HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
D. ÂN SỦNG QUA BIỂU TƯỢNG NGOÀI KITÔ
GIÁO
Biểu
tượng diễn tả kinh nghiệm tôn giáo
Biểu
tượng được hiểu trong nền văn hóa
Lập
trường tích cực dựa vào lịch sử cứu
độ
iii).
Lập trường tích cực từ nhăn quan mặc
khải
Chúng ta đă cùng
nhau lược qua lịch sử thần học và xác tín,
Thiên Chúa vui ḷng ban ân sủng cứu độ cho những
người sống ngoài kitô giáo, nghĩa là cho những
người hiện nay sống trong các tôn giáo ngoài kitô, và
ngay cả những người không biết hoặc từ
chối Đức Yêsu và Thiên Chúa mà không phải lỗi
tại họ.
Chúng ta cũng đă t́m hiểu và nhận thấy Thiên
Chúa ban ân sủng cứu độ cho con người
hợp với cơ cấu “hồn-xác” của con
người, nghĩa là qua dấu chỉ hoặc
biểu tượng.
Chúng ta cũng đă t́m hiểu và khẳng
định: dù là bất cứ ai nếu
được cứu độ, đều
được cứu độ nhờ Đức Kitô và
Giáo Hội của Người.
Bây giờ chúng ta
sẽ xét đặc biệt tới những người
đang sống trong các tôn giáo không phải kitô giáo,
cụ thể những người không tin Đức
Yêsu nhưng không phải do lỗi lầm của họ.
Vấn đề đặt ra: các nghi lễ, dấu
chỉ và biểu tượng nơi các tôn giáo họ
đang sống trong đó, có là những phương
tiện Thiên Chúa dùng để ban ân sủng cứu
độ cho họ không?
Trong mục này
chúng ta sẽ xem xét để có lập trường về
các tôn giáo ngoài kitô, sau đó t́m hiểu hơn về
biểu tượng thực tại vô h́nh, và cuối cùng
sẽ đưa ra kết luận về các dấu chỉ
hoặc biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô.
Tôn giáo là một
định chế đặc biệt có mục đích
thờ phượng tôn kính Thiên Chúa như Ngài đáng
được. Tôn giáo là một tổ chức xă
hội với những phẩm trật, lề luật và
truyền thống, có những tín điều mà các tín
hữu phải tin và tuyên xưng, cũng như có
những nghi thức biểu lộ tâm t́nh thờ kính, tùng
phục yêu mến đối với Thiên Chúa ngơ hầu
tín hữu được cứu độ[1].
Tôn giáo cũng
được coi như một kinh nghiệm về
Đấng không bị điều kiện hóa, nhưng
kinh nghiệm này được nhận qua một hệ thống
biểu tượng thuộc về một nền văn
hóa[2].
Nói đơn sơ hơn, tôn giáo là kinh nghiệm
đối với Tuyệt Đối; kinh nghiệm này có
nhờ Tuyệt Đối diễn tả ḿnh qua nền
văn hóa của người nhận; và người có
kinh nghiệm với Tuyệt Đối cũng
diễn tả tâm t́nh thái độ của ḿnh
đối với Tuyệt Đối qua nền văn
hóa của ḿnh.
Có thể nói
lịch sử các tôn giáo được cấu thành bởi
những cuộc thần hiển, nghĩa là bởi
những cuộc tỏ lộ của thực tại
thần linh. Thực tại thần linh đây là cái ǵ
hoàn toàn khác, một thực tại không thuộc về
thế giới của chúng ta.
Vật thần
hiển rất là đa phức, có thể là cục đá,
cái cây, hoặc các tinh tú như mặt trời, mặt
trăng hoặc ngôi sao, hoặc một ḍng nước,
và cũng có thể là con vật, hoặc ngay cả
một người[3].
Kinh nghiệm
với Cái-Hoàn-Toàn-Khác qua những cuộc thần hiển,
hoặc với Tuyệt Đối qua những lần
“mặc khải”, không thuộc hoàn toàn do ḿnh, nghĩa
là, không phải ḿnh muốn là được. Hơn
nữa, Cái-Hoàn-Toàn-Khác hoặc Tuyệt Đối
được cảm nghiệm, là cái ǵ khôn ḍ, không thể
diễn tả nổi và không thể diễn tả hết
bằng ngôn ngữ. Những người có kinh
nghiệm với Đấng Hoàn Toàn Khác cố gắng
diễn tả Thực Tại này qua những h́nh
ảnh, dấu chỉ khả giác, nghĩa là qua các
biểu tượng.
Nói đến cách
diễn tả của con người qua biểu
tượng, qua h́nh ảnh, ta phải nghĩ ngay
đến “nền văn hóa” con người sống trong
đó, v́ con người khi diễn tả, phải
diễn tả bằng nền văn hóa ḿnh sống
với những h́nh ảnh, ngôn từ, biểu
tượng. Như vậy để hiểu
được phần nào Đấng Hoàn Toàn Khác qua kinh
nghiệm thần hiển, được diễn
tả bằng ngôn ngữ biểu tượng
hoặc thần thoại xét như một văn
loại diễn tả kinh nghiệm với Thực
Tại Hoàn Toàn Khác, chúng ta phải t́m hiểu kinh nghiệm
này qua các biểu tượng trong nền văn hóa h́nh thành các biểu
tượng.
Nếu chúng ta nh́n
tôn giáo là kinh nghiệm
với Đấng Hoàn Toàn Khác được diễn
tả qua những biểu
tượng và thái
độ tâm t́nh đối với Đấng Hoàn
Toàn Khác được diễn tả qua các nghi thức hợp với nền văn hóa
của những người có kinh nghiệm này, th́ việc
t́m hiểu ư nghĩa các biểu tượng thật
cần thiết để hiểu kinh nghiệm của
các tôn giáo!
Lịch sử
thần học cho thấy có nhiều tác giả chủ
trương các tôn giáo ngoài kitô không là phương
tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con
người, nhưng trái lại là công tŕnh của con
người, và c̣n tệ hơn là công tŕnh của ma
quỷ.
Một số
họ dựa vào các đoạn Kinh Thánh sau để nói
rằng các tác giả linh ứng có câu trả lời
tiêu cực về giá trị cứu độ của các
tôn giáo ngoại: 1V.11, 1-13; Jer.2, 26-29; 10, 1-16; Bar.6, 7-72; Ys.40,
18-20; 44, 9-20; 46, 6tt; Tv.105; 113, 10-16; Kng.13, 1-14.20; 15, 6-19;
1Mac.1, 41-64; 2Mac.4, 1-11[5].
Đầu tiên
chúng ta phải nhận rằng vấn đề các tôn giáo
ngoài kitô không là một vấn đề được
các tác giả linh ứng nhắm bàn cách trực tiếp; hơn
nữa, để xem thực sự tác giả Kinh Thánh có
muốn khẳng định rằng các tôn giáo ngoài kitô
không có giá trị cứu độ hay không, chúng ta
phải hỏi những chuyên gia về khoa chú giải Kinh
Thánh.
Riêng về
1V.11-13, bản văn nói về việc Salomon mê con gái
các dân ngoại và để ḷng mê theo các thần
ngoại lai, chính v́ lư do đó mà Thiên Chúa đă chia
cắt xứ sở ra làm hai. Bản văn này coi
các thần dân ngoại thờ kính đối nghịch
với Yavê Thiên Chúa của Israel, chẳng hạn thần
sản lực Astartê-Astoret của dân Canaan, thần Milkom-Molek
của dân Ammon. Ngày nay người ta không ngây thơ
đồng hóa đức Phật với đức Yêsu,
nhưng Đấng Tuyệt Đối chỉ là một dù
được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Như
vậy, Đấng Tuyệt Đối của đạo
Cao Đài và Đức Allah của đạo Hồi...
cũng là Chúa tể vạn vật, như Yavê của dân Do
thái và Thiên Chúa của kitô hữu.
C̣n bản văn
Jer.2, 26-29; 10, 1-16 châm biếm các ngẫu tượng
của dân ngoại bằng gỗ bằng bạc
bằng vàng. Chúng ta hiểu được điều
này dễ dàng v́ đây chính là điều Yavê Thiên Chúa
cấm dân Israel không được làm h́nh tượng
Yavê (Xh.20,4), và khi con dân Israel làm ḅ vàng để thờ
rồi cho đó là Đấng đă dẫn họ ra
khỏi Aicập th́ YHWH đă nổi giận dân (Xh.32).
Ngày nay chẳng ai trong các tôn giáo ngoài kitô thờ kính khúc
gỗ, ngẫu tượng do người phàm làm ra;
nếu họ cúi ḿnh trước những ảnh
tượng th́ không phải những ảnh
tượng là đối tượng tôn thờ,
nhưng đối tượng tôn thờ là cái ǵ siêu
vượt trên cái đó. Tương tự như
vậy, người Công giáo cũng không tôn thờ
ảnh tượng, nhưng ảnh tượng là
biểu tượng của thực tại siêu
vượt.
Một số tác
giả dựa vào thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma
để kết án các tôn giáo ngoài kitô. “Quả vậy,
từ trời sự thịnh nộ của Thiên Chúa
được mặc khải ra trên mọi sự vô
đạo và bất chính của những kẻ lấy
bất chính hăm cầm sự thật. V́ chưng lộ
hiện rồi nơi họ những ǵ biết
được về Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa đă bày
tỏ cho họ. V́ từ buổi tạo thành vũ
trụ, những ǵ nơi Người, mắt xác
thịt không thể thấy th́ trí khôn nh́n ngắm
được nơi công việc Người làm:
quyền năng hằng có và thần tính của Người,
khiến họ vô phương chữa ḿnh. V́ rằng
họ đă biết Thiên Chúa, họ lại đă
không tôn vinh Người như Thiên Chúa, hay không tạ
ơn Người, nhưng họ đă ra hư
luống trong các suy tưởng của họ, và ḷng ngu
muội của họ đă ra tối tăm. Trong khi
họ huênh hoang ḿnh khôn ngoan, th́ họ đă ra điên
rồ. Và họ đă tráo đổi vinh quang Thiên Chúa
bất hoại với loài người hư nát, và bao
cầm thú, cùng rắn rít (Rm.1, 18-23)”. Ở đây thánh
Phaolô bàn về tội lỗi của con người, đă
không theo đường lối của Thiên Chúa nhưng
bẻ quặt đường lối của Ngài theo
kiểu của ḿnh; cũng tương tự, tác
giả sách Khởi nguyên (Kn.3, 1tt) cho rằng tội của
Adam là muốn trở nên thần linh bằng sức riêng
của ḿnh, độc lập với Thiên chúa; nhưng
vấn đề hệ tại t́m hiểu xem các tôn giáo
ngoài kitô là công tŕnh của Thiên Chúa hay của con
người, nếu các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của
con người th́ vấn đề đă
được giải quyết; cụ thể cho
đến giờ chúng ta không chứng minh được
như vậy.
Lịch sử cho
thấy, nhiều tôn giáo xuất hiện trước Do thái
giáo và Kitô giáo, và các kitô hữu cũng đă sống
chung đụng với những tín hữu của các tôn giáo
này; thời đầu tiên trong Cựu Ước và Tân
Ước các tác giả không bàn trực tiếp về
các tôn giáo ngoài kitô, nếu có dịp th́ các tác giả
chỉ nhắc qua thôi; thời các giáo phụ cũng
vậy; việc nghiên cứu về các tôn giáo ngoài kitô
chỉ xuất hiện trong những thế
kỷ gần đây[6].
Dù các giáo phụ
không đặt câu hỏi về các tôn giáo như chúng
ta đang đặt hôm nay, nhưng đôi khi các ngài
cũng bàn về khía cạnh chân lư trong các tôn giáo ngoài
kitô. H. Kraemer đă tóm tắt lập trường
của các giáo phụ như sau:
·
Lập
trường thứ nhất cho rằng các điều hay
và tốt nơi các tôn giáo là do công tŕnh của logos
spermatikos.
·
Lập
truờng thứ hai chủ trương rằng những ǵ
tốt đẹp và chân thật nơi các tôn giáo khác là
do các tôn giáo ấy lấy những ǵ tốt đẹp
và chân thật nơi Do Thái giáo hoặc Kitô giáo.
·
Lập
truờng thứ ba cho rằng những ǵ được
coi là chân thiện mỹ nơi các tôn giáo khác chỉ có
vẻ là chân thiện mỹ thôi, chứ thực ra
đó là công tŕnh của ma quỷ, v́ không có chân thiện
mỹ nơi các tôn giáo ngoài kitô[7].
Trong thời
sơ khai của Hội thánh, có kẻ khi tiếp xúc
với các tôn giáo ngoại đă có khuynh hướng “hoá
đồng tôn giáo”, họ cho rằng Zarathoustra,
đức Phật và đức Kitô chỉ là một
thực tại. Hội Thánh Byzantine đă kết án
những người chủ trương như vậy:
“coi là ngoại đạo những ai nói rằng
Zarathoustra, Phật, Kitô, Mani và Mặt Trời là một
và cùng là một sự. Coi là ngoại đạo những ai
nhận thuyết luân hồi, nghĩa là sự
chuyển di linh hồn của một thân xác này vào
một thân xác khác”[8].
Giáo phụ Tatien
sinh khoảng năm 120 tại Assyrie, là môn đệ
thánh Justin ở Roma, được huấn luyện
về văn chương và triết lư tại
đó. Tatien không bàn về tôn giáo nhưng qua thái
độ của ông đối với triết gia, ta
thấy ông rất nghiêm khắc; ông kết án các triết
gia, cho rằng họ đă rơi vào mọi loại
tật xấu, sai lầm và mâu thuẫn.
Théophile d' Antioche
cũng vậy, Ngài bài bác các triết gia bằng cách
chưng ra những sai lầm và nghịch lư của họ[9].
Thái độ
của các ngài chúng ta cũng có thể hiểu
được nếu chúng ta đặt ḿnh vào bầu
khí hộ giáo lúc đó: các triết gia ngoại giáo
đang châm biếm và đả phá Kitô giáo; v́ thế các Ngài
bênh vực đạo giáo và cho thấy những sai
lầm của họ đứng từ lập
trường của ḿnh. Sở dĩ chúng ta đưa
hai ngài vào lập trường những người
có câu trả lời tiêu cực cho vấn đề
thần học các tôn giáo, v́ nếu thái độ
của các ngài đối với các triết gia c̣n vậy,
huống hồ là đối với các tôn giáo ngoài kitô.
Thánh Augustin,
thần học gia lỗi lạc vào bậc nhất của
Hội Thánh, sinh khoảng năm 354 ở Numide tại
Tagaste, cho rằng các triết lư có những giá trị đích
thực, nhưng nó có được như vậy là do
nó chiếm đoạt cách bất chính những giá trị
đích thực của Kitô giáo. Dựa vào quan niệm
này của Augustin, nhiều người cho rằng
những tôn giáo ngoài kitô cũng có những giá trị tôn giáo
đích thực, nhưng giá trị đó là do các tôn giáo
ngoài kitô chiếm đoạt cách bất chính nơi
Hội Thánh kitô giáo[10].
Để nhận định lời nói trên của Augustin
cách đúng đắn, chúng ta phải nhớ rằng
ngài đă có thời gian khá dài sống theo hết các
triết lư này đến triết lư khác và cuối cùng
Ngài mới trở lại tin đức Kitô, ngài chỉ
được rửa tội năm 387, nghĩa là 33
năm sống trong lầm lạc.
Đối
với Fulgence de Ruspe, các tôn giáo ngoài kitô không có giá
trị cứu độ, và thậm chí những
người sống ngoài Giáo Hội Công Giáo đều
phải sa hỏa ngục: “Không có ǵ phải nghi
ngờ rằng không chỉ những lương dân mà
tất cả những người Do Thái,
tất cả những người lạc giáo và ly giáo,
những người chết ngoài Giáo Hội Công Giáo,
sẽ sa vào lửa đời đời đă
được sắm sẵn cho ma quỷ và các
thần của nó”[11].
Đọc các lời này của Fulgence de Ruspe, chúng ta
nhớ đến câu châm ngôn thần học “extra ecclesiam
nulla salus”. Câu châm ngôn này đă được Giáo Hội
chính thức giải thích như chúng ta đă thấy
ở trên.
Thánh Thomas, một
thần học gia vĩ đại của Giáo Hội Công
Giáo sinh năm 1225 tại Roccasecca, đă đặt
vấn đề về nghi lễ của dân ngoại.
Theo thánh nhân, các nghi lễ của dân ngoại không có sự
thật cũng không có lợi ích chút nào, nhưng
để có một ích lợi lớn hơn th́ có
thể dung thứ các nghi lễ của dân ngoại với
mức độ[12].
Một số
người dựa vào nguyên tắc của thánh Thomas “bonum
ex integra causa, malum ex quocumque defectu” để kết
luận rằng: mọi tôn giáo ngoài kitô tự bản
chất là xấu, nghĩa là nó không nằm trong
chương tŕnh của Thiên Chúa, và do đó không là
phương tiện Thiên Chúa dùng cứu độ con
người[13].
Luther và những
người thuộc phe cải cách chủ trương
tất cả các tôn giáo kể
cả Công giáo, đều xấu v́ đó là nỗ
lực của sức con người nhằm
đặt đến sự cứu độ[14].
Luther đă theo nguyên tắc: chỉ do sức con
người th́ không thể đạt tới sự
cứu độ. Adam và Evà xưa cũng muốn
trở thành thần minh độc lập với Thiên
Chúa, và như thế hai ông bà đă phạm tội.
Nếu tôn giáo chỉ là nỗ
lực của con người để đạt
tới sự cứu độ, th́ tôn giáo không là
phương tiện cứu độ, mà hơn nữa
đó c̣n là một tội. Điều cần lưu ư:
những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô vẫn
chờ mong sự cứu độ như cái ǵ ngoài ḿnh.
Vào thế kỷ
XIX, theo Gustave Thils, một số tác giả coi tôn giáo
ngoại là các tôn giáo tôn thờ ngẫu tượng,
chẳng hạn như:
P. Aubry: “Văn minh Trung hoa dưới mọi quan
điểm, gần như là một sự dị hợm,
không chỉ phản kitô giáo nhưng c̣n phản nhân bản
nữa. Tôn giáo của người Trung Hoa thật kỳ
quặc, phi lư, lố bịch nhất thế giới... Các
tu sĩ là giai cấp đê tiện, bị khinh bỉ, vô
tri, hư thối! Các nghệ thuật không được
biết, nó không hiện hữu. Trong các chùa và các lâu đài, có
vài h́nh tượng được vẽ hay điêu
khắc về ma quỷ và các con vật kinh khủng,
kỳ quái”[15];
J. Witte cũng coi tôn giáo ngoài kitô là sai lầm, tội
lỗi và hư vong[16];
Một số nhà truyền giáo cũng có cái nh́n tiêu
cực về các tôn giáo ngoại. Những người này
đi rao giảng và thường gặp sức phản
kháng chống tin mừng đức Yêsu Kitô từ các tôn
giáo. Nói cách khác, các tôn giáo ngoại ngăn cản
người ta tiếp nhận và đến với
Đức Yêsu Kitô[17].
Ở thế
kỷ XX này, một số anh em Tin lành như Karl Barth và H.
Kraemer lấy lại quan điểm về các tôn giáo
của Luther:
“Tất cả các tôn giáo xuất hiện như
một toan tính tự công chính hóa và tự cứu rỗi
của con người. Nói cách khác, tôn giáo là những nỗ
lực của con người nhằm xác định ḿnh
trước Thiên Chúa và nhằm từ chối hay cho
thấy ḿnh không thể nhận ân sủng của Thiên Chúa
là Đấng ban sự công chính cho kẻ vô đạo.
Mặc khải lột mặt nạ tất cả các tôn
giáo, vạch cho thấy sự không cần thiết của
mọi tôn giáo, nghĩa là sự bất lực bẩm sinh
của con người nhằm đẻ ra chân lư, nỗi
bất lực này sự phát triển tôn giáo của con
người xác chuẩn... Như vậy, mọi tôn giáo
đều là h́nh thức thờ ngẫu tượng hay
nỗ lực tự công chính hóa nhờ việc làm, là sự
kiêu ngạo... Những điều này là những cây mọc
trên đất kitô giáo...”[18].
Sau đây chúng ta
tóm lại những luận chứng cho rằng các tôn giáo
ngoài kitô không là phương tiện Thiên Chúa dùng để
cứu độ con người sống trong các tôn giáo
đó:
·
Các tôn giáo
ngoài kitô ngăn cản người ta tiếp nhận và
đến với Đức Yêsu Kitô. Quan niệm này
thường đến từ những nhà truyền giáo.
Hiện tượng tiêu biểu là đạo Hồi[19].
·
Tôn giáo ngoài
kitô hoàn toàn là công tŕnh của con người muốn tự
ḿnh công chính hóa, nghĩa là con người muốn
độc lập với Thiên Chúa[20].
·
Giáo lư sai
lầm không thể dung hợp với giáo lư kitô giáo,
chẳng hạn thuyết luân hồi... Những việc làm
“vô luân” nếu nh́n dưới nhăn quan kitô giáo, chẳng
hạn việc giao cấu với nữ tế trong các tôn
giáo Hylạp, hoặc việc dâng người để
tế thần.
Trên đây chúng ta
đă xét những luận chứng nhằm khẳng
định các tôn giáo ngoài kitô không có giá trị cứu
độ; nhưng nếu chấp nhận kết luận
này chúng ta thấy vẫn c̣n những dữ kiện khó
giải thích, chẳng hạn có những nhà thần bí
nơi các tôn giáo ngoài kitô[21],
cũng như những điểm tương đồng
về giáo lư của những tôn giáo ngoài kitô với Kitô giáo,
chẳng hạn niềm tin vào Đấng Tuyệt
Đối, khẳng định con người cần
được cứu độ, dạy con người
phải làm lành lánh dữ... Chính những điểm này
đă làm phát sinh quan điểm tích cực về các tôn giáo
ngoài kitô trong ḍng lịch sử thần học.
Tương
tự như những người chủ trương “tiêu
cực” về các tôn giáo ngoài kitô đă làm, những
người chủ trương lập trường “tích
cực” cũng nại vào Kinh Thánh để biện minh cho
lập trường của ḿnh.
Kinh Thánh ngay
khởi đầu cho thấy Cain và Abel đă dâng lên Thiên
Chúa những lễ vật là hoa trái của cây cối và thú
vật (Kn.4, 3-4). Các tôn giáo cũng có những nghi lễ
để biểu lộ tâm t́nh thái độ của con
người đối với Thiên Chúa.
Khi Thiên Chúa đă
cứu Noe và gia đ́nh ông thoát khỏi bị tiêu diệt
trong lụt hồng thủy, Ngài nói: “Phần Ta, này Ta
lập giao ước của Ta với các ngươi và
ḍng giống các ngươi đến sau các
ngươi, cùng với mọi sinh mạng sống với
các ngươi, với chim chóc, thú vật, dă thú với
các ngươi, tóm lại mọi vật đă từ
tàu đi ra, mọi sinh vật trên đất. Ta lập giao
ước của Ta với các ngươi: mọi loài
có xác sẽ không c̣n bị nước hồng
thủy tiểu trừ. Sẽ không c̣n có hồng
thủy đến hủy diệt cơi đất. Và Thiên
Chúa phán: Này là dấu giao ước Ta đặt giữa Ta
với các ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở
với các ngươi, đời đời măi măi.”
(Kn.9, 8-12).
Như vậy chúng ta thấy giao ước Thiên Chúa
kư với Noe ở đây là giao ước chung cho
tất cả mọi người, mọi sinh vật
trên đất chứ không chỉ với con cái Israel như
ta thấy những giao ước tiếp sau
được nói từ chương thứ 12 sách Khởi
Nguyên trở đi. Giao ước của Thiên Chúa cho Noe
hàm chứa: ơn cứu độ được ban
cho con người ở ngay trong t́nh trạng này,
nghĩa là trước khi có giao ước với
Abraham và ḍng giống ông. Như vậy trước
khi có Do Thái giáo và Kitô giáo, con người đă
được cứu độ nhờ tôn giáo của
họ, nghĩa là nhờ ḷng tin của họ vào Thiên Chúa và
những hành vi phượng tự họ dâng lên Thiên
Chúa!
Thánh Phaolô trên
đường rao giảng, Ngài tới Athêna và thấy có
một tượng thần người ta thờ kính
với danh hiệu “thần vô danh”; dựa vào đó,
Phao-lô đă nói: “Kính thưa quư vị người Athêna, xét
về mọi mặt tôi nhận thấy các ngài rất
sùng tín. V́ ngang qua, tôi ngước mắt nh́n về các
đồ thờ của các ngài, tôi đă gặp cả
một tế đàn trên đó có khắc: KÍNH THẦN VÔ
DANH. Vậy Đấng các ngài không biết nhưng có
kính thờ, th́ này tôi xin loan báo về Người cho
các ngài. Thiên Chúa tạo thành vũ trụ... Người
đă định thời tiết phân minh và cương
giới nơi chốn họ ở, ngơ hầu họ t́m
kiếm Thiên Chúa và họa may rờ rẫm sao mà gặp
được Người. Và quả thực Người
không xa mỗi chúng ta” (Cv.17, 22-24, 26-27).
Ở đây, chúng ta thấy thánh Phao-lô đề
cập tới việc thờ tự của một dân thành
có nghi lễ riêng, đến các tôn giáo. Ngài không kết
án các tôn giáo nhưng muốn dùng chính tôn giáo để
dẫn đưa họ đến với Thiên Chúa đích
thực. Ngài cũng nêu lên những sai lầm của
họ nếu họ nghĩ rằng thần linh
lại giống như vàng, như bạc, như đá,
do nghệ thuật và suy tưởng con người
taọ ra (Cv.17, 29).
Chúng ta sơ
lược qua một vài giáo phụ có cái nh́n thuận
lợi cho các tôn giáo ngoài kitô. Chúng ta chỉ xét thánh Irénée
và thánh Clément ở Alexandria.
Irénée, giám mục
ở Lyon gốc Tiểu Á sinh khoảng 140-202, là
môn đệ của Polycarpe (†155), trong tác phẩm “chống
lạc giáo”, đă viết: “Hăy đến hỡi những
kẻ Cha Ta chúc phúc... Chỉ có một và duy chỉ có
một Thiên Chúa là Cha, và Lời Ngài, Đấng giúp
tất cả theo nhiều đường (variis quidem
dispositionibus), Đấng hoạt động nhiều,
và là Đấng cứu những người
được cứu ngay từ đầu, những
người yêu mến Thiên Chúa và sống Lời Thiên Chúa
theo cách thức của họ”[23].
Phải chăng chúng ta có thể hiểu từ
ngữ “nhiều đường” ở đây như
những đạo, những tôn giáo khác nhau?
Giáo phụ Clément
ở Alexandria sống trong khoảng năm 150-215
đă viết trong những hàng đầu quyển
Stromates: “Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi sự lành,
của những sự lành này th́ Ngài là nguyên lư như
Cựu Ước và Tân Ước, của những sự
lành khác như triết lư, th́ Ngài như hậu quả.
Chính Ngài đă ban triết lư cho người Hylạp
trước khi những người này được
gọi. Thực vậy, triết lư dạy những
người Hylạp như cách thức một thầy
giáo, như Lề luật đă dạy dân Do thái,
hướng về Đức Kitô...
Kinh Thánh nêu lên nhiều đường cứu
độ không chỉ cho một người nhưng
cho nhiều người công chính theo, như đă viết:
đường người công chính sáng ngời như
ánh sáng. Như vậy có những giới răn, những
huấn thị (propédeutiques), những đường
và những phương lược cứu độ
đi trước”[24].
Chỗ khác Ngài
viết: “Thiên Chúa chăm sóc tất cả hoàn vũ v́ Ngài
là Chúa của hoàn vũ. Ngài là cứu chúa, không phải
là cứu chúa của người này mà không là cứu
chúa của người khác. Nhưng Ngài đổ tràn
hồng ân của Ngài theo khả năng của từng
người, trên người Hylạp và người
mọi rợ, và cũng như trên người
được gọi vào giờ đă định”[25].
Chỗ khác
nữa Ngài viết: “Thiên Chúa đă ban cho chúng ta một giao
ước mới. Bởi v́ giao ước liên quan
đến người Do Thái và Hylạp đă là giao
ước cũ. Theo ư kiến tôi, thánh Phao-lô đă
dạy rơ ràng rằng: cùng một Thiên Chúa và duy một
Thiên Chúa đă được biết, bởi người
Hylạp theo cách người ngoại, bởi
người Do Thái theo cách Do Thái giáo, nhưng bởi
chúng ta cách thiêng liêng...
Thiên Chúa đă ban cho chúng ta hai giao ước, nhưng
đồng thời cho người Hylạp triết lư
hylạp, trong đó Ngài được tôn vinh bởi
người Hylạp...
Bởi v́ cũng như Thiên Chúa muốn cứu
những người Do Thái bằng cách ban cho họ các
tiên tri, th́ cũng vậy Ngài đă chọn những
người thanh cao nhất giữa những người
Hylạp, và đă đặt họ như các tiên tri
trong ngôn ngữ của họ với mức độ
nhờ đó họ có thể nhận biết ḷng nhân
từ của Thiên Chúa”[26].
Như vậy
chúng ta thấy: thánh Clément thành Alexandria đặt sóng
đôi song đối giữa Do Thái giáo và triết lư
Hylạp; dân Do Thái được cứu độ
với các tiên tri, th́ người Hylạp cũng
được cứu độ với triết lư. Dân
Do Thái nhận ra ḷng nhân từ của Thiên Chúa qua giao
ước và lề luật, th́ người Hylạp
cũng nhận ra ḷng nhân từ của Thiên Chúa qua
sự khôn ngoan triết lư mà Thiên Chúa ban cho họ; nói
cách khác, triết lư cũng là phương lược cứu
độ cho người Hylạp. Nếu Clément
d'Alexandrie đă đặt song đối giữa triết
lư và Do Thái giáo, thiết tưởng chúng ta cũng có
thể đặt song đối giữa các tôn giáo ngoài
kitô và Do Thái giáo, v́ tôn giáo ngoài kitô cũng là cách cho
người ngoại tôn vinh Thiên Chúa theo cách của
họ.
Ở thời
trung cổ, chúng ta sẽ xét hai vị khá nổi tiếng,
đặc biệt khi các ngài bàn về hoặc nói
về tôn giáo ngoài kitô, đó là thánh Bernard và Hồng y
Nicolas de Cusa.
Thánh Bernard
(1090-1153) sinh tại Fontaines les Dijon (Côté d'Or); ngài
thiết lập nhiều tu viện.
Khi bàn về phép
rửa tội, ngài viết: “Ai mà không biết thuở
xưa, có một phương thuốc khác phép rửa
để chống lại tội nguyên tổ.
Đối với Abraham, và ḍng giống ông, có mầu
nhiệm cắt b́ ban kết qủa này cách thần linh.
Đối với các dân, chúng tôi cho rằng những
người sống trong tín ngưỡng đă
được tha thứ, người lớn bởi
đức tin và các hy lễ, trẻ con th́ bởi
đức tin của cha mẹ”[27].
Với
đoạn văn trên, chúng ta có thể nói thánh Bernard phân
những người được cứu khỏi
tội nguyên tổ làm ba loại: loại thứ
nhất là những kitô hữu nhờ phép
rửa, loại thứ hai là dân Do thái với phép
cắt b́, và loại thứ ba là những người
sống trong các tôn giáo khác nhờ đức tin và hy
lễ của họ. Ở đây chúng ta dám nói tới các
tôn giáo ngoài kitô v́ thánh nhân có nhắc đến
đức tin và hy lễ. Ngoài Do thái giáo, đă có những
người như Abel, Hênoc, Noê, Melkisêđêc,... Balaam,
dâng hy lễ lên Thiên Chúa.
Nicolas de Cusa sinh
năm 1401, được phong hồng y năm 1448, và
mất năm 1464. Ngài là thần học gia có cái nh́n rất
tích cực về các tôn giáo ngoài kitô.
Ngài cho rằng:
“Thiên Chúa đă nói với mọi dân tộc qua những ngôn
sứ. Chính các tiến sĩ, tiên tri này dạy cho
mỗi tôn giáo học thuyết và nghi lễ của
họ. Những sự khác biệt này là điều
đẹp ḷng Thiên Chúa và làm rạng ngời vinh quang Thiên
Chúa hơn. Tuy nhiên Kitô giáo hoàn thành cách trọn hảo
cái chính yếu của tôn giáo đích thực: Kitô giáo là
cách diễn tả hoàn hảo nhất của tôn
giáo đích thực này”[28].
Lời tóm trên
của Gustave Thils rất chính xác và đúng đắn,
chúng ta cùng nhau đọc tiếp một lời
nguyện nữa của hồng y Nicolas de Cusa
để rơ hơn cái nh́n của ngài:
“Lạy Chúa, Ngài biết một số lớn sống
với nhiều điều trái ngược, và hầu
như tất cả mọi người sống
đời khổ cực, lo lắng, đau khổ và
dưới ách thống trị của những vua chúa; v́
thế có rất ít người giữa họ có
giờ để đạt tới cái biết về chính
họ như họ muốn. Họ bị thúc
đẩy bởi những mối lo và những công
việc trần thế và không thể t́m Ngài, vị Thiên
Chúa ẩn ḿnh. Chính v́ thế Ngài đă gởi xuống cho
dân Ngài những vị vua, những nhà thấu thị,
được gọi là các tiên tri. Một số lớn
trong họ khi hoàn thành trách nhiệm và nhân danh Ngài, đă
qui định những hành vi tôn giáo và những luật
lệ, và đă dạy dỗ dân vô tri. Và họ đă
nhận các luật này như thể Ngài đă nói với
họ mặt đối mặt, như vị
Vua của các vua. Họ đă nhận trong niềm tin
rằng họ nghe những luật này, th́ không phải là
nghe các tiên tri nhưng là nghe Ngài trong các tiên tri.
Với những dân
tộc khác nhau, Ngài đă gởi các tiên tri và
những tiến sĩ (thày dạy) khác nhau,
người này ở giai đoạn này, kẻ
khác ở giai đoạn khác. Những điều này
ở trong điều kiện con người, sau thói
quen lâu dài đă trở nên như bản chất không
thể đổi, được bảo vệ như
chân lư. Chính v́ thế đă nảy sinh ra
những điều mâu thuẫn đối chọi
nhau, khi mà mỗi nhóm quí chuộng niềm tin của ḿnh
hơn niềm tin của nhóm khác”[29].
Qua những
bản văn được trích trên, chúng ta thấy rơ cái
nh́n và lập trường của hồng y Nicolas de
Cusa. Với Ngài, các tôn giáo hiện diện cho những
dân tộc khác nhau, và các tôn giáo này nằm trong chương
tŕnh của Thiên Chúa. Nói cách khác, các tôn giáo- dù ngoài kitô giáo-
vẫn có giá trị cứu độ, vẫn là
phương tiện cứu độ của Thiên
Chúa cho con người trong những dân tộc và hoàn
cảnh sống, cùng nền văn hóa khác nhau.
Bây giờ chúng ta
xét ư kiến của các thần học gia hiện
đại có cái nh́n tích cực về các tôn giáo ngoài
kitô.
Giá trị cứu
độ của các tôn giáo ngoài kitô là một vấn
đề có tầm quan trọng đặc biệt với
các nước phương đông như châu Á, nhưng
nó vẫn c̣n là vấn đề thần học khá mới
và chưa được nhiều người bàn
tới. Ở đây chúng ta chỉ xét một vài tác giả
đặc biệt.
Tiền bán
thế kỷ XX, Romano Guardini cho rằng: “Đức Yêsu có
những tiền hô, trong thế giới Hy lạp có Socrate,
ở phương đông có đức Phật cũng
như Yoan tiền hô ở xứ Do thái”[30].
Quan niệm coi
Đức Phật là tiền hô của Đức Yêsu hàm
chứa rằng các tôn giáo do những vị đó
khởi lập sẽ tiếp nhận Đức Yêsu. Và
chúng ta cũng đă biết: tất cả những ǵ
giúp nhận ra Đức Yêsu là Kitô, là Con Thiên Chúa, là
Thiên Chúa đều là công tŕnh của Thánh Thần (1Cor.12,
3). Như vậy các tôn giáo ngoài kitô có giá trị cứu
độ.
Đức Giáo
hoàng Piô XII trong bài nói chuyện với các “cô đỡ”
ngày 29.10.1951:
“Một hành vi t́nh yêu có thể đủ cho một
người trưởng thành nhận ân sủng thánh
hóa và bù đắp việc không có phép rửa”[31].
Trong sứ
điệp gởi qua hệ thống truyền thanh cho
hội nghị tại Ernakulam ngày 31.12.1952, Ngài nói:
“Các con hăy làm cho thấy rơ, tất cả những ǵ là
chân thật và tốt đẹp trong các tôn giáo khác
đều t́m thấy ư nghĩa sâu xa và sự bổ túc
hoàn hảo nơi Đức Kitô”[32].
Yves Congar, thần
học gia nổi tiếng, đă trích dẫn câu
của Th. Ohm: “Không có tôn giáo ngoài kitô nào mà ở đó
người ta không t́m thấy một loại, một
dấu vết của t́nh yêu Thiên Chúa”[33].
Chẳng hạn trong Ấn độ giáo cũng có
một giáo phái lấy đức ái (Bakti) làm con
đường căn bản phải thực hành
để được cứu độ.
Karl Rahner, thần
học gia có tầm vóc vào loại lớn nhất của
thế kỷ XX, cũng có quan niệm tích cực
về các tôn giáo ngoài kitô, đặc biệt những tôn
giáo ngoài kitô tiền kitô giáo.
Chúng ta có thể
tóm tắt lập luận của K. Rahner như sau:
Con người là sinh vật xă hội, nên tín
ngưỡng của con người cũng
được diễn tả cách xă hội, nghĩa là các
tôn giáo như chúng ta thấy ngày nay; có các tôn giáo ngoài kitô
hiện hữu trước Do thái giáo và Kitô giáo là
chuyện tự nhiên.
Thiên Chúa muốn con người được
cứu độ cách siêu nhiên, nghĩa là, chủ quan
được ân sủng hướng dẫn và khách quan
qua phượng tự và các luật luân lư...
Như vậy các tôn giáo ngoài kitô nằm
trong chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa.
Tuy nhiên những tôn giáo ngoài kitô này không có những khách
quan tính của lịch sử cứu độ như nhau[34].
H. R. Schlette, trong
tác phẩm Die Religionen als Thema der Theologie xuất bản
bởi Herder năm 1963 và được dịch ra
tiếng Anh bởi W. J. O'Hara năm 1966 với tựa đề
Towards a theology of Religions, đă bảo vệ
lập trường coi các tôn giáo ngoài kitô nằm trong
chương tŕnh Thiên Chúa cứu độ con
người.
Tác giả phân
biệt lịch sử cứu độ thông thường
và lịch sử cứu độ đặc biệt
khi bàn về lịch sử cứu độ. Bởi v́:
·
con
người có tính lịch sử,
·
lịch
sử thế trần được nhận là lịch
sử thế trần nếu đứng trên quan
điểm lịch sử cứu độ, và cũng
chính lịch sử thế trần được nhận
ra là lịch sử thánh cũng nhờ đứng trên
quan điểm lịch sử cứu độ.
·
Lịch
sử thánh, mà nhờ lịch sử này và đứng trên
quan điểm của lịch sử này mà nh́n lịch
sử thế trần và nhận ra đó là lịch sử
thánh, là lịch sử thánh đặc biệt.
Với lập luận của Schlette về các tôn giáo
ngoài kitô, sự khác biệt giữa lịch sử thánh thông
thường và lịch sử thánh đặc biệt
là điểm quyết định!
H. R. Schlette
cũng dựa vào 11 chương đầu của sách
Khởi Nguyên và cụ thể là ḍng truyền thống Y
để chứng minh cho lập trường của ông.
Tác giả cũng nhận rằng tŕnh thuật này có
tính tâm nguyện, nhằm nối kết lịch sử
dân Israel với nguồn gốc tuyệt đối của
vũ trụ, và những tŕnh thuật này cho chúng ta
thấy có những kinh nghiệm tôn giáo hiện
hữu ngoài Israel.
Dựa vào giao
ước Noê, tác giả cho rằng tương quan giao
ước không chỉ hiện hữu giữa Thiên Chúa
và Israel nhưng cũng đă hiện hữu với
những người không phải là Israel, hơn
nữa với mọi người và ngay cả với
mọi sinh vật trên đất nữa. Như vậy
khi suy nghĩ về giao ước Noê, chúng ta thấy ơn
cứu độ có thể được đạt
tới với t́nh trạng của giao ước
này, nghĩa là t́nh trạng “ngoại”.
Lập luận
của H. R. Schlette:
·
Con người
là một sinh vật xă hội, nên mọi sinh hoạt
của con người đều mang tính xă hội,
kể cả hành vi tôn giáo, và những hành vi tôn giáo
với tính xă hội này phải có tính cứu độ
trừ phi chúng ta chứng minh chắc chắn rằng
ngược lại.
·
Lịch
sử thánh thông thường (so với lịch sử thánh
đặc biệt khởi đầu với dân Israel)
có thể và phải được coi là Thiên Chúa muốn,
nên các tôn giáo ngoài kitô phải được coi là
điều Thiên Chúa muốn và thánh hóa, ngay cả
với t́nh trạng hiện tại của các tôn giáo đó[35].
Gút lại ư
kiến của H. R. Schlette: các tôn giáo ngoài kitô là cách diễn
tả xă hội của việc con người t́m
kiếm Thiên Chúa được Thiên Chúa muốn, nên
cũng nằm trong chương tŕnh cứu độ
và là hồng ân của Thiên Chúa. Các tôn giáo ngoài kitô là
những con đường cứu độ, những con
đường cứu độ trong lịch sử
thánh thông thường (so với con đường cứu
độ đặc biệt là Giáo Hội trong lịch
sử thánh đặc biệt)[36].
HOME THẦN HỌC
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] P. FOULQUIÉ & RAYMOND SAINT- JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF-PARIS 1963, chữ religion.
Tự điển PETIT LAROUSSE, PARIS 1952, chữ “religion”.
[2] FERNAND CHAPEY, trong Introduction của P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970, p. 21-23.
[3] H. MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE-PARIS 1965, pp. 84-85 trích dẫn M. ÉLIADE, Mythes, rêves et mystères, p. 167.
H. MAURIER cho rằng việc nhập thể nơi Đức Yêsu là thần hiển tối cao.
[4] Phần lớn trong mục này được lấy lại trong
Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, DALAT 1982, bđm,pp. 3-6.
[5] H. R. SCHLETTE, Towards a theology of religions,
LONDON 1966, p. 25, ghi chú 9.
[6] Xem M. HEINRICHS, Théologie catholique et penseé asiatique, CASTERMAN 1965, p. 79.
[7] H. KRAEMER, Religion and Christian faith, LONDRES 1956, pp. 54-56 trích bởi G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non chrétiennes, CASTERMAN 1966, pp. 44-45.
[8] PG. 1, 1466 cf. M. HEINRICHS, op. cit., p. 79 ghi chú 11.
[9] F. CAYRÉ, Précis de patrologie, t.I PARIS 1927, p. 124.
cf. G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non chrétiennes CASTERMAN 1966, p. 140.
[10] AUGUSTINUS, De doctrina christiana, l.II, c.40, n. 60 PL.34, col.65 cf. G. THILS, op. cit., p. 43.
[11] FULGENCE DE RUSPE, De fide ad Petrum, 38. 39
trích bởi Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse (vérite et dimension du salut), TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1963, p. 111 F.V. 27
[12] THOMAS, S.T., IIa-IIae, q.10, a.11 cf. G. THILS, op. cit., p. 41.
[13] THOMAS, S.T., Ia-IIae, q.18, a.4, ad 3 cf. G. THILS, op. cit, p. 42.
[14] H. KRAEMER, op. cit., pp. 67-68 trích bởi G. THILS, op. cit.,p. 45
[15] G. THILS, op. cit., p. 42 trích dẫn P. AUBRY, Les chinois chez eux, DDB.1889
[16] J. WITTE, Die Christusbotschaft und die Religionen, GOTTINGEN 1963, p. 75
[17] JACQUES DOURNES trong UNAM SANCTAM 61, trang 84. Nhưng theo H. R. Schlette, thần học truyền giáo không chỉ đạo thần học về các tôn giáo ngoài kitô mà đúng ra phải ngược lại v́ thần học truyền giáo chỉ xuất hiện ở một thời điểm của lịch sử cứu độ (H.R.SCHLETTE, op. cit., p. 26)
[18] H. KRAEMER, Foi chrétienne et les religions non-chrétinnes, NEUCHÂTEL 1956, pp. 76-77 trích bởi G. THILS, op. cit., pp. 46-47.
[19] Đạo Hồi với Mahomet đă phá hủy nhiều lư thuyết tích cực về tôn giáo, chẳng hạn lập trường coi các tôn giáo như là chuẩn bị cho việc con người đón nhận tin mừng đức Yêsu Kitô.
Đạo Hồi xuất hiện khá trễ trong lịch sử (Mahomet sinh khoảng năm 570 tại La Mecque) và đă phá hủy nhiều thánh đường và cộng đoàn Kitô giáo tại phương Đông. Đạo Hồi coi đức Yêsu chỉ là một tiên tri và thời của Đức Yêsu đă chấm dứt, Mahomet khai trương kỷ nguyên sau cùng.
V́ chủ trương như vậy, nên phần nào sự kiện đạo Hồi cũng làm lung lay quan niệm coi các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của logos spermatikos, hoặc quan niệm coi các tôn giáo ngoài kitô có điểm tới là Kitô giáo.
Xem thêm M. HEINRICHS, op. cit., p. 81.
H. LAMMENS, Mahomet fut- il sincère,
trong RECH. SCIENCCES RELIG., 2 (1911), pp. 25-53.140-166 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 42.
[20] Lập trường này dựa vào quan điểm về công chính hóa, ân sủng và nguyên tội của Luther cùng những người Tin lành.
H. R. Schlette cho rằng không có khẳng định nào của Kinh Thánh nâng đỡ cho quan điểm này. Cf. H. R. SCHLETTE, op. cit., p. 29.
Theo K.Rahner, lịch sử của các tôn giáo không chỉ là thành quả của lư trí và của tội, nhưng cũng c̣n là hoa trái của ân sủng nữa Cf. K. RAHNER, art. “La nature et la grâce”, trong Questions théologiques aujourd’hui, t.II, DDB. 1963, p. 33.
[21] LA COMBE OLIVIER, Râmânuja, Approches de l'Inde, trong CAHIER DU SUD 1949 Ma Mystique naturelle et l'Inde, trong REVUE THOMAISTE 1951.
R. C. ZAEHNER, Hindu and Muslim mysticism, ATHLONE PRESS- LONDON 1957 Mysticism sacred and profane, CLARENDON PRESS- OXFORD 1957.
L. MASSIGNON, La passion de Al-Hallâj, martyr mystique de l'Islam, 2 vol., PARIS 1922.
[22] Mục này phần lớn lấy lại trong Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài Kitô, ĐALAT 1982, bđm. pp. 7- 30.
[23] IRÉNÉE, Adversus Haereses, 4, 28, 2 PG.7, 1062
trích bởi G. THILS, op. cit., p. 65.
[24] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, I, 5 PG.8, 717-720 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 66
[25] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, VII, 2 PG.9, 409-410 trích bởi G. THILS,op. cit., p. 66
[26] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, VI, 3 PG.9, 262 sq., trích bởi M. HEINRICHS, op. cit, p. 106
[27] St. BERNARD, Tractatus de Baptismo, cap.1, n.4 PL.182, 1034, trích bởi G.THILS, op. cit., p. 73
[28] G. THILS, op. cit., p. 50, xem BR. DECKER, Nikolaus van Cues und Friede unter den Religionen, trong J. KOCH, Studien und Texte zur Geistesgeschichte des Mittesalters, t.III, LIEDEN-COLOGNE 1953
[29] NIKOLAUS VON KUES, Ueber den Frieden in Glauben, LEIPZIG 1943, p. 91, trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., p. 81 ghi chú 17
[30] R. GUARDINI, Der Herr, WURZBURG 1949, p. 355, trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., p. 106
[31] PIÔ XII, Diễn từ cho các cô đỡ, ngày 29.10.1951, DC.1951, col.1480, trích bởi Y.CONGAR, Vaste monde ma paroisse, TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968, trang 141, FV.27
[32] Xem Y. CONGAR, op. cit., p. 40, note 1
[33] TH. OHM, Die Liebe zu Gott in den nichtchristlichen Religionen. Die Tatsachen der Religionensgeschichte und die christliche Theologie, KRAILING VOR MUNCHEN 1950, p. 442 cf. Y. CONGAR, op. cit., p. 141
[34] K. RAHNER, art. “Mensch”, trong LEX. F. UND K., col. 292 trích bởi ÉTIENNE CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non- chrétinenes, CERF 1965, trang 46
[35] H. R. SCHLETTE, Towards a Theology of Religions,
LONDON 1966, p. 78-81.
Hiển nhiên chúng ta phải hiểu, các tôn giáo ngoài kitô- xét như những hành động phượng tự của con người dưới tác động của ân sủng được biểu lộ cách xă hội- là điều Thiên Chúa muốn, và như vậy con người được cứu qua những hành động phượng tự đó. Nhưng nếu tôn giáo hiện tại, xét như một hệ thống tự coi ḿnh là đủ (autosuffisant) và đóng kín với Tin Mừng đức Yêsu Kitô, th́ không thể coi là điều Thiên Chúa muốn được.
[36] Những điều được tóm về lập trường của H. R. Schlette, xem đặc biệt H. R. SCHLETTE, op. cit., pp. 30, 36-37.67.70-72.74.76-81