. op. cit, p. 14
[56] LEONARDO BOFF, art. “Le sacrement de mariage”,
trong CONCILIUM 87 (1973), trang 23: “Le sacrement est la forme visible de la grâce invisible, et capable d'opérer le salut (Trento, DS.1639)”.
Sách Giáo Lư công đồng Trentô, phần 2, chương 1, số 11: “ Bí tích là một sự khả giác nhờ được Thiên Chúa thiết lập mà có khả năng biểu thị và sinh ra sự thánh thiện và sự công chính”. Xem A. DREXEL, op. cit, p. 20.
[57] A. DREXEL, op. cit, pp. 20-21.
[58] Xem K. RAHNER, Pour la théologie du symbole,
trong ET., t.IX, DDB. 1968, pp. 34-35. “Sacramenta efficiunt quod significant et significant quod efficiunt.
[59] DS. 1604. 1864. 2536
[60] Xem K. RAHNER, Pour la théologie du symbole,
trong ET., t.IX, DDB. 1968, pp. 34-35. “Sacramenta efficiunt quod significant et significant quod efficiunt.