HOME     LINH ĐẠO     ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN       HPH1       HPH2       HPH3       HPH4       HPH5

 

 

ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

 

D. LỜI THIÊN CHÚA THỰC HIỆN SỨ MẠNG CHA TRAO PHÓ.. 1

1). Mục đích và yêu cầu. 1

2). Những bản văn dùng cầu nguyện. 2

3). Ghi chú. 3

E. NGÀY  YNHÃ.. 5

1). Mục đích yêu cầu. 5

2). Những bản văn Kinh Thánh có thể dùng cầu nguyện. 5

3). Chọn lựa. 6

4). Xét gẫm.. 8

F. CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU.. 9

1). Mục đích yêu cầu. 9

2). Bản văn Kinh Thánh được dùng. 10

G. PHỤC SINH.. 11

1). Mục đích yêu cầu. 11

2). Bản văn Kinh Thánh được dùng. 11

H. CHIÊM NIỆM ĐỂ ĐƯỢC TÌNH YÊU.. 12

1). Mục đích yêu cầu. 12

2). Xin Chúa làm cho con yêu Chúa. 12

*** ĐỂ DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN ƠN LINH THAO.. 13

1). Luôn sống đời sống thường ngày với ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện và yêu thương mình  13

2). Vui nhận Ý Chúa làm ý mình. 13

3). Hy sinh hãm mình liên lỉ 14

 

 

D. LỜI THIÊN CHÚA THỰC HIỆN SỨ MẠNG CHA TRAO PHÓ

            Chúng ta đang ở trong tuần thứ hai của Linh Thao: cầu nguyện về Ngôi Lời nhập thể, từ mầu nhiệm nhập thể cho đến ngày đức Yêsu được rước vào thành Yêrusalem cách long trọng.

1). Mục đích và yêu cầu

            “Xin hiểu biết thâm sâu về Chúa, Đấng đã làm người vì tôi, để yêu Ngài hơn và theo Ngài” (LT.104).

a). Hiểu Chúa hơn, yêu Chúa và theo Chúa hơn

            Vô tri bất mộ. Nếu càng hiểu biết về Chúa, thì sẽ càng yêu mến Chúa hơn. Cái biết ở đây không chỉ là cái biết do nghe nói, nhưng chủ yếu là cái biết thâm sâu do được cảm nghiệm.

            Thiên Chúa là ai? Là Đấng yêu tôi đến độ nhập thể làm người vì tôi. Nếu Thiên Chúa yêu tôi như vậy, tôi phải làm gì để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa đây? Chỉ có tình yêu mới đáp trả được tình yêu.

            Tình yêu được diễn tả cách cụ thể, chính Thiên Chúa đã nhập thể để phục vụ con người: “con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc.10,45); còn tôi, tôi phải làm gì để yêu Thiên Chúa đây? Tôi phải nên giống Ngài, phải theo Ngài.

b). Đồng hình đồng dạng với Chúa hơn

            Hiểu Chúa hơn, để yêu Ngài hơn và theo Ngài hơn. Đó là cách nói khác của cùng nội dung “để trở nên đồng hình đồng dạng với đức Yêsu Kitô” (Pl.3,10), “nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người, nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ cùng thống trị với Người”, “tôi sống nhưng không còn phải tôi sống, nhưng là chính đức Kitô Ngài sống trong tôi” (Gl.2,20).

            Nên giống Chúa Yêsu hơn, vì Chúa Yêsu là người mẫu của chúng ta, Ngài là thần tượng, là Đấng mà chúng ta phải bắt chước và quy chiếu về. Yêu thương là trở nên một với nhau, nếu chúng ta yêu thương Thiên Chúa, nghĩa là, chúng ta nên giống Chúa Yêsu hơn.

2). Những bản văn dùng cầu nguyện

a). Mầu nhiệm nhập thể

·        Lời đã thành xác phàm (Yn.1,1-18);

·        Nhập thể là tự hủy (Pl.2,6-11);

·        Sinh bởi người nữ (Gl.4,4-6);

·        LT.101-109

b). Đời bình thường “phi thường”

·        Lời nhập thể được giáng sinh (Lc.2,1-20);

·        Lời Thiên Chúa Nhập Thể được cắt bì và đặt tên (Lc.2,21);

·        Đức Yêsu được dâng trong đền thờ (Lc.2,22-40);

·        Trốn sang Ai-cập (Mt.2,13-23);

·        Đức Yêsu thời thơ ấu (Lc.2,39-40);

·        Đức Yêsu ở lại đền thờ (Lc.2,41-50);

·        Đức Yêsu sống một thời gian rất dài ở Nadarét (Lc.2,51-52).

c). Con đường đức Yêsu đi

·        Đức Yêsu chịu phép rửa (Mc.1,1-13);

·        Đức Yêsu chịu cám dỗ (Mt.4,1-11);

·        Trọn ngày sống cho Thiên Chúa (Mc.1,21-39);

·        Đức Yêsu luôn tìm và thực hiện Thánh Ý Cha (Yn.4,34);

·        Mối phúc thật (Mt.5,1-12);

·        Thái độ của dân chúng đối với đức Yêsu (Mc.1,32-3,12);

·        Thái độ của người thân, ký lục và biệt phái đối với đức Yêsu (Mc3,20-30);

·        Khủng hoảng sứ vụ tại Galilê (Mc.4);

·        Hạt giống âm thầm mọc (Mc.4,26-29);

·        Loan báo tin mừng bằng trừ qủy (Mc.5-6);

·        Các tông đồ không hiểu đường lối của đức Yêsu (Mc.4;6);

·        Đức Yêsu là Kitô (Mc.8,27-30);

·        Con đường đức Yêsu đi là con đường thập giá (Mc.8,31-33);

·        Ai muốn theo tôi phải vác thập giá mình (Mc.8,34-9,1);

·        Con đường đức Yêsu đi: cầu nguyện và ăn chay (Mc.9,14-29);

·        Con đường đức Yêsu đi: phục vụ (Mc.9,33-37);

·        Con đường đức Yêsu đi: yêu thương (Mc.12,28-34);

·        Tinh thần của đức Yêsu (Mc.9,38-41);

·        Không muốn hiểu bài học thập giá (Mc.10,32-45);

·        Người mù được sáng (Mc.10,46-52);

·        Những người không chấp nhận con đường đức Yêsu đi (Mc.11,15-19;12,1-12;12,13tt);

·        Đức Yêsu, con người tự do (với bạc tiền,danh vọng, tình duyên);

3). Ghi chú

            Chúng ta tìm hiểu thêm về cầu nguyện và nhận định thần loại. Trước tiên chúng ta tìm hiểu cầu nguyện như chiêm niệm, sau đó tìm hiểu về các quy luật nhận định thần loại tuần thứ hai.

a). Cầu nguyện như chiêm niệm

            Trong những bài cầu nguyện về mầu nhiệm nhập thể, giáng sinh, ..., thánh Y-nhã đều chỉ cách chiêm niệm.

i). Nhìn, nghe, quan sát, suy nghĩ để rút ích lợi

            Nhìn đức Yêsu, suy nghĩ để rút ích lợi; Nghe đức Yêsu, suy nghĩ để rút ích lợi; Quan sát cung cách hành xử của đức Yêsu, suy nghĩ để rút ích lợi: đó là cách cầu nguyện “chiêm niệm”.

            Có những đề tài cầu nguyện không thể chiêm niệm được, nhưng nếu đề tài cầu nguyện là về Chúa Yêsu, thì có thể áp dụng cách cầu nguyện chiêm niệm.

ii). Để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Yêsu hơn

            Chúng ta nhìn, nghe, quan sát, để thấy Chúa đã nhìn nghe hành xử như thế nào trong những trường hợp và tình huống khác nhau, để mình trở nên giống Thiên Chúa hơn, giống đức Yêsu hơn.

            Trở nên giống đức Yêsu hơn, nên đồng hình đồng dạng với Ngài, không phải trên bình diện thể lý, nhưng trên bình diện thiêng liêng: có con tim “nhân từ, bao dung, thương yêu” như Chúa, có ánh mắt “nhân từ, trong sáng, cảm thông” như Chúa, có cung cách hành xử “độ lượng, kiên nhẫn, cương quyết dứt khoát” như Chúa.

            Chúa Yêsu luôn là mẫu để chúng ta noi theo và bắt chước: quan điểm lập trường của Ngài, cách sống của Ngài. “Để yêu Chúa hơn và theo Ngài hơn”, đó là mục đích của những bài cầu nguyện tuần thứ hai này.

b). Nhận định thần loại

            Thiên Chúa muốn con người được sống trong tình yêu và hạnh phúc với Ngài; các thần lành cũng muốn chúng ta sống trong hạnh phúc với Thiên Chúa như các ngài; còn các thần dữ thì luôn chống đối Thiên Chúa và tìm mọi cách để làm con người sống xa Thiên Chúa.

            Khi có nguyên do, cả thần lành lẫn thần dữ đều có thể “an ủi”, nhưng nhằm mục đích trái ngược (LT.331).

i). An ủi không cần trung gian

            Chỉ có Thiên Chúa mới có thể tác động trực tiếp trên con người không cần trung gian; Điểm đặc biệt của Thiên Chúa là có thể lôi kéo con người đến với Ngài không qua trung gian, mà con người hoàn toàn tự do (LT.330).

            Chỉ có Thiên Chúa có thể can thiệp trên tự do con người; đó là lý do tại sao chúng ta cầu nguyện xin Thiên Chúa biến đổi một người, xin cho người nào đó trở lại. Làm một người trở lại, đó là khả năng chỉ có một Thiên Chúa mới có thể làm được (mà người đó vẫn hoàn toàn tự do).

            Thiên Chúa có thể dùng trung gian để biến đổi một người, và Ngài cũng có thể biến đổi một người không cần dùng trung gian, mà con người vẫn hoàn toàn tự do[1].

ii). Cầu nguyện bị giảm sút hay bất an

            Đối với một người đang tiến tới trên đàng thiêng liêng, nếu người đó biết điều gì đó là do ma qủy thì chắc chắn người đó sẽ không theo; như vậy, để làm con người đi theo đường lối tà vạy của mình, ma qủy thường hay giả dạng thần lành để dẫn đưa người đó theo lối đồi tệ của nó (LT.332).

            Nếu một ý tưởng hay một điều nào đó lúc đầu có vẻ tốt lành thánh thiện, nhưng sau đó lại làm chúng ta cầu nguyện không được: như làm chúng ta chia trí phân tâm trong cầu nguyện, làm việc cầu nguyện bị giảm sút, chúng ta thấy bối rối, không được bình an như trước, thì đó là dấu chỉ cho thấy ý tưởng hay điều đó là do ma qủy (LT.333); chúng ta hãy duyệt xét lại để rút kinh nghiệm cho lần tới, để không trúng bẫy ma qủy nữa (LT.334).

 

E. NGÀY  YNHÃ

            Trong “ngày thứ tư của tuần thứ hai” (LT.136) thánh Y-nhã đề nghị một số bài cầu nguyện (Hai Hiệu Cờ, Ba Mẫu Người, Ba Bậc Khiêm Nhường) và việc “chọn lựa bậc sống”. Tuy không phải tất cả những điều trên được làm trong một ngày, nhưng chúng ta cứ quy ước gọi tạm là “ngày Y-nhã”.

1). Mục đích yêu cầu

            Thánh Y-nhã muốn gì khi gợi ý những bài cầu nguyện nêu trên?

            Trong tất cả các bài cầu nguyện này, thánh Y-nhã đều dạy chúng ta làm ba cuộc tâm sự: một với Đức Mẹ, một với Chúa Con và một với Chúa Cha, nài xin cho mình được đứng vào dưới cờ của Chúa Yêsu bằng:

·        ơn được nghèo khó trong lòng tột bậc, và ngay cả được ơn nghèo khó thực sự nếu Chúa được tôn vinh hơn;

·        ơn chịu xỉ nhục và khinh chê để bắt chước Chúa hơn nếu điều này không gây dịp tội cho ai và không làm mất lòng Chúa.

a). Nhận thức, chọn và được chọn

            Trong bài cầu nguyện về Hai Cờ, thánh Y-nhã dạy chúng ta xin ơn nhận biết mưu mô của kẻ thù và ơn trợ giúp để tránh, cũng như ơn nhận biết đời sống chân thực mà Chúa dạy cùng ơn để bắt chước (LT.139). Trong bài Ba Mẫu Người, chúng ta xin ơn chọn điều nào làm vinh danh Chúa hơn (LT.152). Trong suy gẫm về Ba Bậc Khiêm Nhường, xin Chúa chọn mình để mình bắt chước và phục vuï Chúa hơn (LT.168).

            Như vậy chúng ta thấy, tiến trình ơn xin của các bài cầu nguyện Y-nhã đi từ xin cho mình nhận thức, đến xin cho mình chọn, và sau đó xin Chúa chọn mình vào đời sống nghèo và xỉ nhục khinh chê.

b). Để hiểu rõ hơn về con người mình

            Các bài cầu nguyện Y-nhã cho chúng ta hiểu biết hơn về con người của chúng ta: xem chúng ta đã nhận thức về con đường của đức Yêsu như thế nào, và xem chúng ta có dám chọn theo đức Yêsu nghèo và bị xỉ nhục không, xem chúng ta có sẵn sàng sống như Chúa Yêsu đã sống không?

2). Những bản văn Kinh Thánh có thể dùng cầu nguyện

Hai con đường (Tv.1);

Tôi phải làm gì (Mc.10,17-31);

Định mạng đức Yêsu (Mc.10,32-34);

Nếu thế gian ghét các ngươi (Yn.15,18-25);

Ai muốn theo Ta (Mt.16,21-28).

3). Chọn lựa

            Từ muôn thuở Thiên Chúa đã yêu thương tôi, Ngài đã tạo dựng tôi, và tôi có chỗ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ lưu tâm cách tổng quát về tôi, nhưng Ngài còn để ý lưu tâm đến từng cử chỉ hành vi biến cố của tôi (Tv.139 Lc.12,6-7); chính vì thế trong từng biến cố chúng ta có thể hỏi “Thiên Chúa muốn tôi làm gì?”.

            Nếu ngay cả việc “đi đứng nghỉ ngơi” Chúa đều biết, thì huống hồ về bậc sống của cuộc đời mình: Thiên Chúa đã có chương trình về tôi. Nếu Thiên Chúa muốn gọi và chọn tôi ở bậc sống nào, thì Ngài đã tạo dựng tôi thích hợp cho bậc sống đó.

            Lời mời gọi “sống đời sống nào đó” có thể được biểu lộ nơi lòng ao ước sống đời sống đó, hoặc có những dấu chỉ khách quan cho thấy Thiên Chúa muốn. Nếu một người khao khát sống bậc sống dâng hiến với ý hướng ngay lành[2], lòng khao khát đó có thể là dấu chỉ cho thấy Chúa gọi người đó. Nếu khát vọng này đã có khá lâu và còn tồn tại cho tới ngày nay, thì càng cho thấy “người đó được Chúa gọi” cách chắc chắn hơn. Nếu trong đời người đó có những biến cố khách quan mà người đó xác tín rằng đó chính là Chúa bảo vệ để gọi họ, thì càng chắc chắn hơn nữa rằng “Chúa gọi họ”.

a). Lựa chọn theo thánh Y-nhã

            Lựa chọn theo thánh Y-nhã, không phải là quyết định theo ý thích của mình, nhưng là chọn theo Ý của Thiên Chúa về mình.

            Lựa chọn bậc sống, không có nghĩa là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó[3], nhưng: Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó.

b). Điều kiện để làm việc lựa chọn tốt

            Trong sách Linh Thao, thánh Y-nhã đề cập đến ba thời để làm việc lựa chọn; trong thời thứ ba, thánh Ynhã nói tới hai cách làm việc lựa chọn. Tuy vậy chúng ta nên cẩn thận, không phải ai cũng làm việc lựa chọn “đúng đắn” được, nhưng chỉ những người có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa con người và vũ trụ, cũng như họ phải bình tâm thực sự, thì họ mới có thể lựa chọn “đúng đắn” được[4].

i). Nhận thức đúng đắn về mục đích đời người

            Để làm việc lựa chọn tốt, cần ý thức rõ mục đích đời người: Thiên Chúa tạo dựng con người để con người sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa, và muôn loài muôn sự được tạo dựng như phương tiện để giúp con người đi tới với Thiên Chúa.

ii). Bình Tâm

            Bình tâm là một điều kiện cần thiết để làm việc lựa chọn đúng đắn và chính xác: chọn lựa theo điều Chúa muốn chứ không phải theo ý riêng mình thích.

            Nếu không bình tâm, thì không thể chọn lựa đúng đắn được. Như vậy, chỉ nên cho những người “bình tâm” được làm chọn lựa, tức là những người chỉ muốn làm theo ý Chúa để tôn vinh Ngài chứ không tìm hoặc muốn làm theo ý mình[5].

c). Lựa chọn[6]

            Đã là người, sống thì phải lựa chọn. Lựa chọn là chính cuộc sống, là hành vi nhân linh, là hành vi tự do. Lựa chọn, bao hàm con người toàn diện, gồm cả hành vi lý trí lẫn ý chí.

i).Nhận ra ý Chúa về đời mình

            Con người có lý trí.

            Để sống hạnh phúc, đối với chính mình con người cần nhận thấy hành vi, cách sống, hay việc làm của mình hợp lý, và trong tương quan với Thiên Chúa con người cần thấy việc mình làm thuận theo Ý Chúa.

            Nhận ra Ý Thiên Chúa về mình và cảm nhận mình sống triển nở, thường hay đi đôi với nhau; sở dĩ vậy vì Thiên Chúa luôn yêu thương và luôn muốn con người sống hạnh phúc.

            Tôi lựa chọn bậc sống này, vì tôi thấy bậc sống này giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, vì bậc sống này thoả mãn khát vọng sâu xa con người tôi mà bậc sống khác không thể đáp ứng được, và như vậy tôi xác tín Chúa gọi tôi.

ii). Dứt khoát chọn

            Biết và làm, đôi khi không trùng khít với nhau nơi nhiều người. “Tri hành bất nhất”, làm cho con người không được hạnh phúc.

            Thiên Chúa muốn ai làm điều gì, thì Ngài ban cho họ có khả năng thực hiện điều đó. Nếu Thiên Chúa muốn ai thực hiện điều gì đó, thì người đó không thể nói “lực bất tòng tâm”. Như vậy, nếu một người thấy rõ mình không thể làm điều gì đó, hoặc không thểå tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình và cho mình  có khả năng làm điều đó, thì đó là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa không muốn điều đó cho họ.

            Khả năng sống điều mình xác tín, cho thấy điều xác tín có thể là Ý Chúa đối với họ. Như vậy, nếu ai tin rằng (hay thấy rằng) họ được Thiên Chúa gọi sống đời sống dâng hiến, thì trong cuộc sống cụ thể họ phải cảm thấy sống thoải mái và hạnh phúc trong đời sống dâng hiến. Không có khả năng sống đời sống dâng hiến “một cách triển nở và hạnh phúc[7]”, là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa không muốn người đó sống đời dâng hiến.

d). Dấu chỉ việc lựa chọn được làm đúng

            Nếu chúng ta làm việc lựa chọn đúng, nghĩa là nếu chúng ta chọn điều Thiên Chúa muốn cho chúng ta, thì chúng ta sẽ bình an thư thái hạnh phúc hơn, phản ánh tương quan tốt với Thiên Chúa.

            Một cách cụ thể, nếu chúng ta chọn lựa tốt, chúng ta sẽ:

·        cầu nguyện tốt, ít nhất là bằng thời gian trước khi chọn lựa[8];

·        vui hơn;

·        bình an, thư thái, hạnh phúc hơn.

4). Xét gẫm

            Xét gẫm cũng giúp chúng ta biết mình hơn, biết tương quan của mình với Chúa đang như thế nào, để mình không ảo tưởng về mình, và để mình cải thiện tình trạng hiện tại.

a). Bình Tâm

            Khi cầu nguyện về Nguyên Lý và Nền Tảng trong ngày đầu tiên, chúng ta đã xin ơn Bình Tâm: chọn Thiên Chúa và ý định của Thiên Chúa trên hết, còn những sự khác thì sao cũng được, dù là giữa nghèo và giầu, danh vọng hay xỉ nhục, ...! Hôm nay khi cầu nguyện về “ngày Y-nhã”, chúng ta đã biết giầu có, danh vọng và kiêu ngạo là những cạm bẫy của ma qủy; và nghèo khổ, xỉ nhục là con đường đích thực mà Chúa Yêsu dạy chúng ta.

            Chúng ta đã xin Chúa cho chúng ta được yêu Chúa Yêsu đến độ xin chọn nghèo và xỉ nhục với Ngài chưa?

b). Thái độ của tôi đối với nghèo và xỉ nhục

            Nghèo tinh thần là không bám víu vào tạo vật, dù là tiền bạc hay ai đó; Xin ơn nghèo tinh thần, tức là xin Chúa ơn không bám víu vào tiền bạc hay bất cứ một tạo vật nào.

            Con người có bản năng được tôn trọng. Xin ơn được xỉ nhục[9], là tự hủy, là từ bỏ chính mình với ý riêng và tất cả con người của mình.

            Chúa Yêsu nói: “phúc cho các ngươi là kẻ nghèo ... khốn cho các ngươi là kẻ giầu” (Lc.6,20.24), “phúc cho các ngươi khi người ta xỉ mạ, nói xấu các người đủ điều vì cớ Ta và vì Tin Mừng, hãy hân hoan vì phần thưởng của các ngươi lớn thật ở trên trời” (Mt.5,11-12 Lc.6,22).

            Chúng ta có tin lời đức Yêsu là chân lý, và chúng ta có muốn sống theo Lời Ngài không? Nếu chúng ta tin thật, ắt chúng ta đã xin Chúa cho chúng ta được ơn xỉ nhục và ơn nghèo thực sự! Nếu chúng ta yêu Chúa Yêsu nhiều thì chắc chúng ta đã dám xin cho được đồng hình đồng dạng với Ngài, ngay cả trong nghèo và xỉ nhục khinh chê.

c). Dứt khoát với quyến luyến lệch lạc

            Cái gì là mười ngàn dollars của tôi?

Mười ngàn dollars của tôi có thể không là tiền bạc, nhưng có thể là tương quan với ai đó, hay một địa sở, một nghề nghiệp, một công việc, một tặng vật nào đó, v.v.

            Trong qúa khứ tôi ở mẫu người thứ mấy?

            Và hiện tại tôi ở mẫu người thứ ba không?

d). Mức độ tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa

            Không phạm tội trọng, không muốn làm mất lòng Chúa và bình tâm, yêu Chúa đến độ muốn trở nên giống Chúa trong khó nghèo khổ nhục: đó là ba cấp độ của tình yêu (LT.165-167).    Tôi có muốn được liệt vào số những người muốn trổi trang trong việc phụng sự Chúa, tức những người yêu Chúa trong cấp độ khiêm nhường thứ ba không? Tôi có chọn nên giống Chúa Yêsu hơn không, nghĩa là chọn nghèo với Chúa nghèo hơn là được giầu sang, chọn bị xỉ nhục và khinh chê với Đức Yêsu bị xỉ nhục và khinh chê hơn là được tôn trọng, chọn bị coi là ngu dại với Chúa Kitô bị coi là ngu dại hơn là được coi là khôn ngoan thông thái ở đời không?

 

F. CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU

            Tuần thứ ba của Linh Thao cầu nguyện về đức Yêsu chịu khổ hình. Đức Yêsu đối diện biến cố khổ nạn với tất cả sự run en sợ sệt như chúng ta mọi đàng, nhưng Ngài sẵn sàng vâng theo Ý Cha vì yêu thương Cha và yêu thương con người.

            Cố gắng đi vào tâm tình của đức Yêsu trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời tại thế này. Ngài tê tái lòng biết bao khi thấy một người thân yêu sẽ phản bội và nộp Ngài: tình yêu của Ngài bị từ khước, bị phản bội. Ngài đã ghê sợ thập giá và cái chết, đặc biệt trong vườn dầu, nhưng Ngài đã vâng lời cho đến chết mà không một lời oán than. Hãy đi vào tâm tình của đức Yêsu, và ý thức rằng: chính vì tôi và cho tôi mà đức Yêsu đã chấp nhận tất cả những sự ấy.

            Tình yêu không hoàn toàn được diễn tả bằng lời nói nhưng chủ yếu bằng việc làm. Trong cuộc sống tại thế này, dường như thập giá gắn liền với tình yêu: thập giá là cách thế tuyệt diệu diễn tả tình yêu. Không thể hiểu được thập giá nếu không nhìn trong nhãn quan tình yêu.

1). Mục đích yêu cầu

            Hiểu Chúa, để yêu Chúa và theo Chúa hơn. Chúa đã chết vì yêu tôi, tôi phải làm gì và phải có thái độ nào đối với Người yêu tôi dường ấy?

            Xin cho mình hiểu nỗi đau buồn của Chúa (Yn.13 Mc.14); tại sao Chúa phải chịu đau khổ cô đơn[10] như vậy? Phải chăng Chúa chịu tất cả những điều đó vì yêu thương tôi vô cùng?

            Xin cho mình cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đối với mình; xin cho mình yêu lại Chúa đến độ ao ước được chia sẻ nỗi đau buồn của Chúa, muốn được đồng hình đồng dạng với Đấng yêu thương mình vô cùng như vậy.

            Thánh Y-nhã dạy: “xin cho mình được đau đớn, hối hận và xấu hổ, vì chính bởi tội tôi mà Chúa phải bị khổ hình như vậy” (LT.193); “xin cho mình được đau đớn với Chúa Kitô thống khổ, tan nát cõi lòng với Chúa Kitô tan nát tâm hồn, được ơn khóc lóc và đau đớn trong lòng vì bao đau đớn mà Chúa Kitô đã chịu vì tôi” (LT.203).

2). Bản văn Kinh Thánh được dùng

            Chúng ta có thể dùng những đoạn Kinh Thánh sau, hoặc dùng những đoạn nào theo như mình thấy thích hợp:

·        Aâm mưu giết đức Yêsu (Mc.14,1-2.10-11);

·        Làm sao Ta có thể quên ngươi (Hs.11,1-9);

·        Ta tự mình hiến mạng sống Ta (Yn.10,17-31);

·        Yêu thương là phục vụ (Yn.13,1-17);

·        Yêu thương là hiến dâng (Lc.22,14-20);

·        Hãy tin Thầy, hãy yêu Thầy (Yn.14,1-15,8);

·        Hãy ở lại trong tình yêu Thầy (Yn.15,9-17);

·        Báo trước Phêrô chối Thầy (Mc.14,26-31);

·        Đức Yêsu chiến đấu với chính mình ở vườn dầu (Mc.14,32tt);

·        Yuđa nộp Thầy bằng “dấu chỉ tình yêu” (Mc.14,43-52);

·        Đức Yêsu bị xử trước tòa Do Thái (Mc.14,53-65);

·        Phêrô chối Chúa (Mc.14,66-72);

·        Đức Yêsu bị xử trước tòa Roma (Yn.18,28-19,16);

·        Đức Yêsu trước tòa Hêrôđê (Lc.23,8-12);

·        Con đường tình yêu (Mc.15,15-32);

·        Đức Yêsu trên thập giá (Mc.15,33-41);

·        Đức Mẹ dưới chân thập giá (Yn.19,25-27);

·        Chứng nhân thinh lặng;

·        Sinh thì và táng xác (Mc.15,37-47);

·        Tâm tình của những người yêu thương đức Yêsu trong những ngày khổ nạn;

·        Tv.22;

·        Đức Yêsu, người tôi tớ chết thay nhiều người (Ys.52,13-53,12);

·        Đức Yêsu chu toàn sứ mạng dù phải chết thập giá (Pl.2,6-11).

 

G. PHỤC SINH

            Chúng ta bước sang tuần thứ tư của Linh Thao: cầu nguyện về đức Yêsu Phục Sinh.

            Khi đức Yêsu còn tại thế và trước cuộc khổ nạn, chưa có ai biết rõ đức Yêsu là Thiên Chúa. Dù Ngài đã ba lần loan báo rằng Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đòn, bị giết và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại; nhưng khi Ngài bị bắt và chết, không có ai tin Ngài sẽ sống lại; thậm chí khi Ngài đã sống lại và hiện ra cho các phụ nữ, và họ đi báo tin cho các tông đồ, thế mà các tông đồ cũng không tin (Mc.16,9-11).

            Để tin đức Yêsu đã sống lại, có lẽ không tuyệt đối cần các tông đồ[11]; nhưng để tin đức Yêsu là Thiên Chúa, chắc chắn cần lời chứng của các tông đồ[12].

            Chính nhờ tin vào đức Yêsu Phục Sinh mà các tông đồ nhận biết Thánh Thần là Thiên Chúa: nhờ Thánh Thần đức Yêsu trao ban khi Ngài hiện ra cho các tông đồ (Yn.20,22) mà các tông đồ nhận biết đức Yêsu là Thiên Chúa, và cũng nhờ đức Yêsu Phục Sinh mà các tông đồ nhận biết Thánh Thần là Thiên Chúa.

1). Mục đích yêu cầu

            Thánh Y-nhã viết trong LT.221: “Xin điều tôi ao ước. Ở đây xin ơn để cảm nghiệm sâu xa và mãnh liệt niềm hân hoan và vui mừng vì vinh quang và vui mừng của đức Kitô Chúa chúng ta”.

            Niềm vui mừng và hân hoan ở đây là niềm vui mừng và hân hoan tận thâm sâu trong tâm hồn, do cảm nghiệm Chúa đã phục sinh, nhờ đó niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng Trung Tín được củng cố; và một khi tin Chúa Phục Sinh là Thiên Chúa, con người chúng ta nhận biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và như vậy chúng ta hân hoan và vui mừng.

            Niềm hân hoan và vui mừng này không ai có thể lấy mất được, vì “dù thiên thần thiên phủ, dù hiện tại tương lai, dù chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô” (Rm.8,38-39).

2). Bản văn Kinh Thánh được dùng

            Dù Kinh Thánh không nói Chúa Phục Sinh hiện ra cho Mẹ Maria, nhưng thánh Y-nhã đề nghị chiêm niệm “Chúa Phục Sinh hiện ra cho Mẹ” (LT.218-225). Nếu ai chấp nhận quan điểm của thánh Y-nhã, thì có thể cầu nguyện dựa vào bài chiêm niệm trên và những đoạn Kinh Thánh sau, còn nếu không chấp nhận thì có thể chỉ dùng những bản văn Kinh Thánh để cầu nguyện mà thôi.

            Các bản văn Kinh Thánh được đề nghị:

·        Chúa Phục Sinh hiện ra với chị Maria Magdala (Yn.20,11-18);

·        Chúa Phục Sinh hiện ra cho các tông đồ và trao phó sứ mạng (Yn.20,19-23);

·        Chúa Phục Sinh đổi đời hai môn đệ Emmau (Lc.24,13-35);

·        Chúa Phục Sinh củng cố đức tin của Thomas (Yn.20,24-29);

·        Chúa Phục Sinh chăm sóc các tông đồ bên bờ hồ Galilê (Yn.21,1-14);

·        Cứng lòng và ngoan cố trước biến cố Đức Yêsu Phục Sinh (Mt.28,11-15);

·        Chúa Yêsu Phục Sinh lên trời (Cv.1,6-11);

·        Chúa Yêsu Phục Sinh luôn ở với chúng ta (Mt.28,16-20);

·        Chúa Phục Sinh hứa ban Thánh Thần (Yn.14,15-26);

·        Thánh Thần sẽ làm chứng về Ta (Yn.15,26-16,15);

·        Thánh Thần tỏ hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv.2,1-41);

·        Nhân danh đức Yêsu Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi (Cv.3,1-26);

·        Phêrô làm chứng cho Chúa Yêsu Phục Sinh trước chính quyền (Cv.1-22);

·        Từ khi biết Đức Yêsu Kitô, tôi coi tất cả như phân bón (Pl.3,1-4,1).

 

H. CHIÊM NIỆM ĐỂ ĐƯỢC TÌNH YÊU

            Đây là bài cầu nguyện cuối cùng trong sách Linh Thao của thánh Y-nhã.

1). Mục đích yêu cầu

            “Xin ơn nhận biết thâm sâu về tất cả ơn lành mình đã lãnh nhận, để rồi một khi đã nhận ra thì mình có thể yêu mến và phụng sự Chúa Chí Tôn trong mọi sự” (LT.233).

            Làm sao để cảm nhận Thiên Chúa luôn hiện diện và yêu thương mình trong từng giây phút của cuộc sống, để rồi mình yêu lại Chúa và phục vụ Ngài trong mọi nơi mọi lúc, đó là mục đích của bài cầu nguyện này.

2). Xin Chúa làm cho con yêu Chúa

            Yêu là trao tặng người yêu những gì mình có (LT.231). Nếu Thiên Chúa đã tặng ban cho chúng ta tất cả, ngay cả những gì qúy nhất với Ngài là Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì chúng ta phải dâng gì lại cho Chúa đây?

            Với “kinh dâng hiến”, thánh Y-nhã dạy chúng ta dâng tất cả cho Thiên Chúa, và chỉ xin Ngài một điều duy nhất “XIN LÀM CHO CON YÊU CHÚA, và ơn đó là đủ cho con” (LT.234).

 

*** ĐỂ DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN ƠN LINH THAO

            Một bận tâm của người làm Linh Thao “đạt kết qủa” là, làm sao để duy trì và phát triển ơn Linh Thao?

            Đây là một bận tâm rất chính đáng!

            Linh Thao không là kết thúc hay điểm cực đại của đời sống thiêng liêng, nhưng nó là khởi đầu của một giai đoạn sống mới thân thiết hơn với Chúa và quảng đại hơn với anh chị em.

            Nguyên tắc tổng quát: mỗi ngày tiếp tục làm điều đã tập trong thời gian Linh Thao. Một cách cụ thể, luôn sống với ý thức Chúa đang hiện diện với mình và yêu thương mình, chấp nhận mọi biến cố xảy tới với mình trong niềm tin “Thiên Chúa có thể làm nó thành tốt đối với mình”, hy sinh liên lỉ nhất là giữ gìn ngũ quan để luôn kết hiệp với Chúa.

1). Luôn sống đời sống thường ngày với ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện và yêu thương mình

            Tâm tình của Thánh Vịnh 139 (138): Thiên Chúa luôn yêu thương và nhìn xem săn sóc mình. Chúa Yêsu dạy: “Chúa Cha và Ngài luôn ở với chúng ta” và “Thánh Thần luôn ở với chúng ta” (Yn.14,23.16). Thiên Chúa luôn ở với chúng ta vì Ngài yêu thương ta. Chúng ta cần ý thức rõ điều này, để luôn sống với tâm tình Thiên Chúa luôn hiện diện với mình.

            Nếu Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, chúng ta đâu còn cô đơn nữa; cho dù tất cả có bỏ chúng ta thì Thiên Chúa vẫn không bao giờ bỏ chúng ta: Người luôn yêu thương chúng ta.

            Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như vậy, chúng ta còn sợ gì nữa? Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như vậy, chúng ta không cảm thấy yên tâm và hạnh phúc sao?

            Sống tâm tình Chúa luôn hiện diện, là đã khởi đầu giờ cầu nguyện liên lỉ.

2). Vui nhận Ý Chúa làm ý mình

            Thiên Chúa vẫn nói với chúng ta mỗi ngày bằng nhiều hình thức khác nhau: qua lương tâm, những gì lý trí nhận thấy qua những biến cố, ngay cả những biến cố trái ý mình, lời nói của người này người kia, trang sách này tập vở kia. Như vậy, chúng ta phải lắng nghe Chúa qua mọi dấu chỉ trong cuộc sống, trong từng biến cố của cuộc sống thường ngày.

            Lắng nghe và thực hiện Ý Chúa, chấp nhận và lấy Ý Chúa làm ý mình, đó là kết hiệp với Thiên Chúa trong hành động.

            Giờ cầu nguyện chính thức là cao điểm của giờ cầu nguyện liên lỉ suốt này; kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện là cao điểm của tiến trình kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày.

3). Hy sinh hãm mình liên lỉ

            Từ bỏ mình liên lỉ, quảng đại với Chúa, sẽ giúp mình dễ dàng cầu nguyện hơn, dễ dàng gặp Thiên Chúa hơn.

            Từ bỏ mình, chấp nhận trái ý vì ích lợi của tha nhân, giữ gìn ngũ quan để luôn sống thân thiết với Thiên Chúa, luôn vâng phục thánh ý Chúa trong từng biến cố nhỏ, chọn Thiên Chúa trên hết, là dấu chỉ cho thấy mình đang thuộc về Thiên Chúa.

            Linh Thao chỉ là khởi đầu của một giai đoạn mới trong đời sống thiêng liêng. Xin Chúa giúp chúng ta quảng đại với Chúa, để chúng ta tăng trưởng mỗi ngày một hơn về đời sống thiết thân với Chúa, bằng:

·        ý thức liên lỉ Thiên Chúa luôn yêu thương và hiện diện với chúng ta,

·        sẵn sàng vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa,

·        từ bỏ mình,

·        xét mình và xét gẫm mỗi ngày.

 

 

AD MAIOREM DEI GLORIAM

CHO VINH DANH CHÚA HƠN

14.03.1995

25.04.95

19.06.95

LNC

141252

 

 

HOME     LINH ĐẠO     ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN       HPH1       HPH2       HPH3       HPH4       HPH5

 



[1] Với tác động của Thiên Chúa, tự do của con người luôn được bảo toàn.

                “Xin thánh ... làm cho người em con trở lại”. Thánh... không thể làm được điều này nếu “em con” không đồng ý; nhưng Thiên Chúa có thể làm được mà người “em con” vẫn hoàn toàn tự do.

[2] Không vị lợi, có cái nhìn trưởng thành về đời sống gia đình và dâng hiến, không bị quyến luyến lệch lạc chi phối.

[3] Lấy con người cảm tính của mình làm tiêu chuẩn chọn lựa.

[4] Như vậy không nên lạm dụng cách chọn lựa theo thánh Y-nhã, như thể cứ làm theo cách thức đó, thì đã là làm việc lựa chọn đúng đắn!

[5] Nếu ai đó không bình tâm mà làm lựa chọn, thì cuộc chọn lựa đó không được coi là cuộc chọn lựa có giá trị.

[6] Ở một nghĩa nào đó, không quyết định cũng là quyết định, không chọn lựa cũng là chọn lựa.

                Nếu không thấy rõ thì đừng quyết định. Cụ thể, trong trường hợp lựa chọn bậc sống, nếu không thấy rõ Chúa muốn mình sống bậc sống khác, thì cứ sống trong bậc sống mình đang sống.

[7] Điều này không muốn nói rằng người đó không bị đau khổ hoặc thập giá trong cuộc sống.

[8] Đương nhiên phải hiểu là nếu chúng ta vẫn quảng đại với Chúa: vẫn luôn kết hiệp với Chúa liên lỉ trong suốt ngày sống, vẫn luôn giữ tâm trí và giữ gìn ngũ quan.

                Nếu sau chọn lựa mà chúng ta cầu nguyện dở hơn trước dù chúng ta vẫn quảng đại với Chúa như trước, thì phải tìm nguyên do, cũng có thể tại mình chọn điều Chúa không muốn.

[9] Xin nghèo là từ bỏ những gì ngoài mình; xin xỉ nhục khinh chê là từ bỏ chính mình. Nhiều người có thể xin được nghèo nhưng không dám xin được xỉ nhục với Chúa.

[10] Như thể Chúa Cha cũng bỏ Ngài (Mc.15,34).

[11] Nếu ai đó tin lời chị Maria Magdala (Yn.20,18), thì biết đức Yêsu đã sống lại, mà không cần nhờ lời chứng của các tông đồ.

[12] Chính vì thế, Hội Thánh Công Giáo tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. “Hội Thánh được xây trên nền tảng các tông đồ”, dĩ  nhiên khi nói như vậy, vẫn phải hiểu: Hội Thánh có nền tảng là chính Thiên Chúa.