HOME LINH ĐẠO
LINH THAO MƯỜI NGÀY LTMN1 LTMN2 LTMN3 LTMN4 LTMN5 LTMN6
LINH THAO MƯỜI NGÀY
NHỮNG ĐIỂM GỢI
Ư GIÚP CẦU NGUYỆN
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
2. Không tin vào Thiên Chúa nữa (Stk.3,1tt)
3. Từ chối thúc đẩy của Thánh
Thần mời gọi hoán cải
31. Hồi niệm (hai bài Tội và Tội
tôi)
32. Trở nên con cái Thiên Chúa (Mt.25,31 tt)
2. Đức Yêsu đồng hóa ḿnh với
những người khốn cùng, nghèo hèn nhất
3. Tiêu chuẩn Thiên Chúa phán xét trong ngày Ngài
quang lâm: yêu thương
34. Những người mù thiêng liêng
(Yn.9,1tt)
2. Cha mẹ người mù “khôn qúa” nên không
dám nói sự thực
41. Chị phụ nữ thống hối
(Lc.7,36tt)
1. Tâm t́nh và cung cách hành xử của chị
phụ nữ
2. Thái dộ của người biệt
phái
3. Tâm t́nh và thái độ của đức
Yêsu
42. David thống hối (Tv.51/50)
Khung cảnh
Như thể
thấy Đức Yêsu bị đánh đ̣n, Ngài cảm
thấy rất đau. Người ta đă hành hạ và
cố t́nh làm Ngài đau khổ ...
Ơn xin
Xin cho ḿnh ơn
nhận biết bản chất của tội, và ơn
xấu hổ ngượng ngùng v́ bao nhiêu tội ḿnh đă
phạm.
Điểm
Thiên thần
được tạo dựng trong ân nghĩa với Thiên
Chúa, nhưng có một số thiên thần không tùng phục
Thiên Chúa, họ muốn độc lập với Thiên Chúa,
họ muốn thành tuyệt đối và tự do tuyệt
đối, họ muốn bằng Thiên Chúa, họ coi Thiên
Chúa là đối thủ của họ: đó là kiêu ngạo
và phản loạn, và như thế là tội.
Các thiên thần ư
thức việc họ làm, một cách tự do và không
hối tiếc về việc họ làm, họ chọn
điều họ đă chọn một cách dứt khoát.
Ngay “bây giờ”, ma qủy cũng không hối hận
việc họ đă làm, và họ vẫn đang tiếp
tục chọn điều họ đă chọn “ngày
xưa”.
Ngày nay, ma qủy
vẫn thù ghét và chống đối Thiên Chúa như ngày
xưa, và hậu qủa là hỏa ngục. Tội và
hỏa ngục[1]
liên hệ với nhau, đi liền với nhau như
thể bóng với h́nh, không thể tách khỏi nhau
được.
Tội, không
chỉ là không vâng lời khi ăn trái bị cấm, mà
chủ yếu là không tin vào Thiên Chúa nữa, tin vào ma qủy
hơn tin vào Thiên Chúa (Stk.3,4-5), không tin Thiên Chúa yêu ḿnh và
muốn điều tốt cho ḿnh.
Không tin vào Thiên
Chúa, không trông cậy và chờ đợi ǵ nơi Thiên Chúa,
từ chối t́nh yêu Thiên Chúa dành cho ḿnh, đó là tội.
Khi con
người không tin vào Thiên Chúa, th́ con người cũng
không thể tin vào nhau, và nh́n nhau với cặp mắt nghi
kỵ (Stk.3,12-13). “Không Trời ai sống được
với ai!?”: Adam trách Evà, Evà đổ tội cho con rắn.
Sau khi phạm
tội, con người muốn trốn Thiên Chúa; không
muốn nhận sự thật về chính ḿnh, đổ
tội cho người khác; t́m lư do biện minh.
Nếu ai đó
chỉ phạm một tội thôi, một cách ư thức
tự do và dứt khoát, không hối hận cho đến
giờ chết, th́ người đó phải sa hỏa
ngục, và đáng sa hỏa ngục.
Thực ra khi
phạm tội như vậy, dù người đó chưa
sa “hỏa ngục”, nhưng họ cũng đang ở
hỏa ngục rồi, nghĩa là, người đó
đang bất hạnh và không muốn thoát khỏi t́nh trạng
đó, dù Thiên Chúa đă bao lần đề nghị, thúc
đẩy người đó trở lại với Ngài.
Thiên Chúa không
muốn con người đau khổ, Ngài muốn con
người hạnh phúc. Chính con người tạo
hỏa ngục cho ḿnh, cho dù Thánh Thần Thiên Chúa đă bao
lần thúc đẩy mời gọi họ trở lại
với Thiên Chúa.
Tâm sự
Nh́n Chúa Yêsu
chết trên thập giá, t́m hỏi tại sao Ngài đă
nhập thể, sinh ra nghèo hèn, sống đơn sơ
đạm bạc, rao giảng trong cảnh nghèo, và cuối
cùng chết ô nhục trên thập giá như vậy, rồi
xem tôi đă làm ǵ cho Chúa, tôi đang làm ǵ cho Chúa và tôi sẽ
làm ǵ cho Chúa?
Hăy nói với Chúa
những ǵ ḿnh phải thân thưa với Chúa.
Khung cảnh
“Tinh thần th́
lanh lẹ nhưng xác thịt th́ yếu nhược”
(Mc.14,38). Nh́n vào chính con người ḿnh và ư thức rơ: tôi là
tinh thần với thể xác, xác thịt có những đ̣i
hỏi của xác thịt, và có nhiều lúc tôi phải
rất vất vả để vượt qua.
Ơn xin
Khao khát xin ơn
cảm nhận rơ ḿnh là tội nhân, và ơn cảm
nghiệm Thiên Chúa yêu thương ḿnh vô cùng, để ḿnh
trở lại với Chúa và thuộc trọn về Chúa.
Điểm
Theo sát chỉ
dẫn của thánh Y-nhă để cầu nguyện bài này,
và đây là bài cầu nguyện phải cầu nguyện
đủ năm điểm như thánh Y-nhă chỉ, đặc
biệt là điểm thứ năm.
Tâm sự
Thân thưa
với Thiên Chúa T́nh Yêu, Đấng yêu thương tha
thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta.
Khung cảnh
Như thể
hiện diện trên đồi Calvê buổi chiều hôm
đó, nh́n Chúa chết thảm khốc cho tôi v́ yêu tôi.
Ơn xin
Khao khát xin ơn
nhận rơ về con người thực của ḿnh, ơn
cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương ḿnh, ơn trở
lại và khao khát thuộc trọn về Thiên Chúa.
Điểm và Tâm
sự
Như thánh Y-nhă
chỉ trong LT.62-63.
Lưu ư về
quyến luyến lệch lạc:
Quyến luyến lệch lạc là gắn bó với
một tạo vật nào đó không như Thiên Chúa muốn,
nó có thể dẫn chúng ta
tới tội nếu chúng ta dứt khoát từ bỏ
nó, chẳng hạn ḿnh gắn bó qúa với ai đó, vật
ǵ đó, địa sở, chức vị hay nghề
nghiệp nào đó, v.v..
Khung cảnh
Như thể
hiện diện trong ngày Chúa quang lâm cùng các thiên thần,
thấy Chúa phân tách kẻ dữ người lành như
thể người ta phân tách dê khỏi chiên.
Ơn xin
Khiêm tốn
nhận thực rằng ḿnh là tội nhân, đă không
sống giống Thiên Chúa, không sống như Thiên Chúa
muốn. Xin cho ḿnh ḷng thống hối, khao khát bắt
đầu một đời sống mới, sống
như Thiên Chúa muốn, sống như những
người con giống Cha của ḿnh là Thiên Chúa.
Điểm
Thánh Yoan tông
đồ diễn tả “Thiên Chúa là T́nh Yêu” (1Yn.4,8.16). Thiên
Chúa là Đấng chỉ biết yêu, hay đúng hơn: Ngài
làm tất cả v́ t́nh yêu. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương
con người, Ngài muốn mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lư
(1Tm.2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người
được hạnh phúc, ở đời sau và ngay
cả ở đời này nữa.
Vậy giải
thích làm sao “Thiên Chúa là t́nh yêu”, khi Ngài tạo hỏa ngục
để phạt các thần dữ và con người không
phục tùng Người?
Không loại trừ hỏa ngục là nơi để các
thần dữ và bè lũ của nó phải đau khổ
ở trong đó; nhưng nếu chỉ hiểu hỏa
ngục là một ngục đầy lửa để
phạt các thiên thần dữ, th́ hiểu làm sao khi
“...đối thủ của anh em là ma qủy như sư
tử rống, nó lượn ŕnh t́m sao nuốt
được một ai” (1Pr.5,8). Nếu ma qủy là thiêng
liêng, th́ lửa hữu h́nh đâu có tác động ǵ?
Hơn nữa, nếu Thiên Chúa ở khắp mọi nơi,
th́ trong hỏa ngục Thiên Chúa cũng hiện diện,
phải chăng hỏangục cũng đốt Thiên Chúa?
Hỏa ngục c̣n được hiểu như một
t́nh trạng đau khổ bất hạnh cho một ngôi
vị, dù đó là thiên thần hay con người chống
đối Thiên Chúa hay phủ nhận t́nh yêu của Ngài.
Cũng tương tự hai người thù ghét nhau th́
bất hạnh và đau khổ khi ở gần nhau,
những người thù ghét Thiên Chúa cảm thấy đau
khổ bất hạnh v́ Thiên Chúa luôn luôn hiện diện
ở khắp nơi. Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục
để phạt các thiên thần dữ và con người
phản bội, chính họ tạo ra hỏa ngục cho
chính họ.
Khi Phaolô trên
đường đi Đama t́m bắt các kitô-hữu
để đem về Yêrusalem, dọc đường ông
bị té ngựa, và có tiếng từ trời “Sa-ul, Sa-ul,
sao ngươi bắt bớ Ta?”; Sa-ul hỏi: “Thưa Ngài,
Ngài là ai?”; Tiếng đáp rằng: “Ta là Yêsu, ngươi
đang t́m bắt...”(Cv.9,5). Phaolô lúc đó đâu có t́m
bắt đức Yêsu, ông đang t́m bắt các kitô-hữu,
tức những người tin vào đức Yêsu thôi;
nhưng ở câu trả lời, đức Yêsu đă
đồng hóa ḿnh với các kitô-hữu đang bị
bắt bớ.
C̣n trong tŕnh thuật
của Mt.25,31-46 này, đức Yêsu đồng hóa ḿnh
với những kẻ khốn nạn nghèo hèn nhất,
những người cần chúng ta giúp đỡ nhất
(Mt.25,40.45). Ai làm cho một trong những kẻ nghèo hèn này,
là làm cho chính Chúa Yêsu.
Thiên Chúa không phán
xét dựa vào công việc người đó làm, hay chức
vụ người đó giữ, hay nơi chốn
người đó ở, hay địa vị người đó
có; nhưng Ngài phán xét con người dựa vào ḷng yêu
thương người đó có đối với Thiên
Chúa và tha nhân.
Thiên Chúa phán xét,
xem tôi có yêu thương tha nhân, những người
khốn cùng cần đến sự giúp đỡ của
tôi không?
Những
người cần đến tôi là ai?
·
Trong dụ
ngôn người Samaritanô nhân hậu, là kẻ bị đánh
nằm dọc đường;
·
Trong
cộng đoàn của tôi, là những người cảm
thấy bị cô độc bỏ rơi, là những
người có ác cảm với tôi mà họ không
vượt thắng được chính họ, là những
người đang bị khủng hoảng;
·
Trong môi
trường của tôi, là những kẻ cần tới
sự giúp đỡ của tôi để phát triển,
để trưởng thành hơn, để hạnh phúc
hơn.
Đức Yêsu,
trong buổi tối cuối cùng, Ngài đă nói: “các con hăy yêu
thương nhau, như Thầy đă yêu thương các
con” (Yn.13,34), “người ta cứ dấu này mà nhận
biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu
thương nhau” (Yn.13,35). Mười giới răn
của Thiên Chúa tóm lại trong hai điều “trước
kính mến Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu anh em
như ḿnh ta vậy”, nói tóm lại, mười giới
răn của Thiên Chúa cũng chỉ tóm lại trong một
giới răn yêu thương mà thôi.
Ai yêu thương
th́ nên giống Thiên Chúa, ai thù ghét anh em th́ nên giống ma
qủy. Thiên Chúa là T́nh Yêu, là Đấng chỉ biết yêu
thương; và ai yêu thương, th́ là con cái Thiên Chúa, v́
họ giống Thiên Chúa. Ai nói ḿnh yêu Thiên Chúa, mà ghét anh em
ḿnh, th́ đó là kẻ nói dối (1Yn.4,20).
Tâm sự
Xin Chúa cho ḿnh
nhận ra con người thực của ḿnh, đă bao phen
hành xử không giống Thiên Chúa là Cha của ḿnh. Xin cho ḿnh
ḷng ăn năn thống hối thật, để từ
đây ḿnh yêu Thiên Chúa hơn và yêu anh em hơn, để
ḿnh được giống Thiên Chúa hơn và hạnh phúc
hơn.
Khung cảnh
Nhớ lại
ngày khấn long trọng nhất của ḿnh, và tâm trạng
thái độ sống đời dâng hiến của ḿnh lúc
bấy giờ.
Ơn xin
Xin cho ḿnh nhận
ra con người thật của ḿnh: một người
không chung thủy giữ lời ḿnh đă khấn hứa
với Thiên Chúa; xin cho ḿnh cảm nghiệm t́nh yêu Thiên Chúa
đối với ḿnh, Ngài đang mời gọi ḿnh
trở lại với Ngài, và xin cho ḿnh ơn thống
hối trở lại với Ngài để sống một
đời sống mới thuộc trọn về Thiên Chúa
hơn.
Điểm
Khi hai
người yêu nhau, họ cho nhau những ǵ họ có; và
tột đỉnh, họ cho nhau chính con người
họ và cuộc đời nhau.
Sống
đời dâng hiến, chúng ta dâng tặng cái ǵ và cho ai?
Chúng ta dâng tặng chính con người của chúng ta,
đời sống của chúng ta cho Thiên Chúa một cách hoàn
toàn ư thức và tự do.
Chúng ta dâng
hiến đời chúng ta cho Thiên Chúa bằng khấn ba
lời khấn khó nghèo, trinh khiết và vâng lời; chúng ta
tự nguyện chết cho chính ḿnh và với thế gian khi
thề hứa những lời khấn trên.
Ai cũng có
quyền sở hữu và sử dụng của cải, v́
đây là quyền tự nhiên của con người.
Với lời
khấn thanh bần, chúng ta tự nguyện muốn bắt
chước ChúaYêsu, tự do với tất cả của
cải vật chất.
Chúng ta đă
sống điều chúng ta khấn hứa thế nào?
Phải chăng mỗi năm, chúng ta lại chẳng
lấy lại một số điều chúng ta đă
tự nguyện bỏ? Mỗi dịp về nhà, mỗi khi
người thân quen lên thăm, người này cho
người kia cho, tôi đă từ bỏ hay đă giữ
lại để dùng cho chính bản thân ḿnh? hay đă dùng
theo ư riêng ḿnh dù không chỉ
cho riêng ḿnh?
Tại sao tôi
lấy lại một cách không chính đáng điều mà tôi
đă tự nguyện bỏ, mà chính sự lấy lại
này làm tôi không được tự do và trở thành nhỏ
nhen ích kỷ?
Ai cũng có
quyền yêu và được yêu, được có một
gia đ́nh xứng hợp.
Là tu sĩ với
lời khấn trinh khiết, chúng ta tự nguyện từ
bỏ quyền yêu riêng một người và từ bỏ
quyền lập gia đ́nh, trong đó vợ chồng con cái
nâng đỡ nhau để sống triển nở và
hạnh phúc hơn. Không ai bắt chúng ta làm điều
đó; sở dĩ chúng ta làm điều đó, bởi v́
mỗi người chúng ta cảm nhận một lời
mời gọi để sống riêng với Chúa và
thuộc trọn về Ngài, và chúng ta đă tự nguyện
đáp lời.
Và chúng ta đă
sống lời đoan nguyện của chúng ta thế nào?
Tại sao với thời gian, chúng ta đă t́m và lấy
lại điều ḿnh đă tự do từ bỏ? Tại
sao tôi đi t́m t́nh cảm của người này
người kia? Tại sao tôi muốn được
người này yêu người kia thương? Tại sao
tôi đi t́m những điều đó, khi chính tôi đă
tự nguyện từ bỏ lúc tôi hoàn toàn có quyền
được có, và tôi có dư khả năng để
có, bởi v́ lúc đó đă có bao người thương yêu
tôi? Lúc đó, tôi đă quảng đại vượt lên
chính con người của ḿnh và đă thấy ḿnh
trưởng thành hơn, cao thượng hơn; vậy tại sao bây
giờ tôi lại cư xử như vậy, tại sao tôi
lại sống như vậy, khi điều này làm tôi
trở thành kẻ lường gạt, kẻ nói dối,
không trung thực với chính ḿnh và với người
khác?!
Không phải v́ tôi
không có khả năng quyết định về cuộc
đời tôi mà tôi khấn lời khấn vâng phục!
Cũng không phải v́ tôi không có lập trường, không thông
minh bằng bề trên mà tôi khấn vâng phục bề trên.
Có thể tôi có lập trường, và lập trường
của tôi c̣n vững chắc và có lư hơn lập
trường của bề trên, và không chừng một cách
tổng quát, tôi c̣n thông minh hơn cả bề trên nữa,
nhưng tôi vẫn khấn lời khấn vâng phục,
bởi v́ tôi muốn hiến trọn đời tôi cho Chúa,
và để Chúa điều khiển tôi qua bề trên.
Hôm nay tôi đă
sống lời khấn vâng phục thế nào? Tại sao
hôm nay tôi lại muốn bề trên phải theo ư tôi? Tại
sao hôm nay tôi “càm ràm” than trách khi bề trên không làm điều
hợp ư ḿnh? Tại sao tôi c̣n “ngoi ngóp” muốn sống khi
chính tôi đă tự nguyện chết? Tôi đă không
nhất quán với chính tôí! Tại sao tôi nói một đàng
qua lời khấn, rồi tôi lại muốn và làm một
điều khác? Qúa tệ!
Chúng ta, những
người sống dâng hiến theo cùng một linh
đạo, sống cộng đoàn để nâng
đỡ nhau về mọi mặt, để giúp nhau
thuộc trọn về Chúa và phục vụ tha nhân hữu
hiệu hơn. Trên nguyên tắc, chúng ta đă từ bỏ
tất cả và thậm chí đến cả con
người chúng ta, nên chúng ta phải thương yêu nhau,
và trở thành chứng nhân cho Thiên Chúa.
Trên thực
tế chúng ta đă sống đời sống cộng
đoàn thế nào, chúng ta đă sống đời sống
chứng tá như thế nào, khi chúng ta dạy người
khác phải sống yêu thương nhau như Chúa dạy?
Đă đành
mỗi người mỗi tính nết và có những
người không hợp tính nết của nhau, nhưng
nếu không sống được với nhau th́ qủa là
“qúa dổm” và phản chứng. Nếu chúng ta không sống
thoải mái được với nhau, đó là dấu
chỉ cho thấy chúng ta chưa từ bỏ ḿnh thực
sự. Người bạn trong cộng đoàn của chúng
ta, là bản thử nghiệm cho thấy chúng ta đă
sống đời sống dâng hiến thế nào!
Tôi có sống
được với người bạn trong cộng
đoàn của tôi không? Tôi có hạnh phúc thoải mái trong
đời sống cộng đoàn không? Nếu không, e
rằng tôi chưa thực sự sống đời
sống dâng hiến!
Tâm sự
Thân thưa
với Chúa khi đă thấy con người thật của
ḿnh, xin Chúa cho ḿnh ao ước bắt đầu một
đời sống mới, thuộc trọn về Chúa
hơn, bằng những hành vi từ bỏ chính ḿnh.
Khung cảnh
Như thể ḿnh
hiện diện với đức Yêsu và các tông đồ
trong biến cố Chúa làm cho anh mù ngồi bên vệ
đường ăn xin, được sáng.
Ơn xin
Khao khát xin ơn
nhận biết ḿnh với những tật mù “thành
kiến” và “tiêu chuẩn là con người và sự khôn ngoan
theo con người”, làm ḿnh không thấy được
sự thật và nét đẹp của Thiên Chúa và anh em. Xin
ơn thống hối và khao khát thuộc trọn về
Thiên Chúa.
Điểm
Đức Yêsu
đă làm phép lạ chữa lành người mù trong ngày
sabbat; đối với người biệt phái, đó là
điều không được phép v́ họ cho rằng
như thế là vi phạm ngày sabbat.
Đầu tiên,
họ không muốn tin rằng phép lạ đó đă
thực sự được làm, nên họ đă gọi
cha mẹ người mù tới để kiểm
chứng, và sau khi cha mẹ người mù xác nhận,
họ đành chịu (Yn.9,18-21).
Phải có thái
độ và lập trường nào đối với
đức Yêsu đây? Đức Yêsu là người
thuộc về Thiên Chúa hay là người tội lỗi?
Nếu nói đức Yêsu là người tội lỗi th́
làm sao giải thích được phép lạ Ngài làm, c̣n nếu
nói đức Yêsu là người của Thiên Chúa th́ làm sao
giải thích việc đức Yêsu không giữ ngày sabbat?
(Yn.9,16).
Cuối cùng
họ đă thống nhất với nhau, cho rằng đức Yêsu là
người tội lỗi (Yn.9,24).
Tại sao
người biệt phái không thể nhận ra
được rằng đức Yêsu từ Thiên Chúa mà
tới, Ngài là thánh? Phải chăng v́ họ có thành
kiến, v́ họ không khiêm tốn đủ để
nhận ra sự thật, phải chăng họ bị mù
“thiêng liêng”?
Phải chăng
cha mẹ người mù không được anh mù kể
lại và không biết người chữa lành mắt con
ḿnh là đức Yêsu khi họ trả lời biệt phái: “Chúng
tôi xác nhận nó là con của chúng tôi, và nó sinh ra đă mù, c̣n
làm sao nó sáng được th́ xin các ông hỏi nó, nó khôn
lớn rồi và có thể nói năng về ḿnh
được” (Yn.9,20-21)?
Cha mẹ nó nói
thế v́ sợ người biệt phái đuổi họ
ra khỏi hội đường (Yn.9,22-23)!
“Kẻ nào
chối Ta trước mặt người đời, th́
con người cũng chối nó trước mặt Cha Ta,
kẻ nào tuyên xưng Ta trước mặt người
đời th́ Con Người cũng tuyên xưng kẻ ấy
trước mặt Cha Ta Đấng ở trên trời”
(Mt.10,32-33). Trong cuộc sống thường ngày, tôi có khôn
như cha mẹ người mù không? Tôi có dám nói sự
thực dù những bất lợi có thể xảy tới
cho tôi không?
Mới thoạt
nh́n, chúng ta tưởng anh mù là người nhu nhược
không có lập trường khi anh ta để cho
đức Yêsu nhổ nước bọt làm bùn xức vào
mắt anh ta, và đi rửa mắt trong ao Siloam! Nhưng
thực tế không phải vậy.
Khi người
biệt phái buộc anh ta phải tuyên bố đức Yêsu
là người tội lỗi, anh ta đă tỏ thái
độ dứt khoát và thông minh; không những thế, anh
ta c̣n có thể cho những
người biệt phái thấy rằng họ sai lầm
(Yn.9,25-34).
Dễ dạy
với Thánh Thần và sẵn sàng làm những ǵ Thiên Chúa thúc
đẩy, sẽ làm một người trở thành
người có lập trường và can đảm
trưởng thành. Tôi có luôn ngoan ngùy với thúc đẩy
của Thánh Thần và thực hiện Ư Thiên Chúa trong
đời tôi không?
Tâm sự
Hăy thân thưa
với Chúa như ḿnh thấy về chính ḿnh: xin Chúa cho ḿnh
nhận biết rơ ḿnh có những tật mù “thiêng liêng”, và
xin Chúa giải phóng ḿnh khỏi những tật mù này, xin cho
ḿnh ơn trở về với Chúa thực sự,
để ḿnh được sáng và nhận ra nét
đẹp của Thiên Chúa và của anh em ḿnh.
Khung cảnh
Như thể ḿnh
đang hiện diện với đức Yêsu và
người biệt phái trong bữa tiệc, và mục kích
cung cách cư xử của chị phụ nữ.
Ơn xin
Ơn cảm
nhận ḿnh là tội nhân, ḷng thống hối mănh liệt
trước Thiên Chúa là Đấng yêu thương ḿnh vô
cùng; ơn khao khát trở về với Chúa thực sự.
Điểm
Nh́n nghe quan sát cung
cách hành xử của chị phụ nữ: khóc lóc nức
nở, lấy tóc lau chân đức Yêsu, hôn chân Ngài.
Tại sao chị
phụ nữ này đă làm như vậy? Hành vi thái
độ này diễn tả điều ǵ trong tâm hồn
chị? Nguyên nhân sâu xa thúc đẩy chị ta hành xử
như vậy là ǵ?
Để làm
được điều này, chị đă phải
vượt qua ngưỡng cửa nhà người biệt
phái: điều này đ̣i chị phải rất can đảm,
v́ người biệt phái coi chị là người tội
lỗi, và họ không muốn tiếp xúc với
người tội lỗi; nếu chị bị chặn
lại và đuổi ra th́ sao? Tự ái của ḿnh bị
xúc phạm th́ sao? Thày Yêsu không thông cảm th́ sao? Tại sao
chị không chờ Thày Yêsu ra khỏi nhà người biệt
phái đó, rồi chị hăy tỏ ḷng thống hối? Và
hơn nữa, thày Yêsu hiểu ḷng chị mà, tại sao
phải làm vậy? Có bao nhiêu lư do để ngăn cản
chị ta, nhưng tại sao chị ta đă hành xử
như chị ta đă làm, thâm sâu và đáng nói trong hành
động này là ǵ?
Chính Thiên Chúa
đang thúc đẩy nơi tâm hồn của chị, và
chị đă làm như ḿnh được thúc đẩy.
Người
biệt phái không nói thành lời nhưng nói trong ḷng ông ta:
“Oâng này, nếu qủa thực là một tiên tri, ắt
phải biết người đàn bà rờ đến ḿnh
kia là ai và thuộc hạng nào chứ: một đứa
tội lỗi” (Lc.7,39).
Có lẽ vào
địa vị ông, ông sẽ không cho chị phụ
nữ được đụng chạm vào người
ông, v́ chị ta không đáng, v́ chị ta là đứa
tội lỗi. Trong câu nói, cho thấy ông ta coi
thường, khinh bỉ chị phụ nữ này; và v́
đức Yêsu đối xử với chị phụ
nữ này như vậy, nên dường như ông ta không c̣n
coi đức Yêsu là một tiên tri nữa.
Cái nh́n lệch
lạc về con người, ngay cả đối với
người “tội lỗi”, cũng ngăn cản
người ta hiểu đúng về đức Yêsu và
về Thiên Chúa.
Từ
đầu, đức Yêsu có vẻ không bận tâm về
sự xuất hiện của chị phụ nữ, và chúng
ta không thấy Ngài phản ứng sao trước cách
đối xử của chị phụ nữ. Thế
nhưng, khi biết ư nghĩ trong ḷng của người
biệt phái, đức Yêsu đă bênh vực chị phụ
nữ, và nhờ đó chúng ta thấy Ngài đă lưu ư và
không bỏ sót một hành vi cử chỉ nào của chị
phụ nữ thống hối này, và cả những ǵ sâu
kín nơi con người của chị.
Đức Yêsu
đă đón nhận chị, đă chấp nhận con
người và cách hành xử cùng tâm t́nh thái độ
của chị. “Chị yêu nhiều nên được tha
nhiều” (Lc.7,47).
Tâm sự
Chị phụ
nữ có thể có nhiều tội hơn tôi, nhưng
kể từ giây phút đó, chị đă đổi
đời, không bao giờ chị c̣n trở lại
đường cũ nữa; c̣n tôi, tôi thiếu tâm t́nh
thống hối như chị, tôi chưa ư thức
được về con người tôi như chính chị
đă ư thức về con người chị, và v́ vậy
tôi cứ ́ ạch như con người hiện tại;
xin Chúa ban cho ḿnh ơn biết rơ
ḿnh là con người tội lỗi, và ơn thống
hối thực sự, để từ đây ḿnh không bao
giờ làm buồn ḷng Chúa nữa.
Khung cảnh
Như thấy
David mặc áo nhặm ăn chay, thống hối tội
lỗi, xin Chúa tha thứ.
Ơn xin
Xin Chúa cho ḿnh
ơn nhận biết ḿnh tội lỗi, và ơn cảm
nhận t́nh Chúa yêu thương, để ḿnh thống
hối thật sự, và khao khát bắt đầu một
đời sống mới với Chúa.
Điểm và tâm sự
Đọc
chậm Thánh Vịnh, dừng lại suy nghĩ, và cầu
nguyện với Chúa như ḿnh thấy cần.
HOME LINH ĐẠO
LINH THAO MƯỜI NGÀY LTMN1 LTMN2 LTMN3 LTMN4 LTMN5 LTMN6