HOME     LINH ĐẠO     LINH THAO MƯỜI NGÀY       LTMN1       LTMN2       LTMN3       LTMN4       LTMN5      LTMN6

 

LINH THAO MƯỜI NGÀY
NHỮNG  ĐIỂM  GỢI  Ý  GIÚP  CẦU  NGUYỆN

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

TUẦN MỘT. 1

TỘI 1

23. Tội (LT.45-53) 1

1. Không phục tùng Thiên Chúa. 2

2. Không tin vào Thiên Chúa nữa (Stk.3,1tt) 2

3. Từ chối thúc đẩy của Thánh Thần mời gọi hoán cải 2

24. Tội tôi (LT.55-61) 2

31. Hồi niệm (hai bài Tội và Tội tôi) 2

32. Trở nên con cái Thiên Chúa (Mt.25,31 tt) 3

1. Thiên Chúa là Tình Yêu. 3

2. Đức Yêsu đồng hóa mình với những người khốn cùng, nghèo hèn nhất 3

3. Tiêu chuẩn Thiên Chúa phán xét trong ngày Ngài quang lâm: yêu thương  3

33. Để được tự do hơn. 4

1. Ý nghĩa đời sống dâng hiến. 4

2. Lời khấn khó nghèo. 4

3. Lời khấn trinh khiết 5

4. Lời khấn vâng phục. 5

5. Đời sống cộng đoàn. 5

34. Những người mù thiêng liêng (Yn.9,1tt) 5

1. Tật mù  của người biệt phái 6

2. Cha mẹ người mù “khôn qúa” nên không dám nói sự thực. 6

3. Thái độ của người mù. 6

41. Chị phụ nữ thống hối (Lc.7,36tt) 6

1. Tâm tình và cung cách hành xử của chị phụ nữ.. 6

2. Thái dộ của người biệt phái 7

3. Tâm tình và thái độ của đức Yêsu. 7

42. David thống hối (Tv.51/50) 7

TUẦN HAI 7

 

TUẦN MỘT

TỘI

23. Tội (LT.45-53)

Khung cảnh

            Như thể thấy Đức Yêsu bị đánh đòn, Ngài cảm thấy rất đau. Người ta đã hành hạ và cố tình làm Ngài đau khổ ...

Ơn xin

            Xin cho mình ơn nhận biết bản chất của tội, và ơn xấu hổ ngượng ngùng vì bao nhiêu tội mình đã phạm.

Điểm

1. Không phục tùng Thiên Chúa

            Thiên thần được tạo dựng trong ân nghĩa với Thiên Chúa, nhưng có một số thiên thần không tùng phục Thiên Chúa, họ muốn độc lập với Thiên Chúa, họ muốn thành tuyệt đối và tự do tuyệt đối, họ muốn bằng Thiên Chúa, họ coi Thiên Chúa là đối thủ của họ: đó là kiêu ngạo và phản loạn, và như thế là tội.

            Các thiên thần ý thức việc họ làm, một cách tự do và không hối tiếc về việc họ làm, họ chọn điều họ đã chọn một cách dứt khoát. Ngay “bây giờ”, ma qủy cũng không hối hận việc họ đã làm, và họ vẫn đang tiếp tục chọn điều họ đã chọn “ngày xưa”.

            Ngày nay, ma qủy vẫn thù ghét và chống đối Thiên Chúa như ngày xưa, và hậu qủa là hỏa ngục. Tội và hỏa ngục[1] liên hệ với nhau, đi liền với nhau như thể bóng với hình, không thể tách khỏi nhau được.

2. Không tin vào Thiên Chúa nữa (Stk.3,1tt)

            Tội, không chỉ là không vâng lời khi ăn trái bị cấm, mà chủ yếu là không tin vào Thiên Chúa nữa, tin vào ma qủy hơn tin vào Thiên Chúa (Stk.3,4-5), không tin Thiên Chúa yêu mình và muốn điều tốt cho mình.

            Không tin vào Thiên Chúa, không trông cậy và chờ đợi gì nơi Thiên Chúa, từ chối tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, đó là tội.

            Khi con người không tin vào Thiên Chúa, thì con người cũng không thể tin vào nhau, và nhìn nhau với cặp mắt nghi kỵ (Stk.3,12-13). “Không Trời ai sống được với ai!?”: Adam trách Evà, Evà đổ tội cho con rắn.

            Sau khi phạm tội, con người muốn trốn Thiên Chúa; không muốn nhận sự thật về chính mình, đổ tội cho người khác; tìm lý do biện minh.

3. Từ chối thúc đẩy của Thánh Thần mời gọi hoán cải

            Nếu ai đó chỉ phạm một tội thôi, một cách ý thức tự do và dứt khoát, không hối hận cho đến giờ chết, thì người đó phải sa hỏa ngục, và đáng sa hỏa ngục.

            Thực ra khi phạm tội như vậy, dù người đó chưa sa “hỏa ngục”, nhưng họ cũng đang ở hỏa ngục rồi, nghĩa là, người đó đang bất hạnh và không muốn thoát khỏi tình trạng đó, dù Thiên Chúa đã bao lần đề nghị, thúc đẩy người đó trở lại với Ngài.

            Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, Ngài muốn con người hạnh phúc. Chính con người tạo hỏa ngục cho mình, cho dù Thánh Thần Thiên Chúa đã bao lần thúc đẩy mời gọi họ trở lại với Thiên Chúa.

Tâm sự

            Nhìn Chúa Yêsu chết trên thập giá, tìm hỏi tại sao Ngài đã nhập thể, sinh ra nghèo hèn, sống đơn sơ đạm bạc, rao giảng trong cảnh nghèo, và cuối cùng chết ô nhục trên thập giá như vậy, rồi xem tôi đã làm gì cho Chúa, tôi đang làm gì cho Chúa và tôi sẽ làm gì cho Chúa?

            Hãy nói với Chúa những gì mình phải thân thưa với Chúa.

24. Tội tôi (LT.55-61)

Khung cảnh

            “Tinh thần thì lanh lẹ nhưng xác thịt thì yếu nhược” (Mc.14,38). Nhìn vào chính con người mình và ý thức rõ: tôi là tinh thần với thể xác, xác thịt có những đòi hỏi của xác thịt, và có nhiều lúc tôi phải rất vất vả để vượt qua.

Ơn xin

            Khao khát xin ơn cảm nhận rõ mình là tội nhân, và ơn cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, để mình trở lại với Chúa và thuộc trọn về Chúa.

Điểm

            Theo sát chỉ dẫn của thánh Y-nhã để cầu nguyện bài này, và đây là bài cầu nguyện phải cầu nguyện đủ năm điểm như thánh Y-nhã chỉ, đặc biệt là điểm thứ năm.

Tâm sự

            Thân thưa với Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng yêu thương tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta.

31. Hồi niệm (hai bài Tội và Tội tôi)

Khung cảnh

            Như thể hiện diện trên đồi Calvê buổi chiều hôm đó, nhìn Chúa chết thảm khốc cho tôi vì yêu tôi.

Ơn xin

            Khao khát xin ơn nhận rõ về con người thực của mình, ơn cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình, ơn trở lại và khao khát thuộc trọn về Thiên Chúa.

ĐiểmTâm sự

            Như thánh Y-nhã chỉ trong LT.62-63.

            Lưu ý về quyến luyến lệch lạc:

Quyến luyến lệch lạc là gắn bó với một tạo vật nào đó không như Thiên Chúa muốn, nó có thể dẫn chúng ta  tới tội nếu chúng ta dứt khoát từ bỏ nó, chẳng hạn mình gắn bó qúa với ai đó, vật gì đó, địa sở, chức vị hay nghề nghiệp nào đó, v.v..

32. Trở nên con cái Thiên Chúa (Mt.25,31 tt)

Khung cảnh

            Như thể hiện diện trong ngày Chúa quang lâm cùng các thiên thần, thấy Chúa phân tách kẻ dữ người lành như thể người ta phân tách dê khỏi chiên.

Ơn xin

            Khiêm tốn nhận thực rằng mình là tội nhân, đã không sống giống Thiên Chúa, không sống như Thiên Chúa muốn. Xin cho mình lòng thống hối, khao khát bắt đầu một đời sống mới, sống như Thiên Chúa muốn, sống như những người con giống Cha của mình là Thiên Chúa.

Điểm

1. Thiên Chúa là Tình Yêu

            Thánh Yoan tông đồ diễn tả “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Yn.4,8.16). Thiên Chúa là Đấng chỉ biết yêu, hay đúng hơn: Ngài làm tất cả vì tình yêu. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (1Tm.2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được hạnh phúc, ở đời sau và ngay cả ở đời này nữa.

            Vậy giải thích làm sao “Thiên Chúa là tình yêu”, khi Ngài tạo hỏa ngục để phạt các thần dữ và con người không phục tùng Người?
Không loại trừ hỏa ngục là nơi để các thần dữ và bè lũ của nó phải đau khổ ở trong đó; nhưng nếu chỉ hiểu hỏa ngục là một ngục đầy lửa để phạt các thiên thần dữ, thì hiểu làm sao khi “...đối thủ của anh em là ma qủy như sư tử rống, nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai” (1Pr.5,8). Nếu ma qủy là thiêng liêng, thì lửa hữu hình đâu có tác động gì? Hơn nữa, nếu Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, thì trong hỏa ngục Thiên Chúa cũng hiện diện, phải chăng hỏangục cũng đốt Thiên Chúa?
Hỏa ngục còn được hiểu như một tình trạng đau khổ bất hạnh cho một ngôi vị, dù đó là thiên thần hay con người chống đối Thiên Chúa hay phủ nhận tình yêu của Ngài. Cũng tương tự hai người thù ghét nhau thì bất hạnh và đau khổ khi ở gần nhau, những người thù ghét Thiên Chúa cảm thấy đau khổ bất hạnh vì Thiên Chúa luôn luôn hiện diện ở khắp nơi. Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục để phạt các thiên thần dữ và con người phản bội, chính họ tạo ra hỏa ngục cho chính họ.

2. Đức Yêsu đồng hóa mình với những người khốn cùng, nghèo hèn nhất

            Khi Phaolô trên đường đi Đama tìm bắt các kitô-hữu để đem về Yêrusalem, dọc đường ông bị té ngựa, và có tiếng từ trời “Sa-ul, Sa-ul, sao ngươi bắt bớ Ta?”; Sa-ul hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”; Tiếng đáp rằng: “Ta là Yêsu, ngươi đang tìm bắt...”(Cv.9,5). Phaolô lúc đó đâu có tìm bắt đức Yêsu, ông đang tìm bắt các kitô-hữu, tức những người tin vào đức Yêsu thôi; nhưng ở câu trả lời, đức Yêsu đã đồng hóa mình với các kitô-hữu đang bị bắt bớ.

            Còn trong trình thuật của Mt.25,31-46 này, đức Yêsu đồng hóa mình với những kẻ khốn nạn nghèo hèn nhất, những người cần chúng ta giúp đỡ nhất (Mt.25,40.45). Ai làm cho một trong những kẻ nghèo hèn này, là làm cho chính Chúa Yêsu.

3. Tiêu chuẩn Thiên Chúa phán xét trong ngày Ngài quang lâm: yêu thương

            Thiên Chúa không phán xét dựa vào công việc người đó làm, hay chức vụ người đó giữ, hay nơi chốn người đó ở, hay địa vị người đó có; nhưng Ngài phán xét con người dựa vào lòng yêu thương người đó có đối với Thiên Chúa và tha nhân.

            Thiên Chúa phán xét, xem tôi có yêu thương tha nhân, những người khốn cùng cần đến sự giúp đỡ của tôi không?

            Những người cần đến tôi là ai?

·        Trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, là kẻ bị đánh nằm dọc đường;

·        Trong cộng đoàn của tôi, là những người cảm thấy bị cô độc bỏ rơi, là những người có ác cảm với tôi mà họ không vượt thắng được chính họ, là những người đang bị khủng hoảng;

·        Trong môi trường của tôi, là những kẻ cần tới sự giúp đỡ của tôi để phát triển, để trưởng thành hơn, để hạnh phúc hơn.

            Đức Yêsu, trong buổi tối cuối cùng, Ngài đã nói: “các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Yn.13,34), “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Yn.13,35). Mười giới răn của Thiên Chúa tóm lại trong hai điều “trước kính mến Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu anh em như mình ta vậy”, nói tóm lại, mười giới răn của Thiên Chúa cũng chỉ tóm lại trong một giới răn yêu thương mà thôi.

            Ai yêu thương thì nên giống Thiên Chúa, ai thù ghét anh em thì nên giống ma qủy. Thiên Chúa là Tình Yêu, là Đấng chỉ biết yêu thương; và ai yêu thương, thì là con cái Thiên Chúa, vì họ giống Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa, mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối (1Yn.4,20).

Tâm sự

            Xin Chúa cho mình nhận ra con người thực của mình, đã bao phen hành xử không giống Thiên Chúa là Cha của mình. Xin cho mình lòng ăn năn thống hối thật, để từ đây mình yêu Thiên Chúa hơn và yêu anh em hơn, để mình được giống Thiên Chúa hơn và hạnh phúc hơn.

 

33. Để được tự do hơn[2]

Khung cảnh

            Nhớ lại ngày khấn long trọng nhất của mình, và tâm trạng thái độ sống đời dâng hiến của mình lúc bấy giờ.

Ơn xin

            Xin cho mình nhận ra con người thật của mình: một người không chung thủy giữ lời mình đã khấn hứa với Thiên Chúa; xin cho mình cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với mình, Ngài đang mời gọi mình trở lại với Ngài, và xin cho mình ơn thống hối trở lại với Ngài để sống một đời sống mới thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.

Điểm

1. Ý nghĩa đời sống dâng hiến

            Khi hai người yêu nhau, họ cho nhau những gì họ có; và tột đỉnh, họ cho nhau chính con người họ và cuộc đời nhau.

            Sống đời dâng hiến, chúng ta dâng tặng cái gì và cho ai? Chúng ta dâng tặng chính con người của chúng ta, đời sống của chúng ta cho Thiên Chúa một cách hoàn toàn ý thức và tự do.

            Chúng ta dâng hiến đời chúng ta cho Thiên Chúa bằng khấn ba lời khấn khó nghèo, trinh khiết và vâng lời; chúng ta tự nguyện chết cho chính mình và với thế gian khi thề hứa những lời khấn trên.

2. Lời khấn khó nghèo

            Ai cũng có quyền sở hữu và sử dụng của cải, vì đây là quyền tự nhiên của con người.

            Với lời khấn thanh bần, chúng ta tự nguyện muốn bắt chước ChúaYêsu, tự do với tất cả của cải vật chất.

            Chúng ta đã sống điều chúng ta khấn hứa thế nào? Phải chăng mỗi năm, chúng ta lại chẳng lấy lại một số điều chúng ta đã tự nguyện bỏ? Mỗi dịp về nhà, mỗi khi người thân quen lên thăm, người này cho người kia cho, tôi đã từ bỏ hay đã giữ lại để dùng cho chính bản thân mình? hay đã dùng theo ý riêng mình dù không  chỉ cho riêng mình?

            Tại sao tôi lấy lại một cách không chính đáng điều mà tôi đã tự nguyện bỏ, mà chính sự lấy lại này làm tôi không được tự do và trở thành nhỏ nhen ích kỷ?

3. Lời khấn trinh khiết

            Ai cũng có quyền yêu và được yêu, được có một gia đình xứng hợp.

            Là tu sĩ với lời khấn trinh khiết, chúng ta tự nguyện từ bỏ quyền yêu riêng một người và từ bỏ quyền lập gia đình, trong đó vợ chồng con cái nâng đỡ nhau để sống triển nở và hạnh phúc hơn. Không ai bắt chúng ta làm điều đó; sở dĩ chúng ta làm điều đó, bởi vì mỗi người chúng ta cảm nhận một lời mời gọi để sống riêng với Chúa và thuộc trọn về Ngài, và chúng ta đã tự nguyện đáp lời.

            Và chúng ta đã sống lời đoan nguyện của chúng ta thế nào? Tại sao với thời gian, chúng ta đã tìm và lấy lại điều mình đã tự do từ bỏ? Tại sao tôi đi tìm tình cảm của người này người kia? Tại sao tôi muốn được người này yêu người kia thương? Tại sao tôi đi tìm những điều đó, khi chính tôi đã tự nguyện từ bỏ lúc tôi hoàn toàn có quyền được có, và tôi có dư khả năng để có, bởi vì lúc đó đã có bao người thương yêu tôi? Lúc đó, tôi đã quảng đại vượt lên chính con người của mình và đã thấy mình trưởng thành hơn, cao thượng  hơn; vậy tại sao bây giờ tôi lại cư xử như vậy, tại sao tôi lại sống như vậy, khi điều này làm tôi trở thành kẻ lường gạt, kẻ nói dối, không trung thực với chính mình và với người khác?!

4. Lời khấn vâng phục

            Không phải vì tôi không có khả năng quyết định về cuộc đời tôi mà tôi khấn lời khấn vâng phục! Cũng không phải vì tôi không có lập trường, không thông minh bằng bề trên mà tôi khấn vâng phục bề trên. Có thể tôi có lập trường, và lập trường của tôi còn vững chắc và có lý hơn lập trường của bề trên, và không chừng một cách tổng quát, tôi còn thông minh hơn cả bề trên nữa, nhưng tôi vẫn khấn lời khấn vâng phục, bởi vì tôi muốn hiến trọn đời tôi cho Chúa, và để Chúa điều khiển tôi qua bề trên.

            Hôm nay tôi đã sống lời khấn vâng phục thế nào? Tại sao hôm nay tôi lại muốn bề trên phải theo ý tôi? Tại sao hôm nay tôi “càm ràm” than trách khi bề trên không làm điều hợp ý mình? Tại sao tôi còn “ngoi ngóp” muốn sống khi chính tôi đã tự nguyện chết? Tôi đã không nhất quán với chính tôí! Tại sao tôi nói một đàng qua lời khấn, rồi tôi lại muốn và làm một điều khác? Qúa tệ!

5. Đời sống cộng đoàn

            Chúng ta, những người sống dâng hiến theo cùng một linh đạo, sống cộng đoàn để nâng đỡ nhau về mọi mặt, để giúp nhau thuộc trọn về Chúa và phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Trên nguyên tắc, chúng ta đã từ bỏ tất cả và thậm chí đến cả con người chúng ta, nên chúng ta phải thương yêu nhau, và trở thành chứng nhân cho Thiên Chúa.

            Trên thực tế chúng ta đã sống đời sống cộng đoàn thế nào, chúng ta đã sống đời sống chứng tá như thế nào, khi chúng ta dạy người khác phải sống yêu thương nhau như Chúa dạy?

            Đã đành mỗi người mỗi tính nết và có những người không hợp tính nết của nhau, nhưng nếu không sống được với nhau thì qủa là “qúa dổm” và phản chứng. Nếu chúng ta không sống thoải mái được với nhau, đó là dấu chỉ cho thấy chúng ta chưa từ bỏ mình thực sự. Người bạn trong cộng đoàn của chúng ta, là bản thử nghiệm cho thấy chúng ta đã sống đời sống dâng hiến thế nào!

            Tôi có sống được với người bạn trong cộng đoàn của tôi không? Tôi có hạnh phúc thoải mái trong đời sống cộng đoàn không? Nếu không, e rằng tôi chưa thực sự sống đời sống dâng hiến!

Tâm sự

            Thân thưa với Chúa khi đã thấy con người thật của mình, xin Chúa cho mình ao ước bắt đầu một đời sống mới, thuộc trọn về Chúa hơn, bằng những hành vi từ bỏ chính mình.

34. Những người mù thiêng liêng (Yn.9,1tt)

Khung cảnh

            Như thể mình hiện diện với đức Yêsu và các tông đồ trong biến cố Chúa làm cho anh mù ngồi bên vệ đường ăn xin, được sáng.  

Ơn xin

            Khao khát xin ơn nhận biết mình với những tật mù “thành kiến” và “tiêu chuẩn là con người và sự khôn ngoan theo con người”, làm mình không thấy được sự thật và nét đẹp của Thiên Chúa và anh em. Xin ơn thống hối và khao khát thuộc trọn về Thiên Chúa.

Điểm

1. Tật mù  của người biệt phái

            Đức Yêsu đã làm phép lạ chữa lành người mù trong ngày sabbat; đối với người biệt phái, đó là điều không được phép vì họ cho rằng như thế là vi phạm ngày sabbat.

            Đầu tiên, họ không muốn tin rằng phép lạ đó đã thực sự được làm, nên họ đã gọi cha mẹ người mù tới để kiểm chứng, và sau khi cha mẹ người mù xác nhận, họ đành chịu (Yn.9,18-21).

            Phải có thái độ và lập trường nào đối với đức Yêsu đây? Đức Yêsu là người thuộc về Thiên Chúa hay là người tội lỗi? Nếu nói đức Yêsu là người tội lỗi thì làm sao giải thích được phép lạ Ngài làm, còn nếu nói đức Yêsu là người của Thiên Chúa thì làm sao giải thích việc đức Yêsu không giữ ngày sabbat? (Yn.9,16).

            Cuối cùng họ đã thống nhất với nhau,  cho rằng đức Yêsu là người tội lỗi (Yn.9,24).

            Tại sao người biệt phái không thể nhận ra được rằng đức Yêsu từ Thiên Chúa mà tới, Ngài là thánh? Phải chăng vì họ có thành kiến, vì họ không khiêm tốn đủ để nhận ra sự thật, phải chăng họ bị mù “thiêng liêng”?

2. Cha mẹ người mù “khôn qúa” nên không dám nói sự thực

            Phải chăng cha mẹ người mù không được anh mù kể lại và không biết người chữa lành mắt con mình là đức Yêsu khi họ trả lời biệt phái: “Chúng tôi xác nhận nó là con của chúng tôi, và nó sinh ra đã mù, còn làm sao nó sáng được thì xin các ông hỏi nó, nó khôn lớn rồi và có thể nói năng về mình được” (Yn.9,20-21)?

            Cha mẹ nó nói thế vì sợ người biệt phái đuổi họ ra khỏi hội đường (Yn.9,22-23)!

            “Kẻ nào chối Ta trước mặt người đời, thì con người cũng chối nó trước mặt Cha Ta, kẻ nào tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Con Người cũng tuyên xưng kẻ ấy trước mặt Cha Ta Đấng ở trên trời” (Mt.10,32-33). Trong cuộc sống thường ngày, tôi có khôn như cha mẹ người mù không? Tôi có dám nói sự thực dù những bất lợi có thể xảy tới cho tôi không?

3. Thái độ của người mù

            Mới thoạt nhìn, chúng ta tưởng anh mù là người nhu nhược không có lập trường khi anh ta để cho đức Yêsu nhổ nước bọt làm bùn xức vào mắt anh ta, và đi rửa mắt trong ao Siloam! Nhưng thực tế không phải vậy.

            Khi người biệt phái buộc anh ta phải tuyên bố đức Yêsu là người tội lỗi, anh ta đã tỏ thái độ dứt khoát và thông minh; không những thế, anh ta còn có thể  cho những người biệt phái thấy rằng họ sai lầm (Yn.9,25-34).

            Dễ dạy với Thánh Thần và sẵn sàng làm những gì Thiên Chúa thúc đẩy, sẽ làm một người trở thành người có lập trường và can đảm trưởng thành. Tôi có luôn ngoan ngùy với thúc đẩy của Thánh Thần và thực hiện Ý Thiên Chúa trong đời tôi không?

Tâm sự

            Hãy thân thưa với Chúa như mình thấy về chính mình: xin Chúa cho mình nhận biết rõ mình có những tật mù “thiêng liêng”, và xin Chúa giải phóng mình khỏi những tật mù này, xin cho mình ơn trở về với Chúa thực sự, để mình được sáng và nhận ra nét đẹp của Thiên Chúa và của anh em mình.

 

41. Chị phụ nữ thống hối (Lc.7,36tt)

Khung cảnh

            Như thể mình đang hiện diện với đức Yêsu và người biệt phái trong bữa tiệc, và mục kích cung cách cư xử của chị phụ nữ.

Ơn xin

            Ơn cảm nhận mình là tội nhân, lòng thống hối mãnh liệt trước Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình vô cùng; ơn khao khát trở về với Chúa thực sự.

Điểm

1. Tâm tình và cung cách hành xử của chị phụ nữ

            Nhìn nghe quan sát cung cách hành xử của chị phụ nữ: khóc lóc nức nở, lấy tóc lau chân đức Yêsu, hôn chân Ngài.

            Tại sao chị phụ nữ này đã làm như vậy? Hành vi thái độ này diễn tả điều gì trong tâm hồn chị? Nguyên nhân sâu xa thúc đẩy chị ta hành xử như vậy là gì?

            Để làm được điều này, chị đã phải vượt qua ngưỡng cửa nhà người biệt phái: điều này đòi chị phải rất can đảm, vì người biệt phái coi chị là người tội lỗi, và họ không muốn tiếp xúc với người tội lỗi; nếu chị bị chặn lại và đuổi ra thì sao? Tự ái của mình bị xúc phạm thì sao? Thày Yêsu không thông cảm thì sao? Tại sao chị không chờ Thày Yêsu ra khỏi nhà người biệt phái đó, rồi chị hãy tỏ lòng thống hối? Và hơn nữa, thày Yêsu hiểu lòng chị mà, tại sao phải làm vậy? Có bao nhiêu lý do để ngăn cản chị ta, nhưng tại sao chị ta đã hành xử như chị ta đã làm, thâm sâu và đáng nói trong hành động này là gì?

            Chính Thiên Chúa đang thúc đẩy nơi tâm hồn của chị, và chị đã làm như mình được thúc đẩy.

2. Thái dộ của người biệt phái

            Người biệt phái không nói thành lời nhưng nói trong lòng ông ta: “Oâng này, nếu qủa thực là một tiên tri, ắt phải biết người đàn bà rờ đến mình kia là ai và thuộc hạng nào chứ: một đứa tội lỗi” (Lc.7,39).

            Có lẽ vào địa vị ông, ông sẽ không cho chị phụ nữ được đụng chạm vào người ông, vì chị ta không đáng, vì chị ta là đứa tội lỗi. Trong câu nói, cho thấy ông ta coi thường, khinh bỉ chị phụ nữ này; và vì đức Yêsu đối xử với chị phụ nữ này như vậy, nên dường như ông ta không còn coi đức Yêsu là một tiên tri nữa.

            Cái nhìn lệch lạc về con người, ngay cả đối với người “tội lỗi”, cũng ngăn cản người ta hiểu đúng về đức Yêsu và về Thiên Chúa.

3. Tâm tình và thái độ của đức Yêsu

            Từ đầu, đức Yêsu có vẻ không bận tâm về sự xuất hiện của chị phụ nữ, và chúng ta không thấy Ngài phản ứng sao trước cách đối xử của chị phụ nữ. Thế nhưng, khi biết ý nghĩ trong lòng của người biệt phái, đức Yêsu đã bênh vực chị phụ nữ, và nhờ đó chúng ta thấy Ngài đã lưu ý và không bỏ sót một hành vi cử chỉ nào của chị phụ nữ thống hối này, và cả những gì sâu kín nơi con người của chị.

            Đức Yêsu đã đón nhận chị, đã chấp nhận con người và cách hành xử cùng tâm tình thái độ của chị. “Chị yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc.7,47).

Tâm sự

            Chị phụ nữ có thể có nhiều tội hơn tôi, nhưng kể từ giây phút đó, chị đã đổi đời, không bao giờ chị còn trở lại đường cũ nữa; còn tôi, tôi thiếu tâm tình thống hối như chị, tôi chưa ý thức được về con người tôi như chính chị đã ý thức về con người chị, và vì vậy tôi cứ ì ạch như con người hiện tại; xin Chúa ban cho mình ơn biết rõ  mình là con người tội lỗi, và ơn thống hối thực sự, để từ đây mình không bao giờ làm buồn lòng Chúa nữa.

 

42. David thống hối (Tv.51/50)

Khung cảnh

            Như thấy David mặc áo nhặm ăn chay, thống hối tội lỗi, xin Chúa tha thứ.

Ơn xin

            Xin Chúa cho mình ơn nhận biết mình tội lỗi, và ơn cảm nhận tình Chúa yêu thương, để mình thống hối thật sự, và khao khát bắt đầu một đời sống mới với Chúa.

Điểm và tâm sự

            Đọc chậm Thánh Vịnh, dừng lại suy nghĩ, và cầu nguyện với Chúa như mình thấy cần.

 

TUẦN HAI

 

HOME     LINH ĐẠO     LINH THAO MƯỜI NGÀY       LTMN1       LTMN2       LTMN3       LTMN4       LTMN5      LTMN6

 



[1] Hỏa ngục ở đây muốn chỉ tình trạng đau khổ bất hạnh hơn là một cái ngục đầy lửa, vì thiên thần thì thiêng liêng; và nếu muốn hiểu hỏa ngục  là một ngục đầy lửa, thì cũng phải hiểu hỏa ngục “thiêng liêng” trong trường hợp dành cho ma qủy này.

[2] Nếu không là tu sĩ, thì bỏ bài này.