HOME     LINH ĐẠO     ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN       HPH1       HPH2       HPH3       HPH4       HPH5

 

 

ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

C.  CON  ĐƯỜNG  THIÊNG  LIÊNG (TU ĐỨC) 1

1). Con người và ư định của Thiên Chúa. 1

2). Chương tŕnh Yêsu. 3

3). Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. 7

4). Con người tại thế tự do trước những tác động. 10

5). Cầu nguyện và nhận định các thần. 11

PHẦN BA: TIẾN  TR̀NH  LINH  THAO.... 17

 

 

C.  CON  ĐƯỜNG  THIÊNG  LIÊNG (TU ĐỨC)

            Ở mục trên, chúng ta đă nh́n con người thực của chính chúng ta một cách cụ thể, và đă phần nào thấy nét cao qúy của con người. Bây giờ, chúng ta tiếp tục t́m hiểu con người trong ư định của Thiên Chúa, để rồi chúng ta có thể đến với Thiên Chúa một cách dễ dàng hơn dưới sự hướng dẫn và trợ giúp của Ngài.

1). Con người và ư định của Thiên Chúa

            Con người là ai? Con người sẽ đi về đâu? Đời sống con người có giá trị và ư nghĩa nào không? Những câu hỏi trên đă được nhiều người quan tâm thao thức đưa ra những lư thuyết trả lời; và có những lư thuyết đă ảnh hưởng rất sâu đậm trên lập trường sống của nhiều người. Có những lư thuyết sai lầm đă làm băng hoại bao nhiêu tâm hồn, và đă làm bao người đau khổ. Ánh sáng của mặc khải sẽ giúp chúng ta có cái nh́n đúng đắn về con người, và Thiên Chúa sẽ chỉ cho chúng ta con đường để chúng ta sống hạnh phúc đích thực.

a). Những cái nh́n sai lạc về con người

            Với lư trí của ḿnh, con người đă ṃ mẫm đi t́m lời giải đáp về chân tính của ḿnh. Lời lư giải th́ nhiều và đa dạng, và đôi khi cũng mâu thuẫn nhau; nhưng điều đáng bận tâm hơn là: “những lư giải này có đúng thực không”?

i). Con người, một hiện hữu “t́nh cờ”

            Có người cho rằng con người do tiến hóa ngẫu nhiên mà có. Nếu con người ngẫu nhiên mà hiện hữu, th́ con người đâu có giá trị trường tồn! Và nếu đúng như vậy, chết là hết! Và người ta có thể kết luận: “con người có thể làm những ǵ ḿnh thích, ḿnh muốn, hoặc những ǵ làm thỏa măn ḿnh”.

            Một nhăn quan như vậy về con người, kéo theo những hệ luận vô cùng tai hại:

·        không có hạnh phúc đích thực;

·        nếu nói đến hạnh phúc, th́ hiểu hạnh phúc là thỏa măn nhu cầu thể lư; nếu có nói tới nhu cầu tinh thần, th́ tinh thần ở đây cũng chỉ là dạng khác của thân xác;

·        con người không là một gía trị trường tồn; v́ tất cả sẽ hư vô khi cái chết đến;

·         con người có thể làm tất cả; luật pháp chỉ có gía trị giúp trị an, để đời sống “xă hội” được dễ dàng hơn thôi, không phản ánh bản chất con người.

ii). Con người, “một hiện sinh phi lư”

            Một số người cho rằng không thể lư giải sự hiện hữu của con người, con người là hiện sinh “phi lư”, cuộc đời đáng “buồn nôn”.

            Những người thuộc trường phái này không biết ḿnh từ đâu tới và ḿnh sẽ đi về đâu, họ không  thấy ư nghĩa cuộc đời. Một nhân sinh quan như vậy sẽ dẫn con người tới thái độ bi quan chán chường:

·        họ có thể sống buông thả theo những khuynh chiều “thú tính” của con người;

·        và tệ hơn, họ có thể tự tử nếu họ gặp quá nhiều thất bại trên đường đời!

iii). Con người, một tṛ chơi của Tạo Hóa?

“Ấy Con Tạo đành hanh quá quắt,
Chết đuối người trên cạn mà chơí”!

            Tại sao lại có lắm cảnh éo le trong cuộc đời? Phải chăng con người chỉ là tṛ chơi của Tạo Hóa, của những thần linh “thích vui đùa trên sự đau khổ của con người”? Phải chăng con người đă có một phần số rơ ràng, không ǵ có thể tránh được?[1] Tại sao có sự ác, phải chăng v́ Tạo Hóa muốn vậy, bởi v́ Tạo Hóa quyền năng vô cùng mà?

            Một cái nh́n sai lệch về Thiên Chúa kéo theo cái nh́n sai lệch về con người. Và nếu chấp nhận cái nh́n như vậy về con người và về Thiên Chúa, th́ con người không thể sống hạnh phúc được v́ luôn ở trong t́nh trạng lo sợ bất an.

b). Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc

            Thiên Chúa không phải là “ông kẹ”, cũng không phải là “Con Tạo đành hanh quá quắt”, cũng không phải là ông chủ độc ác, nhưng là Cha Vô Cùng Nhân Từ và Yêu Thương.

            “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi ngựi được cứu độ và nhận biết chân lư” (1Tm.2,4). Thiên Chúa muốn chia sẻ hạnh phúc với con người khi Ngài tạo dựng con người.

i). Thiên Chúa tạo dựng con người v́ yêu thương

            Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc tạo dựng con người, và Ngài đă tạo dựng con người v́ t́nh yêu và trong t́nh yêu. Không ǵ buộc Thiên Chúa phải tạo dựng con người; và việc Ngài tạo dựng con người không mang lại ǵ thêm cho bản tính Thiên Chúa.

            Thiên Chúa có thể không tạo dựng con nguời mà Ngài vẫn hạnh phúc tṛn đầy; thế nhưng v́ yêu thương con người nên Ngài đă tạo dựng con người, và Ngài muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài: “Thiên Chúa là T́nh Yêu” (1Yn.4, 8.16).

ii). Thiên Chúa muốn chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với con người

            Thiên Chúa tạo dựng con người, v́ Ngài muốn cho con nguời thông phần hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa.

            Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của con người, không hoàn toàn nằm trong tầm tay con người, nhưng cũng không phải là điều mà con người không thể có được. Con người có thể sống hạnh phúc, nhưng con người không thể sống hạnh phúc thật nếu con người muốn tách biệt hay độc lập với Thiên Chúa.

            Hạnh phúc vĩnh cửu, là thuộc tính của Thiên Chúa; hạnh phúc vĩnh cửu nơi con người chỉ có thể có, nếu con người sống hiệp thông với Thiên Chúa, thuộc trọn về Thiên Chúa.

iii). Nên giống Thiên Chúa th́ hạnh phúc

            Thiên Chúa luôn luôn hạnh phúc, và chỉ những ai nên giống Thiên Chúa mới hạnh phúc thật sự mà thôi.

            “Thiên Chúa là T́nh Yêu” (1Yn.4, 8. 16). Ai yêu thương th́ nên giống Thiên Chúa, và ai không yêu thương th́ không giống Thiên Chúa. Như vậy, chỉ những người sống yêu thương mới hạnh phúc và hạnh phúc thật sự.

            Thiên Chúa tạo dựng con người “giống h́nh ảnh Ngài” (Stk.1,26), Ngài tạo dựng con người tự do, Ngài tạo dựng con người có khả năng yêu thương để sống hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Thế nhưng con người “tự do” đă không sống yêu thương như Thiên Chúa muốn, con người đă lạm dụng tự do để thù ghét và làm hại anh em ḿnh : đó là tội! Để con người được hạnh phúc, cần Thiên Chúa cứu độ con người, làm cho con người sống yêu thương: yêu Chúa và yêu người. Cứu độ con người, là làm con người sống yêu thương, để con người giống Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc.

2). Chương tŕnh Yêsu

            Thiên Chúa là T́nh Yêu, Ngài là Đấng chỉ biết yêu thương, và làm tất cả v́ yêu thương: “Ngài tạo dựng con người để con người sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài”. Thực tế con người đă từ chối t́nh yêu của Ngài, từ chối sống thông hiệp với Ngài, và như vậy là xúc phạm Thiên Chúa, là tội. Tuy vậy, Thiên Chúa đă không bỏ mặc con người, Ngài tiếp tục yêu thương con người qua hành vi làm con người trở về sống thông hiệp với Ngài, đáp trả t́nh yêu của Ngài.

            Từ đời đời Thiên Chúa đă biết con người từ chối Ngài, phản bội Ngài khi Ngài tạo dựng họ “tự do”; nhưng Thiên Chúa vẫn tạo dựng con người; và Ngài có chương tŕnh cứu độ con người khi Ngài quyết định tạo dựng con người “tự do”. Tự do của con người vẫn được tôn trọng và bảo vệ[2].

            Các kitô-hữu tiên khởi đă diễn tả chương tŕnh Thiên Chúa yêu thương và cứu độ con người qua bài ca trong thư gởi Eâphêsô của thánh Phaolô:

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta.

Trong đức Kitô, từ cơi trời Người đă thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.

Trong đức Kitô, Người đă chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để  trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ t́nh thương của Người.

Theo ư muốn và ḷng nhân ái của Người, Người đă tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ đức Yêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng người đă ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.

Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.

Aân sủng này Thiên Chúa đă rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.

Người cho ta được biết Thiên Ư nhiệm mầu: Thiên Ư này là kế hoạch yêu thương Người đă tiền định từ trước trong đức Kitô.

Đó là đưa thời gian tới hồi viên măn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lănh là đức Kitô.

Cũng trong đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ư muốn của Người, đă tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.

Trong đức Kitô cả anh em nữa, anh em đă được nghe lời chân lư là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong đức Kitô, một khi anh em đă tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đă hứa.

Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”(Eph.1,3-14).

a). Thiên Chúa cứu độ con người

            Phạm tội là từ chối Thiên Chúa và muốn độc lập với Ngài. Qua hành vi phạm tội con người chọn và làm ḿnh trở thành “qủy”. Điều này không hợp lư và “không hiểu được”, nhưng đó lại là sự thật! Một điều ác điều dữ, tại sao con người vẫn làm?!

            Thiên Chúa đă yêu thương con người ngay cả khi con người là tội nhân. Đây cũng là điều “không hiểu được”!

i). Con người cần được cứu độ v́ đă từ chối t́nh yêu

            Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn con người hạnh phúc, Ngài muốn con ngựi trưởng thành và triển nở về mọi phương diện. Nhưng thực tế, bằng chính hành vi phạm tội của ḿnh, con người đă từ chối vươn lên và đă đồng hóa ḿnh với con vật, và đôi khi c̣n tệ hơn cả con vật, chẳng hạn trường hợp con nguời lợi dụng lư trí của ḿnh nhằm diệt hẳn một dân tộc như hành vi của Hitler đối với dân tộc Do Thái thời đệ nhị thế chiến. Tội là xúc phạm Thiên Chúa bằng hành vi từ chối sống yêu thương như Thiên Chúa đă muốn cho con người.

            Tŕnh thuật “sa ngă” của sách Sáng Thế Kư chương 3 cho thấy: con người không tin rằng Thiên Chúa yêu thương ḿnh, mà hơn nữa lại tin vào ma qủy qua h́nh ảnh con rắn, coi Thiên Chúa là Đấng lừa dối ḿnh, cho rằng Thiên Chúa không muốn cho con người trở thành thần linh, coi Thiên Chúa như một vị sợ con người được “ngang hàng” với ḿnh. Khi con người không tin vào Thiên Chúa nữa, th́ con người không c̣n trông cậy vào Thiên Chúa, và con người không sống trong t́nh yêu của Ngài nữa. Tội là từ chối t́nh yêu của Thiên Chúa.

            Không ai có thể tha tội nếu không phải là chính Thiên Chúa (Mc.2,7). Quan niệm này của người Do Thái hoàn toàn chính xác: con người không thể đền được tội mà ḿnh đă xúc phạm đến Thiên Chúa. Chính v́ thế con người cần được Thiên Chúa cứu độ.

ii). Từ khi phạm tội, con người đă “yếu đi”

            Con người đầu tiên đă phạm tội cách tự do, và bây giờ con người vẫn c̣n tự do để phạm tội hay không phạm tội; thế nhưng kể từ  biến cố phạm tội đầu tiên của con người đó, con người cảm thấy ḿnh “như thể bất lực” để làm điều tốt ḿnh biết là nên làm hay phải làm.

            Kinh nghiệm đời sống thiêng liêng cho thấy: có nhiều lúc trong đời tôi không muốn phạm tội, tôi không muốn làm “điều đó” nữa, nhưng rồi tôi lại đă tự do làm điều tôi đă quyết định rằng sẽ không bao giờ làm nữa; sau khi làm điều đó rồi, tôi lại hối hận v́ ḿnh đă làm điều đó... và rồi lại quyết định...!

            Con người đă bị ảnh hưởng bởi tội, và đặc biệt bởi tội đầu tiên đó. Con người đă bị “yếu” kể từ khi con người phạm tội, và con người càng trở nên yếu khi con người càng ch́m sâu trong tội. Có lẽ ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.

            Kinh nghiệm “điều tôi muốn (tôi biết là đúng, là nên làm) tôi không làm, nhưng tôi lại làm điều tôi không muốn (tôi biết là không đúng và không nên làm)” của thánh Phaolô (Rm.7,19), là kinh nghiệm “bất lực” của con người, và đúng hơn của mầu nhiệm tự do của con người, của tội. Khi nói con người cảm nghiệm sự “bất lực làm điều tốt”, người viết hoàn toàn không có ư muốn nói “con người không c̣n khả năng hành thiện”, hoặc “con người mất tự do để làm điều tốt”! Con người vẫn c̣n khả năng chọn lựa làm điều tốt hay điều xấu tùy họ.

iii). Được cứu độ trong đức Yêsu và nhờ đức Yêsu Kitô

            Ai cứu tôi khỏi t́nh trạng khốn nạn này?

            “Tạ ơn Chúa, nhờ đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta!”(Rm.7,24-25). “Trong đức Kitô và nhờ đức Kitô, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi”(Eph.1,7).

            Nhập thể là sáng kiến t́nh yêu tuyệt vời của Thiên Chúa để cứu độ con người, bởi v́ con người không thể trả gía đền tội ḿnh, v́ con người chỉ là tạo vật: “chỉ có Con Chiên mới xứng đáng mở sách ấy mà thôi”(Kh.5,9)! Chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể trả được giá “thục hồi” cho Thiên Chúa, và như vậy chỉ có đức Yêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Con Thiên Chúa làm người, mới có thể cứu độ được con người mà thôi.

b). Ngôi Lời nhập thể để làm chứng cho T́nh Yêu

            Con người từ chối T́nh Yêu Thiên Chúa, con người coi thường và cho rằng ḿnh không cần Thiên Chúa. Thái độ khinh thường Thiên Chúa là thái độ đáng tội. Làm sao để cứu độ con người?

            Làm sao để cứu độ con người?

            V́ con người là hữu thể tự do, nên Thiên Chúa không thể cứu độ được con người nếu con người không chấp nhận.

            Con người được cứu độ nếu con người coi trọng Thiên Chúa và mệnh lệnh của Ngài, nếu con người vâng phục Thiên Chúa, tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Cứu độ con người, là làm cho con người cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa yêu con người, và đó là sứ mạng của đức Yêsu.

i). Sứ mạng đức Yêsu

            Cứu độ con người là hướng dẫn và trợ giúp con người, làm sao để con người cảm được Thiên Chúa yêu thương họ, và rồi họ đáp trả t́nh yêu, và như vậy là con người được hạnh phúc, được cứu độ.

            Sứ mạng của đức Yêsu là làm sao để con người cảm được rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Để thực hiện công tŕnh cứu độ này, Thiên Chúa đă có cả một chương tŕnh, và trải dài trong gịng lịch sử, đặc biệt là nơi dân tộc Do Thái với lịch sử của họ.

            Có thể nói: sứ mạng của đức Yêsu là làm chứng cho T́nh Yêu, là chứng nhân t́nh yêu: làm cho con người cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.

ii). Thập gía diễn tả t́nh yêu

            Liệu Thiên Chúa có thể cứu độ con người mà không cần Ngôi Lời nhập thể, không cần đức Yêsu phải chết không?

            Nếu Ngôi Lời không nhập thể, liệu con người có tin Thiên Chúa yêu con người không? Nếu đức Yêsu không chịu chết, liệu con người có được đánh động bởi hành động và đời sống của Ngài, để cảm nhận rằng Thiên Chúa yêu thương ḿnh không?

            Bằng hành vi nhập thể, Ngôi Lời Thiên Chúa vĩnh viễn thành người:

·        Đức Yêsu sống hoàn toàn như con người (trừ tội, v́ tội không thuộc bản chất con người). Ngài biết đói, biết khát, biết đau, biết khổ nhục; Ngài bị cám dỗ trong hoang địa, trong vườn dầu, trên thập giá; Ngài bị thử thách về đức tin nhưng không bao giờ qụy ngă[3].

·        Ngài luôn nói sự thật dù người ta không tin và không chấp nhận Ngài (Mc.2,7), dù người ta kết án tử h́nh Ngài (Mc.14,62).

·        Ngài ư thức Ngài chết v́ yêu thương con người, v́ Ngài hiến mạng Ngài cho con người: “không có t́nh yêu nào lớn hơn t́nh yêu của Người hiến mạng sống ḿnh v́ bạn hữu” (Yn.15,13).

            Dường như thập giá là con đường duy nhất diễn tả t́nh yêu một cách thuyết phục nhất. Một cô gái có thể tin rằng một anh nào đó nói yêu cô ta, là thực chăng? Nếu cô gái này khôn ngoan, cô ta biết ḿnh có thể bị lừa! Để tin lời nói của người đó có thực không, cô ta cần có thời gian để nghiệm xét: chính qua hành động và đời sống, chứ không chỉ bằng lời nói, mà cô ta biết được anh ta có yêu cô ta thực không! Chính nhờ hành động, xem người đó có hy sinh quên ḿnh v́ tôi không, xem người đó có muốn tôi được hạnh phúc thực không, mà tôi nhận biết người đó có yêu tôi thực không. Cũng tương tự như vậy, qua việc Đức Yêsu dám chết v́ yêu con người, mà con người tin biết rằng Ngài yêu con người, và nhờ Ngài mà con người cũng biết rằng Thiên Chúa yêu con người vô cùng.

iii). Con người được cứu độ khi đáp trả t́nh yêu

            Tội là coi thường Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, không trông cậy ǵ nơi Ngài, không vâng phục Ngài! Nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương con người, Ngài sẵn sàng tha thứ tội lỗi con người đă xúc phạm đến Ngài, Ngài mong muốn con người trở lại với Ngài, để con người được hạnh phúc. Khi con người trở lại với Ngài, rung động trước t́nh yêu của Thiên Chúa đối với ḿnh, trân trọng Thiên Chúa, tín thác nơi Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi sự..., th́ con người được cứu độ.

            Rung động trước t́nh yêu của đức Yêsu và của Thiên Chúa đối với con người, hối hận v́ tội lỗi ḿnh, ao ước đáp trả t́nh yêu Thiên Chúa bằng chính cuộc sống ḿnh, đó là khởi đầu ơn cứu độ. Chính t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người và làm con người đáp trả t́nh yêu Thiên Chúa, làm cho con người được sống, và sống tṛn đầy, sống hạnh phúc.

            T́nh yêu không chỉ là cảm giác, và t́nh yêu cũng không chỉ là lư trí. T́nh yêu diễn tả và cảm nhận bằng cả lư trí và thân xác. Con người cần cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương ḿnh bằng cả con người, để ḿnh sống một đời đầy ư nghĩa, và được hạnh phúc.

3). Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa

            Cứu độ con người là chương tŕnh của cả Ba Ngôi Thiên Chúa:

·        Thiên Chúa Cha như nguồn gốc mọi sự, là sáng kiến của chương tŕnh;

·        Thiên Chúa Con như Lời thực hiện chương tŕnh qua hành vi nhập thể vĩnh viễn;

·        Và Thánh Thần hoạt động  trong tâm hồn mỗi người để dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa[4]. Thánh Thần giúp các tông đồ hiểu Lời của đức Yêsu (Yn.14,26), dẫn đưa các tông đồ vào tất cả sự thật (Yn.16,13), giúp các tông đồ làm chứng cho đức Yêsu (Yn.15,26-27). Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh để giúp các Kitô-hữu sống đức tin, và giúp các Kitô-hữu rao giảng tuyên xưng đức Yêsu Phục Sinh là Thiên Chúa.

a). Thiên Chúa luôn hoạt động để làm con người trở về với Ngài

            Con người là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương, nên cứu độ con người là công việc quan trọng đối với Thiên Chúa.

i). Thiên Chúa luôn ở với con người

            Thiên Chúa yêu thương con người, và yêu con người vô cùng. Thiên Chúa Cha yêu con người như yêu chính Con Một của Ngài (Yn.17,23), và Ngài yêu con người đến độ ban Con của Ngài cho con người (Yn.3,16). Chúa Yêsu yêu con người như  Thiên Chúa Cha yêu Ngài (Yn.15,9), và Ngài yêu con người đến độ hiến mạng sống bản thân Ngài cho con người (Yn.15,13), và c̣n biến bánh rượu thành thân xác Ngài để trở thành của ăn của uống cho chúng  ta.

            Chính v́ yêu thương con người nên Thiên Chúa luôn ở với con người:

·        “Nơi nào có hai hay ba người họp nhau v́ danh Thầy, th́ Thầy ở giữa họ” (Mt.18,18). “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến tận thế” (Mt.28,20);

·        “Ai yêu mến Ta th́ giữ Lời Ta, Cha Ta sẽ yêu thương người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó” (Yn.14,23);

·        “Thầy sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các con luôn măi” (Yn.14,16).

            Yêu nhau, người ta muốn ở gần nhau. Thiên Chúa muốn ở với chúng ta, và Ngài muốn chúng ta ở trong t́nh yêu của Ngài (Yn.15,9). Thiên Chúa ở với chúng ta để cứu độ chúng ta, để chúng ta sống hạnh phúc với Ngài.

ii). Thánh Thần dạy dỗ con người

            “Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha và đức Yêsu Đấng Cha sai” (Yn.17,3).

            Để sống hạnh phúc tṛn đầy, con người cần biết ḿnh đang hạnh phúc. Chúa Thánh Thần là thầy dạy chúng ta, Ngài giúp chúng ta nhận ra sự thật cứu độ: ”Thánh Thần sẽ dẫn chúng con vào tất cả sự thật” (Yn.16,13). Không có Thánh Thần, con người không thể làm ǵ tốt, ngay cả việc tin đức Yêsu là Thiên Chúa: “Không ai tuyên xưng đức Yêsu là Kitô, nếu không bởi Thánh Thần” (1Cor.12,3).

            Thánh Thần giúp con người tin vào đức Yêsu và tin vào Thiên Chúa, giúp con người cầu nguyện than thở với Thiên Chúa (Rm.8,26-27), giúp con người sống b́nh an hạnh phúc, giúp con người  hưởng ân phúc cứu độ.

iii). Thiên Chúa lôi kéo con người

            “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng  đă sai Ta, không lôi kéo nó, và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết” (Yn.6,44).

            Con người không thể tự cứu chính ḿnh, nhưng chính Thiên Chúa cứu độ con người: Thiên Chúa cứu độ con người nhưng cần con người ưng thuận cách tự do.

            Chính Thiên Chúa lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, chứ không phải con người tự ḿnh có khả năng đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa lôi kéo con người, và con người ưng thuận để Thiên Chúa lôi kéo ḿnh đến với Ngài. Lôi kéo con người đến với Thiên Chúa mà con người vẫn hoàn toàn tự do, đó là đặc điểm của Thiên Chúa.

            Thiên Chúa là T́nh Yêu, Thiên Chúa yêu con người, nên “Ngài muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư” (1Tm.2,4). Ngôi Lời Thiên Chúa đă nhập thể làm người để ở măi với con người theo cách thức mà con người lănh hội được; Thánh Thần Thiên Chúa luôn hoạt động trong con người để lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, để làm con người rung cảm trước t́nh yêu Thiên Chúa, để con người có thể sống an b́nh và phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc.       

b). Chỉ được cứu độ khi cảm nhận ḿnh được yêu

            Tuy con người hoàn toàn tự do nhưng Thiên Chúa lại rất tuyệt vời: Ngài chinh phục con người bằng t́nh yêu.

i). Muốn điều tốt cho người ḿnh yêu

            Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn những điều tốt lành cho con người, Ngài muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Sở dĩ như vậy, bởi v́ khi yêu, người ta muốn cho người ḿnh yêu được những điều tốt lành, được hạnh phúc đích thực.

            Thiên Chúa muốn con người được sống hạnh phúc tṛn đầy với Ngài: “Ta đến để chúng được sống, và sống sung măn” (Yn.10,10).

ii). Thiên Chúa trao ban cho con người tất cả

            Thiên Chúa Cha đă ban Con Ngài cho con người (Yn.3,16), Chúa Con đă ban chính ḿnh Ngài cho con người qua bí tích Thánh Thể và bằng hành vi chết cho người ḿnh yêu (Mc.14,24-25; Yn.15,13), Thánh Thần hiện diện với con người như quà tặng của Ba Ngôi (Yn.14,16).

iii). Thiên Chúa tôn trọng tự do con người

            Để hạnh phúc và cảm nghiệm hạnh phúc, cần có tự do.

            Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chính v́ vậy, Ngài chỉ mời gọi và đề nghị, c̣n tùy con người có đáp trả hay không.

            Thiên Chúa tôn trọng ư muốn của con người; ngay cả khi con người không đáp trả lại t́nh yêu của Ngài, không làm theo ư muốn của Ngài, th́ Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi, Ngài vẫn luôn tác động để con người trở lại với Ngài, hầu con người được sống hạnh phúc đích thực.

iv). Làm con người nên một với Ngài trong T́nh Yêu

            Khi yêu nhau, họ trở nên một, một thân xác một tinh thần. Nói một cách chính xác, những người yêu nhau đều hướng tới hiệp nhất dù mỗi cá vị vẫn được tôn trọng và duy tŕ: “Ḿnh với ta tuy hai mà một, ta với ḿnh tuy một mà hai”. Hai người yêu nhau, sẽ được hạnh phúc hơn khi họ cùng lư tưởng, cùng ước muốn và đồng cảm[5].

            Chúa Yêsu yêu Chúa Cha, nên đă lấy Ư Cha làm ư Ngài (Mc14,36), đă lấy Ư Cha làm của ăn (Yn.4,34). Cũng tương tự như vậy, khi con người yêu Thiên Chúa, sẽ lấy ư Thiên Chúa làm ư ḿnh, sẽ vâng giữ Lời Ngài: “Ai yêu mến Ta th́ giữ Lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở nơi người đó” (Yn.14,23).

            Con người chỉ có thể nên một với Thiên Chúa trong cầu nguyện, nếu con người đă cố gắng để nên một với Thiên Chúa trong suốt đời sống thường ngày.

v). Trân trọng đón nhận và phó thác đời ḿnh

            Trong t́nh yêu người ta thường nghe nói, “Anh là tất cả với em” hoặc “Em là tất cả với anh”. Khi hai người yêu nhau, người này là qúy nhất với người kia. Chính v́ thế, ư kiến hay ư thích của người yêu rất được coi trọng.

            Ai càng yêu th́ càng yếu, v́ khi yêu người ta muốn chiều ḷng người ḿnh yêu, để thấy người yêu hạnh phúc và ḿnh cũng được hạnh phúc v́ người ḿnh yêu hạnh phúc.

            Khi yêu nhau, người ta tin tưởng lẫn nhau và có thể tin tưởng cậy nhờ người ḿnh yêu, v́ ḿnh tin rằng người ḿnh yêu sẽ làm theo ư ḿnh. Khi yêu, người ta tin tưởng trông cậy lẫn nhau.

            Tội là coi thường và không tin tưởng trông cậy ǵ nơi Thiên Chúa, c̣n yêu Thiên Chúa là trân trọng và tin tưởng phó thác đời ḿnh trong tay Thiên Chúa là Đấng yêu thương ḿnh.

            Tin rằng Thiên Chúa yêu thương ḿnh, và Ngài sẽ làm cho ḿnh những điều tốt lành nhất, và như vậy ḿnh sẽ b́nh an hạnh phúc để phó thác đời ḿnh trong tay Thiên Chúa.

4). Con người tại thế tự do trước những tác động

            Con người không có tự do tuyệt đối, nhưng con người chỉ tự do trong hành động của ḿnh.

            Là tinh thần nhập thể, nên con người trở thành tinh thần qua thân xác, nghĩa là, con người được mời gọi vượt lên những khuynh chiều xác thịt để thành nhân, để nên thánh, để sống như Thiên Chúa muốn, để thuộc trọn về Thiên Chúa.

a). Trí tưởng tượng như chiến trường

            Lư trí con người với những h́nh ảnh được cảm thụ qua giác quan, do tác động bởi những khuynh chiều thân xác, làm nên trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng thuộc về “tôi”, cấu thành con người tôi, nhưng “tôi” không chỉ là nó; tôi hoàn toàn tự do để ưng thuận hay từ chối những ǵ hiện đến trong trí tưởng tượng của tôi.

b). Khuynh chiều thân xác và lư trí như cám dỗ

            Con người là linh hồn và thân xác. Con người là chủ vị với thân xác. Tôi xét như thân xác, có những khuynh chiều đ̣i thỏa măn, như đói cần ăn khát cần uống, nhu cầu thỏa măn sinh lư; tôi xét như sinh vật bậc cao, cũng có khuynh hướng muốn được kính trọng, nổi tiếng.

            Là người, tôi cảm thấy ḿnh có những nhu cầu và đ̣i hỏi như vậy nơi chính bản thân; khi tôi cảm thấy những đ̣i hỏi đó nơi ḿnh, không hàm chứa rằng tôi “thấp hèn”; tôi tự do, tôi có thể ưng thuận hay từ chối làm theo những đ̣i hỏi đó.

c). Ưng thuận hay từ chối, con người trở thành tự do đích thực hay nô lệ

            Khi nào c̣n sống trên dương thế này, tôi c̣n cảm thấy những đ̣i hỏi của thân xác và lư trí. Những khuynh chiều như thế là b́nh thường; đó là thân phận con người trong điều kiện tại thế. Tuy nhiên, con người xét như chủ vị hoàn toàn tự do, có thể “siêu vượt” trên những “cám dỗ”, trên những khuynh chiều này.

            Con người, trở nên người tự do đích thực hay nô lệ vật chất, trở nên thánh nhân hay như con vật, là do chính con người. Chính bằng hành vi siêu vượt hay thuận theo cám dỗ, mà con người là “thần” hay “vật”, trở nên thần linh hay sống như “con vật”.

d). Cám dỗ và thử thách là những cơ hội để nên thánh

            Bị cám dỗ và thử thách nhiều, không có nghĩa là ḿnh thiếu quảng đại với Chúa, hoặc ḿnh “xấu xa thấp hèn”. Đức Yêsu cũng bị cám dỗ nhiều và mănh liệt (Mt.4,1-11; Mc.14,32 tt), Ngài bị cám dỗ cả trong lănh vực đức tin (Mc.15,34), Ngài đă chiến đấu chống trả cám dỗ đến nỗi mồ hôi máu chảy ra (Lc.22,44). Đức Maria cũng bị thử thách nhiều trong cuộc sống, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác trong tay Thiên Chúa dù không biết Lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện thế nào, nhất là khi Mẹ chứng kiến đức Yêsu chết ô nhục thảm thương trên thập giá (Lc.1,26-38.45; Yn.19,25-27).

            Cám dỗ và thử thách là những dịp để con người tại thế siêu vượt trên chính ḿnh, để con người là tinh thần hơn, nên thánh và thuộc trọn về Chúa hơn.

            Đức Yêsu chiến thắng cám dỗ, và như vậy chúng ta tin tưởng rằng con người tại thế có thể vượt thắng cám dỗ nếu con người tin tưởng phó thác trong tay Thiên Chúa. Là con người, không có nghĩa là buộc phải phạm tội. Phạm tội hay không, tùy con người tự do: con người có thể không phạm tội.

5). Cầu nguyện và nhận định các thần

            Để con người được cứu độ, Ngôi Lời Thiên Chúa đă nhập thể làm chứng cho t́nh yêu, hầu con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương ḿnh vô cùng, để rồi yêu lại Thiên Chúa.

            Con người khi tin nhận đức Yêsu là Thiên Chúa, th́ nhận ra t́nh yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với ḿnh. Rồi khi con người tin nhận rằng Thiên Chúa yêu thương ḿnh vô cùng, con người có thể phó thác đời ḿnh trong tay Thiên Chúa T́nh Yêu.

a). Cầu nguyện[6]

            Cầu nguyện là một cách để thông hiệp với Thiên Chúa T́nh Yêu trong cuộc sống thường ngày của con người, để con người sống hạnh phúc với Thiên Chúa.

i). Ư thức Thiên Chúa  hiện diện và yêu thương ḿnh

            Thiên Chúa luôn yêu thương tôi dù tôi có biết và có ư thức về điều đó hay không. Thiên Chúa luôn nh́n xem tôi và can thiệp vào đời tôi một cách kịp thời, v́ Ngài luôn yêu thương tôi. ”Ngài chặn tôi trước, Ngài ngừa tôi sau... bàn tay của Ngài đặt trên tôi” (Tv.139,5).

            Khi cầu nguyện người ta cần ư thức Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương ḿnh. Như vậy trong suốt ngày, nếu tôi làm việc mà vẫn luôn ư thức Thiên Chúa đang sống với tôi, th́ tôi cũng đang cầu nguyện và đang kết hiệp với Thiên Chúa một cách nào đó.

            Ư thức Thiên Chúa đang sống với ḿnh trong đời sống thường ngày, không đ̣i chúng ta phải ngừng công việc ḿnh đang làm. Trong cả ngày, chúng ta vẫn làm việc b́nh thường trong tâm trạng “Thiên Chúa ở bên ḿnh và làm việc với ḿnh”.

ii). Lắng nghe và thân thưa với Chúa

Cầu nguyện là lắng nghe Thiên Chúa

            Thiên Chúa nói với mỗi người chúng ta qua lương tâm mỗi người, qua những biến cố xảy tới với ḿnh trong đời, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh...

·        Chúa nói với tôi, tôi có lắng nghe?

·        Thái độ đáp trả của tôi với Lời Ngài như thế nào? Tôi vâng phục, hay từ chối, hay lẩn tránh? Tôi có sống theo Lời Chúa nói với tôi không?

Cầu nguyện là thân thưa với Chúa

            Khi tôi thấy con người của tôi dưới ánh sáng Lời Chúa, tôi hăy nói với Ngài những ǵ Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy trong ḷng tôi. Nếu tôi có những bận tâm và ao ước, tôi hăy nói với Chúa, để Lời Chúa như gươm hai lưỡi phân tách (Dt.4,12), để tôi được tinh sạch hơn (Yn.17,17) và tự do hơn (Yn.8,32).

iii). Cầu nguyện để trở nên một với Thiên Chúa

            Có nhiều người mong ước kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện. Đây là ao ước chính đáng và tốt lành thánh thiện. Nhưng làm sao có thể kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện?

Khao khát ước mong kết hiệp với Thiên Chúa

            Để hiệp nhất với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện, đ̣i người đó luôn khao khát mong ước kết hiệp với Thiên Chúa. Chính ḷng khao khát ước mong, sẽ giúp người đó luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày bằng việc chấp nhận thánh ư Chúa ngay cả khi điều đó trái ư ḿnh, và nếu được như vậy, sẽ giúp người đó kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện.

Hy sinh từ bỏ chính ḿnh

            Có người cho rằng họ đă đạt đến mức kết hiệp với Thiên Chúa cách rất đặc biệt trong cầu nguyện, nhưng trong cuộc sống thực tế cho thấy người đó rất khó sống với người khác, và họ thường “khá kiêu ngạo”! Thánh Y-nhă lưu ư một số anh em Ḍng Tên: “cầu nguyện lâu giờ mà không có tinh thần hy sinh từ bỏ, th́ chỉ làm cho người ta thêm cứng đầu”.

            Để có thể kết hợp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện, người ta cần phải liên lỉ kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống. Họ phải luôn từ bỏ ư riêng để vâng phục Thánh Ư Thiên Chúa, để yêu thương và chấp nhận anh em, để thông cảm với những giới hạn của anh em và những trái ư từ bên ngoài đưa tới. Một người cho rằng ḿnh đă có thể kết hiệp dễ dàng với Thiên Chúa trong cầu nguyện mà không có đời sống từ bỏ và yêu thương, e rằng đó là người “ảo tưởng”, và chưa biết ḿnh cách sâu xa và đích thực.

Đồng h́nh đồng dạng với Ngài trong tư tưởng lời nói và hành động

            Để kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện, cần kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống. Sống đời sống “từ bỏ” qua yêu mến đức khó nghèo và sẵn sàng chịu xỉ nhục và khinh chê v́ ChúaYêsu Kitô, chấp nhận Thánh Ư Chúa trong suốt ngày sống. Nói cách khác, cuộc sống “đồng h́nh đồng dạng” với Đức Yêsu trong tư tưởng, lời nói và hành động, sẽ giúp người đó kết hiệp với Thiên Chúa sâu xa hơn trong giờ cầu nguyện.

iv). Cầu nguyện và suy nghĩ

            Suy nghĩ, và ngay cả suy nghĩ về những sự thiêng liêng và thần học, cũng chưa là cầu nguyện.

            Cầu nguyện là nói chuyện, thân thưa hoặc tâm sự với Thiên Chúa. Nếu một suy nghĩ giúp ḿnh tâm sự thân thưa với Thiên Chúa, th́ suy nghĩ đó cũng thuộc về cầu nguyện; chẳng hạn, sau một suy nghĩ, một người có thể thấy một ánh sáng nào đó, và điều này giúp họ tạ ơn Thiên Chúa hay nói chuyện với Thiên Chúa hay nài xin Thiên Chúa điều ǵ đó, th́ suy nghĩ đó cũng là cầu nguyện.

            Điểm chính yếu của cầu nguyện không là có nhiều ư tưởng phong phú, nhưng là tâm t́nh và thái độ của ḿnh đối với Thiên Chúa.

b). Xét gẫm[7]

            Xét gẫm là lượng giá giờ cầu nguyện, nhằm giúp ḿnh thấy được những ơn lành đă nhận lănh trong giờ cầu nguyện để tạ ơn Chúa, và biết được những “nguyên nhân nơi chính ḿnh” đă làm cho giờ cầu nguyện không được tốt đẹp, để sửa đổi.

i). Tiêu chuẩn “b́nh an hạnh phúc”

            Thiên Chúa muốn con người sống b́nh an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng c̣n ngay cả ở đời này nữa. Thiên Chúa muốn con người sống b́nh an hạnh phúc trong mọi thời điểm của cuộc sống, và đặc biệt trong giờ cầu nguyện. Có thể nói, t́nh trạng “an ủi thiêng liêng” là t́nh trạng b́nh thường trong đời sống cầu nguyện; nghĩa là, trong và sau cầu nguyện, con người được b́nh an hơn, được thư thái và hạnh phúc hơn, và thấy tin tưởng và trông cậy cùng yêu mến Thiên Chúa hơn.

            Thiên Chúa muốn con người sống b́nh an hạnh phúc, nhưng ma qủy- kẻ từ chối T́nh Yêu Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa- muốn con người về phe nó chống lại Thiên Chúa, nên t́m mọi cách ngăn cản con người sống b́nh an và hạnh phúc với Thiên Chúa.

ii). Aùp dụng cụ thể

Người thường sống trong t́nh trạng tội

            Thiên Chúa muốn người đang ở trong t́nh trạng tội trở về với Ngài, Ngài luôn hành động trong thâm sâu tâm hồn mỗi người để làm họ trở về với Ngài, qua tiếng nói của lương tâm và qua những dấu chỉ hữu h́nh.

            Thần dữ hành động ngược lại. Nó t́m mọi cách để người đó ở lại trong tội, chẳng hạn bằng gợi lên những h́nh ảnh gây vui thú giác quan...

 Người đang tiến trên đường thiêng liêng

            Thiên Chúa vẫn tiếp tục lôi kéo mỗi người, để họ tiến tới hơn trên đường phụng sự Chúa. Các thần lành cũng trợ giúp, để con người cảm nhận b́nh an và hạnh phúc, để họ vui tiến trên đường thiêng liêng.

            Thần dữ t́m mọi cách và mọi lư do “ngụy biện” để ngăn cản con người tiến tới, gây bất an và xáo động nơi tâm hồn con người.

iii). Nguyên do làm giờ cầu nguyện không được tốt lắm

            Sau khi cầu nguyện, người cầu nguyện dùng một thời gian ngắn để xét gẫm, xem giờ cầu nguyện của ḿnh thế nào! Nếu không tốt[8] hoặc không tốt lắm, th́ đâu là nguyên do? Và một khi đă nhận ra th́ cố gắng sửa đổi (chính ḿnh), để giờ cầu nguyện tiếp sau được tốt đẹp hơn.

            Nếu t́m đúng nguyên do và được chỉnh đốn, th́ giờ cầu nguyện tiếp sau sẽ tốt đẹp hơn. Có thể nhờ người có kinh nghiệm thiêng liêng cùng nhận định với ḿnh, bằng cách chia sẻ kinh nghiệm xét gẫm cho họ nghe, để họ giúp ḿnh t́m được nguyên do đă làm ḿnh cầu nguyện không được, cách chính xác và chắc chắn hơn.

Do thiếu quảng đại

            Có thể do ḿnh thiếu quảng đại với Chúa trong giờ cầu nguyện hay trong cả ngày sống, mà ḿnh cầu nguyện không được tốt.

            Nếu ḿnh không cố gắng tập trung để cầu nguyện, hoặc nếu không xua đuổi ngay các chia trí đến trong giờ cầu nguyện, không đặt Thiên Chúa lên trên hết, th́ cũng khó cầu nguyện “tốt”.

            Nếu trong ngày ḿnh không hy sinh và kết hiệp với Thiên Chúa liên lỉ, th́ cũng khó cầu nguyện. Để dễ dàng cầu nguyện, con người cần luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống.

Do c̣n bám víu vào tạo vật (t́nh cảm lệch lạc)

            Có thể do c̣n bám víu vào một tạo vật nào đó, mà ḿnh cầu nguyện không được “tốt”.

            Khi ta c̣n đặt một tạo vật nào trên hoặc bằng Thiên Chúa, dù ư thức hay không ư thức, th́ cũng khó cầu nguyện. Như vậy nếu ḿnh cầu nguyện không được, hăy xem ḿnh có cố gắng quảng đại hết sức để cầu nguyện chưa; nếu đă cố gắng “hết sức” rồi mà vẫn cầu nguyện không được, th́ xem ḿnh c̣n quyến luyến điều ǵ cách lệch lạc không, và khi nhận ra th́ hăy quảng đại để chỉnh đốn lại.

Nhận thức sai lầm

            Một người có thể không cầu nguyện được, v́ họ nhận thức sai lầm: họ tưởng rằng cầu nguyện được hay không là do sức con người. V́ vậy, Thiên Chúa có thể để họ cầu nguyện không được, nhằm giúp họ nhận ra một sự thật: “cầu nguyện được, là một ơn Thiên Chúa ban cho con người”.

Để tôi luyện ḿnh

            Một người có thể bị sầu khổ thiêng liêng mà không phải do lỗi của họ (LT.322b).

            Nếu ḿnh cầu nguyện không được, bị sầu khổ thiêng liêng, mà không tại lỗi ḿnh, th́ hăy kiên tŕ và quảng đại. Lúc đó chủ quan ḿnh thấy ḿnh cầu nguyện không được tốt lắm, nhưng khách quan th́ vẫn tốt, v́ lúc đó Thiên Chúa đang tôi luyện ḿnh, Ngài tập cho ḿnh đến với Ngài v́ chính Ngài chứ không phải v́ ḿnh được an ủi; tuy chủ quan ḿnh thấy ḿnh cầu nguyện không được sốt mến, nhưng khách quan th́ ḿnh vẫn trưởng thành hơn về đức tin đức cậy và đức mến.

iv). Cám dỗ nhiều

            Có thể xảy ra là trong một thời điểm một người cảm thấy ḿnh bị cám dỗ nhiều về một điều ǵ đó, và thường đó là điểm yếu của ḿnh, th́ người đó nên xét ḿnh để t́m coi nguyên nhân tại sao.

Do thiếu dứt  khoát chống trả hoặc thiếu t́nh yêu

            Có thể bởi v́ ḿnh thiếu dứt khoát trong việc chống trả với chước cám dỗ , và như vậy t́nh yêu của ḿnh đối với Thiên Chúa đă bị giảm sút.

            Trong trường hợp này hăy xin lỗi Chúa, và bắt đầu sống quảng đại hơn với Chúa trong từng giây phút sống.

Cũng là dịp để lập công, để nên thánh hơn

            Khi c̣n sống trong thân xác, chúng ta c̣n bị cám dỗ và thử thách; những cám dỗ đó có thể là những dịp để chúng ta diễn tả t́nh yêu của ḿnh với Thiên Chúa cách cụ thể hơn.

            Không ai được miễn trừ khỏi bị cám dỗ và thử thách:

·        Đức Yêsu không chỉ bị cám dỗ trong hoang địa (Mt.4,1-11), Ngài c̣n bị thách thức để làm những phép lạ từ trời, bị cám dỗ và thử thách trong vườn dầu (Mc.14,32tt),bị thử thách cả về đức tin ngay trên thập giá (Mc.15,34);

·        Đức Maria không chỉ thưa tiếng xin vâng trong biến cố truyền tin (Lc.1,26tt), nhưng c̣n thưa tiếng xin vâng trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong biến cố Mẹ đứng dưới chân thập giá;

·        Thánh Phaolô đă ba lần xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt Ngài, nhưng Ngài được trả lời “ơn Ta đủ cho con” (2Cor.12,7-9).

            Thử thách và cám dỗ trong cuộc sống tại thế, là thuộc thân phận làm người của chúng ta; chúng ta hăy chấp nhận, và can đảm đương đầu đểø vượt qua. Chúa không miễn trừ cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa bảo đảm rằng nếu chúng ta tin tưởng và cậy dựa vào Ngài, th́ chúng ta sẽ chiến thắng: “Các con hăy tin tưởng, Ta đă thắng thế gian” (Yn.16,33).

c). Xét ḿnh[9]

            Xét ḿnh để nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đă ban cho ḿnh, cũng như những lỗi lầm ḿnh đă phạm, để tạ ơn và xin lỗi Thiên Chúa, để sống tốt hơn.

            Xét ḿnh là việc thiêng liêng rất quan trọng, nếu muốn tiến bộ không ngừng trong đời sống thiêng liêng và thân thiết với Thiên Chúa mỗi ngày hơn.

i). Cảm tạ Thiên Chúa v́ những hồng ân kỳ diệu

            Theo thói quen người ta vẫn cho rằng xét ḿnh chỉ nhằm nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm của ḿnh để ăn năn sám hối; tuy nhiên việc nhận ra những ơn lành Thiên Chúa ban cho ḿnh trong đời sống thường ngày rất quan trọng, để luôn sống trong ư thức và tâm t́nh Thiên Chúa luôn yêu thương và hiện diện với ḿnh.

            Nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban cho ḿnh, là dấu chỉ của một đời sống thiết thân với Thiên Chúa. Càng nhận biết hồng ân Thiên Chúa, càng thuộc về Thiên Chúa hơn.

ii). Bắt đầu lại khi thấy rơ ḿnh hơn

            Nhận ra những lỗi lầm của ḿnh để sửa đổi, là điều chính yếu của việc xét ḿnh.

            Trong xét ḿnh, chúng ta không chỉ nhằm nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm của ḿnh, nhưng c̣n nhận ra những khuynh chiều tàng ẩn của ḿnh, để có thể tránh được những lỗi phạm nghiêm trọng hơn! Tại sao tôi làm điều này chứ không phải điều kia, ngay cả khi điều tôi làm chưa phải là tội? Cái tàng ẩn hay khuynh chiều đằng sau hành động đó là ǵ?

            Tại sao tôi hay bị cám dỗ về điều này? Tại sao tôi bị cám dỗ về điều này dai dẳng và mănh liệt như vậy? Phải chăng v́ tôi chưa có thái độ hay lập trường dứt khoát với điều này (với khuynh chiều này, với tội này)?  Hay tại v́ t́nh yêu của tôi với Thiên Chúa đă bị phai lạt và giảm sút? Tôi cần nhận ra những điều đó, để có quyết định và thái độ cụ thể nhằm tiến bộ hơn nữa trong đời sống thiêng liêng.

iii). Cầu nguyện ngắn về chính đời sống ngày qua

            Nếu có nhiều giờ cho việc xét ḿnh, th́ sau khi đă nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban và những lỗi lầm ḿnh đă phạm mất ḷng Thiên Chúa, chúng ta nên dùng thời gian c̣n lại để nói chuyện thân thưa với Thiên Chúa dựa vào những hồng ân và những lỗi lầm của ḿnh. Đây là những phút cầu nguyện dựa vào đời sống ngày qua của ḿnh.

 

PHẦN BA:
TIẾN  TR̀NH  LINH  THAO

           

HOME     LINH ĐẠO     ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN       HPH1       HPH2       HPH3       HPH4       HPH5

 



[1] Quan niệm dân gian Việt Nam cũng không đồng ư quan điểm này, v́ “Đức nhân thắng số”. Một người ăn ở có đức có thể đổi được “số mạng”. Mà nếu có thể đổi số mạng, th́ không c̣n là tất định nữa! Quan niệm “Đức nhân thắng số”, là quan niệm đúng đắn, bảo vệ tự do của con người.

[2] Có người nghĩ rằng nếu Thiên Chúa biết rơ con người sẽ chống lại Ngài th́ con người đâu c̣n tự do nữa! Trước vấn nạn này chúng ta cần xác định rơ: Thiên Chúa muốn, Thiên Chúa biết, nhưng con người vẫn tự do. “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư”(1Tm.2,4): Thiên Chúa không muốn con người phạm tội nhưng con người vẫn có thể phạm tội v́ con người tự do. Thiên Chúa toàn năng toàn tri, nhưng con người vẫn tự do. Hai mệnh đề trên không mâu thuẫn nhau!

[3] “Lạy Thiên Chúa, sao Ngài nỡ bỏ con?” (Mc.15, 34)

“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc.23,46).

[4] “Thầy sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các con luôn măi”(Yn.14,16).

[5] “Yêu là cùng nh́n về một hướng”

T́nh yêu bao hàm t́nh bạn: vợ chồng gọi nhau là “bạn đời”.

[6] Các bước gợi ư cho một lần cầu nguyện:

1.        Sau khi đă chọn địa điểm tốt nhất để cầu nguyện như ḿnh thấy, đến chỗ đó, và ư thức ḿnh hiện diện trước Thiên Chúa Ba Ngôi, rồi kính cẩn chào Chúa (diễn tả với thân xác nếu không có ǵ ngăn trở).

2.        Xin Chúa Cha ban Thánh Thần của Chúa Yêsu Phục Sinh cho ḿnh , để Ngài thanh tẩy ḿnh, để Ngài giúp ḿnh bỏ những vướng bận đặc biệt trong giờ cầu nguyện này, và xin Ngài giúp ḿnh gặp gỡ Thiên Chúa.

3.        Đặt khung cảnh  (v́ thân phận con người, chúng ta đến với Thiên Chúa qua những ǵ hữu h́nh).

4.        Ơn xin (Mỗi bài cầu nguyện  đều có ơn xin;  Thao viên cần khao khát điều này trước khi xin).

5.        Điểm

6.        Tâm sự với Chúa (Sau mỗi điểm, chúng ta nên tâm sự với Chúa, chứ không nhất thiết phải chờ đến cuối giờ cầu nguyện, v́ các điểm gợi ư chỉ là phương tiện giúp chúng ta gặp gỡ và tâm sự cùng sống hạnh phúc với Chúa ).

[7] Gợi ư giúp xét gẫm:

1. Tôi được ǵ trong giờ cầu nguyện vừa qua?

B́nh an? Thư thái hạnh phúc? Sốt sắng? Được đánh động ở điểm ǵ nhất? Được ơn ǵ đặc biệt?

2. Tôi có hài ḷng với giờ cầu nguyện không?

3. Nguyên do làm tôi không hài ḷng lắm với giờ cầu nguyện?

·         Bị chia trí? Chia trí về điều ǵ? Nó có phản ánh một vướng bận hay quyến luyến lệch lạc của tôi không?

·         Thiếu quảng đại? Do thiếu t́nh yêu?

·         Mất b́nh an? Dấu chỉ có trục trặc cần sửa chính ḿnh?

4. Tâm sự với Chúa dựa vào những ơn ḿnh nhận được hay do những lỗi lầm ḿnh mắc phải.

[8] Giờ cầu nguyện không tốt, tốt, hay tốt lắm, là đánh giá chủ quan hay khách quan của người cầu nguyện hay của người hướng dẫn.

[9] Gợi ư giúp xét ḿnh:

1. Ư thức ḿnh hiện diện trước nhan Chúa và kính cẩn chào Chúa

2. Xin Thiên Chúa ban Thánh Thần để Ngài giúp ḿnh ...

3. Ơn lành

·         Xin ơn nhận ra những ơn lành ḿnh đă nhận lănh từ lần xét ḿnh lần trước cho tới bây giờ

·         Xét ḿnh để nhận ra những ơn lành đă lănh nhận

·         Tạ ơn Chúa

4. Lỗi lầm

·         Xin ơn để nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm

·         Xét ḿnh để nhận ra lỗi lầm của ḿnh từ lần xét ḿnh lần trước cho tới bây giờ

·         Ăn năn thống hối xin lỗi Chúa

5. Tâm sự thân thưa với Chúa dựa vào những ơn lành ḿnh đă nhận và những lỗi lầm khuyết điểm ḿnh đă phạm.