HOME    THẦN HỌC    MẶC KHẢI        MK1       MK2       MK3       MK4       MK5       MK6       MK7

 

MẶC KHẢI

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

MỤC LỤC:

 

C. MÔI TRƯỜNG MẶC KHẢI 1

1. Tri thức của con người tại thế. 1

a. Lý trí 2

b. Tri thức. 5

2. Lời- phương tiện và môi trường mặc khải 6

a. Mặc khải qua lời 6

b. Mặc khải như biến cố lịch sử.. 7

3. Tự do lắng nghe. 8

a. Tinh thần nhập thể. 8

b. Yêu thương- hành vi tự do. 11

Lược tóm.. 11

PHẦN II: MẶC KHẢI TRONG KINH THÁNH.. 13

A. CỰU ƯỚC.. 14

1. Cái chết đến từ con người 14

a. Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp. 14

b. Tội- nguyên nhân đau khổ. 14

2. Tuyển chọn Abraham.. 16

a. Lời hứa. 16

b. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người 17

c. Trung gian mặc khải 18

3. Thiên Chúa can thiệp vào dòng lịch sử.. 20

 

C. MÔI TRƯỜNG MẶC KHẢI

            Khởi từ sự kiện con người có tri thức về những vật thể qua giác quan, và với khả năng của lý trí, con người đã vươn lên nhận biết sự hiện hữu của hữu thể tất yếu tuyệt đối.

1. Tri thức của con người tại thế

            Một lý giải về lý trí và tri thức.

a. Lý trí

            Trí khôn hay lý trí là yếu tố cấu thành của con người xét như tinh thần nhập thể. Nói theo ngôn từ của thánh Thomas Aquinô, lý trí là mô thể lập hữu[1]. Trí khôn có nhiều khả năng (trí năng) như nhớ (trí nhớ), tưởng tượng (trí tưởng tượng), suy luận (lý trí) để đi tới phán quyết[2]. Phán quyết này có thể:

tạo thành tri thức giác quan như khi khẳng định “cái bàn này trắng” v.v...,

hoặc có thể tạo thành tri thức siêu việt do suy luận, như “tôi là hữu thể bất tất, vậy phải hàm chứa có hiện hữu tất yếu, vì nếu không, đâu có hiện hữu bất tất là tôi”,

hoặc làm thành tiếng lương tâm khi phán quyết về chính hành vi cư xử của mình như “tôi không được làm như vậy vì làm như vậy là trái phẩm giá con người, tôi phải làm điều kia vì như vậy tôi mới sống xứng đáng làm con Chúa, v.v...”.

            Trí tưởng tượng (phantasia) vận hành với những ảnh tượng (phantasma, phantasmata) và thường ở tình trạng vô thức. Các vật thể được tiếp nhận qua giác quan và hình thành các ảnh tượng (phantasma, phantasmata) nơi trí não. Lý trí trừu xuất từ những ảnh tượng này, để có những ảnh niệm[3]. Ảnh niệm (species intelligibilis) có thể được hiểu là ý niệm (eidos[4]), dùng để chỉ cái phổ quát đã được trừu xuất từ những vật cụ thể. Qua trung gian những ảnh niệm, lý trí với khả năng suy luận tạo thành những ý niệm mới hoặc những quan niệm, chẳng hạn tự do, công bằng, bác ái[5]...

            Không sai lầm với ảnh tượng, ảnh niệm. Sai lầm và chân thực chỉ có khi phán đoán; chẳng hạn khi khẳng định “đó là cái bàn”, “cái bàn này màu trắng”, “anh đó là người bác ái”...! Chỉ có tinh thần, mới có thể tự phán đoán hay đánh giá mình đúng sai. Đánh giá đúng sai, là phán đoán về phán đoán của con người[6], kể cả mình.

i. Ảnh tượng

            K. Rahner trích dẫn tác phẩm thánh Thomas chú giải Aristote “linh hồn không có tri thức trí tuệ nếu không trở lại với ảnh tượng[7]”. Thánh Thomas cho rằng yếu tính của lý trí con người phải được xác định khởi từ việc kết hợp với thân xác, và sự kết hợp này được diễn tả trong conversio intellectus ad phantasma, nghĩa là trở lại với trí tưởng tượng[8].

            K. Rahner đã thấy vấn đề trở về với ảnh tượng (conversio ad phantasma) là vấn đề khả thể của siêu hình học, và K. Rahner cho rằng có thể xây nền siêu hình học của mình dựa trên S.T. I, q. 84, a.7: “Liệu lý trí có thể biết nhờ những ảnh niệm có nơi mình, mà không trở về với ảnh tượng không (Utrum intellectus possit actu intelligere per species intelligibilis quas penes se habet, non convertendo se ad phantasma)[9]?”.

            Theo thánh Thomas, ảnh tượng là khởi đầu của tri thức con người vì khởi từ nó lý trí hoạt động[10]. Đối tượng của lý trí là ảnh tượng[11], nhưng đối tượng riêng của lý trí là yếu tính của sự vật như được trừu xuất và không tách rời khỏi sự vật khả giác[12]. Ảnh tượng là cái tương tự của sự vật khả giác[13].

ii. Ảnh niệm

            Ảnh niệm (species intelligibilis), theo thánh Thomas, không là đối tượng của lý trí, nhưng là cái nhờ đó mà lý trí biết[14]. Ảnh niệm không có nghĩa là một “hình ảnh hữu ý” nào đó, nhưng là sự hoàn hảo hữu thể của tinh thần xét như hiện thể[15], là yếu tố làm tri thức có nền tảng khả hữu nội tại[16].

iii. Trừu xuất và siêu vượt

            Trừu xuất (abstractio), trở lại với ảnh tượng (conversio ad phantasma), và siêu vượt (excessus), là những khả năng của lý trí (intellectus), là những tiến trình để tri thức.

            Trừu xuất, xét như nó là sự thủ đắc ý niệm phổ quát, là thực hiện việc trở lại của chủ thể với chính mình (reditio subjecti in seipsum)[17]. Bởi trừu xuất, con người nắm bắt cái tổng quát trong cái đặc thù, và nhờ đó có phán đoán[18]. Khả năng trở lại hoàn toàn với chính mình, là nét đặc trưng cơ bản của lý trí[19].

            Trở lại với ảnh tượng (conversio ad phantasma) là tính chất riêng và nội tại của chính hành vi trừu xuất[20]. Trừu xuất và trở lại với ảnh tượng, không được coi là hai thời kế tiếp nhau, nhưng cả hai đều là điều kiện hỗ tương, và tạo thành tri thức duy nhất của con người[21]. Tuy chúng được đề cập kế tiếp nhau, và được xét như những tiến trình kế tiếp nhau, nhưng thật sự chúng là một để làm thành tri thức nơi con người.

            Siêu vượt ở đây là từ ngữ dùng để dịch chữ la-tinh excessus, nhưng chữ siêu vượt (hay siêu việt) thường được dùng để dịch chữ transcendance (tiếng Anh và Pháp). Với K. Rahner, tiền dự (anticipation, Der Vorgriff) là siêu vượt[22].

            Theo thánh Thomas, siêu vượt (excessus) cần thiết để lãnh hội các đối tượng của khoa siêu hình, mặc dầu cái khả giác vẫn được coi như vùng đất thường trực của tri thức con người[23]. Ở một chỗ khác, siêu vượt và phủ nhận (remotio) xuất hiện như những điều kiện thủ đắc đối tượng siêu hình[24].

            Theo K. Rahner, tiền dự là sự siêu vượt của tinh thần, nhờ đó mà tinh thần lãnh hội cái đặc thù, bằng việc nhìn vượt qua nó hướng về khoảng tuyệt đối của các đối tượng có thể có[25]. Để hiểu một yếu tính phổ quát tự bản chất là vô giới hạn, dù rằng yếu tính phổ quát này được kinh nghiệm trong cái khả giác, thì đầu tiên lý trí phải lãnh hội rằng yếu tính này được giới hạn trong và nhờ cái khả giác này. Nhưng để ý thức về sự giới hạn này, thì hành vi lãnh hội cái khả giác đặc thù này phải siêu vượt nó để hướng về cái gì hơn nữa. Cái gì hơn nữa này không thể là một đối tượng đặc thù cùng loại, vì nếu không, lại phải siêu vượt qua nó nữa... Như vậy khi lãnh hội một đối tượng đặc thù, ý thức vượt lên trên cái đối tượng đặc thù, và lãnh hội nó không chỉ trong cái này (giới hạn và riêng rẽ) mà còn trong tính hữu hạn của nó, cũng như trong tương quan của nó với cái toàn thể của những đối tượng có thể có[26].

            Khả năng của lý trí để trừu xuất (abstractio, reditio in seipsum) và siêu vượt (transcendance, tiền dự anticipation) gọi là lý trí tác động ((intellectus agens). Lý trí tác động là khả năng nhận biết đối tượng trực giác qua giác quan như thực tại giới hạn và cụ thể, và như vậy lý trí tác động phổ quát hóa mô thể nơi cái khả giác, và giải phóng mô thể khỏi cái đặc thù vật chất[27]. Lý trí tác động là nền tảng của mọi nguyên tắc, là nền tảng của tri thức[28].

b. Tri thức

            Thể tri không là sự tiếp xúc của lý trí với sự vật[29], không là một hành động (sản phẩm của hành vi lãnh hội) nhưng là một hiển thể, nghĩa là một thực tại hiện diện với chính mình[30]. Thể tri là hiện diện với chính mình, là tình trạng phản tỉnh trên chính mình của một hữu thể có khả năng được xác định[31].

            Theo thánh Thomas, thể tri[32] là sự trở lại chính mình của tri thể[33] và như vậy, là hiện diện với chính mình[34]. Tri thể (cognoscens) và cái được biết (cognitum) là một trong hiển thể[35]. Lý trí và cái được biết là một[36]. Cái được biết là sự trọn hảo của tri thể[37]. Như vậy cái được biết luôn luôn là hữu thể của tri thể[38].

            Tri thức, một cách tổng quát, là hiện diện với mình của hữu thể, là hữu thể phản tỉnh, là sự trở về trên chính mình (reditio in seipsum). Nhưng đối với con người, tri thức hàm chứa phải hiện diện với thế giới, phải ở nơi tha thể trong giác thể[39].

Thánh Thomas diễn tả điều này trong ST. I, q. 84, a. 7, corp.: “impossibile est intellectum nostrum, secundum praesentis vitae statum, quo passibili corpori conjungitur, aliquid intelligere in actu, nisi convertendo se ad phantasmata”[40].

            Tri thức hệ tại phán đoán. Cái riêng của lý trí là khẳng định hoặc phủ định[41]; và chỉ lý trí mới biết chân hoặc giả, chân lý hoặc sai lầm[42]. Và như ở trên đã thấy, lý trí không thể biết gì nếu không nhờ ảnh tượng. Chính quan niệm này giúp xác định môi trường mặc khải.

2. Lời- phương tiện và môi trường mặc khải

            Thiên Chúa tự do, Ngài tự do mặc khải, hoặc tự do không mặc khải. Mặc khải hay không, là hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa[43]. Trên bình diện thuần lý trí, trước khi Thiên Chúa mặc khải cho con người, lý trí không biết Thiên Chúa có mặc khải cho con người hay không. Hữu thể tự do luôn là một mầu nhiệm, hữu thể tự do luôn luôn mới, mỗi hành vi hành động của hữu thể tự do đều là những sáng tạo bất ngờ[44].

            Giả như Thiên Chúa mặc khải cho con người, thì đâu là môi trường, đâu là phương tiện Ngài dùng để mặc khải cho con người?

            Vì Thiên Chúa là hữu thể tự do, nên không thể định trước cho Ngài môi trường, cách thức hay phương tiện. Những điều này, hoàn toàn tùy thuộc Ngài. Nhưng nếu Ngài mặc khải cho con người thì Ngài chỉ mặc khải những điều con người có thể lãnh hội được[45]. Nếu cứ ở điều kiện hiện tại, tức điều kiện cấu thành con người hiện tại[46], người ta có thể dựa vào cơ cấu con người hiện tại để xác định môi trường mặc khải, nếu có và thực sự đã có, của Thiên Chúa cho con người.

a. Mặc khải qua lời

            Lời, theo tiếng Hy lạp, có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là lý trí, nghĩa thứ hai là lời; và từ hai nghĩa chính này, chúng ta thấy có nhiều nghĩa khác[47]. Lời (DABAR), theo tiếng Do thái, có nghĩa là lời nói, sự vật, và cả lý trí nữa[48]. Lời là tên làm cho sự vật có thể hiểu được[49]. Như vậy, lời (Logos, Dabar) là lời nói, là sự vật, là lý trí.

            Lời là thực tại làm cho con người có thể hiểu một thực tại. Như vậy, tất cả những gì làm cho con người, làm cho lý trí con người có thể hiểu một thực tại đều được gọi là lời[50].

            Bao lâu con người chưa được hưởng kiến trực tiếp Thiên Chúa, thì mặc khải được thực hiện qua lời[51], vì ở điều kiện hiện tại của con người, con người tri thức nhờ các ý niệm, ảnh tượng, các sự vật khả giác. “Lời” ở đây không chỉ là dấu chỉ của sự vật khả giác nhưng còn là dấu chỉ của tinh thần[52].

b. Mặc khải như biến cố lịch sử

            Lịch sử là một chuỗi biến cố của một hay nhiều hiện hữu tự do; nếu không có tự do, không có lịch sử. Ở đâu có tự do, thì ở đó luôn luôn có một chuỗi biến cố mà người ta không có thể tính toán và diễn dịch khởi từ một nguyên tắc tổng quát[53].

            Hiểu lịch sử như vậy, những hiện hữu bất tất tùy thuộc hiện hữu tuyệt đối tự do đều là những dấu chỉ, là lời để con người tri thức, là lời để con người nhận biết hiện hữu tuyệt đối tất yếu. Tương tự thế, những hành vi tự do của một ngôi vị tự do, cho con người biết hơn về ngôi vị ấy; cũng vậy, những hành động của hiện hữu tất yếu mà con người có thể tri thức được, cũng giúp con người có thể biết hơn về hiện hữu tất yếu tuyệt đối tự do.

            Như vậy, lịch sử xét như là lời, giúp con người tri thức về hiện hữu tuyệt đối. Nói cách khác, nếu Thiên Chúa mặc khải cho con người trong hoàn cảnh điều kiện tại thế, tạo thành lịch sử[54], thì con người có thể ngang qua lịch sử đó -tức là lời, nhận biết được thực tại mặc khải. Nói như vậy không có nghĩa, tất cả những gì Thiên Chúa hành động con người cũng biết; vì tri thức con người phải qua giác quan và những vật khả giác, nên con người chỉ có thể biết khi Thiên Chúa muốn mặc khải, và Ngài mặc khải qua lời.

            Như vậy, mặc khải hay không, tùy thuộc hoàn toàn nơi Thiên Chúa, vì Ngài là hiện hữu tuyệt đối tự do; và nếu Thiên Chúa mặc khải cho con người, thì lịch sử là nơi Thiên Chúa mặc khải cho con người, và con người phải luôn lắng nghe và để ý tới lịch sử, vì đây chính là môi trường Thiên Chúa mặc khải cho con người[55].

3. Tự do lắng nghe

            Khởi từ tri thức về vạn sự vạn vật qua giác quan và với khả năng suy luận của lý trí, con người nhận ra hữu thể có một tương quan mật thiết với nhau. Cũng từ tri thức giác quan và với khả năng suy luận, con người nhận ra mình là hiện hữu bất tất, và từ đó nhận biết Hữu Thể Tất Yếu Tự Do.

            Tất cả đều hiện hữu, nhưng các hữu thể hiện hữu theo những mức độ khác nhau. Hữu thể sở hữu hữu thể tùy mức độ tri thức, theo mức độ hữu thể hiện diện với chính mình[56].

            Hữu thể được gọi là vật thể, khi hữu thể này khả tri với hữu thể khác nhưng lại ẩn dấu với chính nó, nó không thể trở lại chính mình. Hữu thể được gọi là giác thể, khi tri thức của hữu thể có đối tượng trước tiên là vật thể[57]. Hữu thể được gọi là tinh thần khi hữu thể có thể trở về chính mình.

a. Tinh thần nhập thể

            Con người không chỉ là giác thể, tức là có tri thức vật thể bằng hành vi hiện hiện nơi tha thể, nhưng con người còn là tinh thần, vì con người có khả năng trở về chính mình (reditio completa in seipsum)[58]. Chính trong thân xác và qua thân xác mà con người là tinh thần. Con người là tinh thần nhập thể[59].

i. Tri thức tự do

            Con người, ngoài tri thức giác quan còn có khả năng suy tư trên cái biết giác quan. Chẳng hạn nhìn trái táo rơi, con người có thể suy tư tìm hiểu để khám phá ra định luật chi phối vật thể. Dầu vậy tri thức này cũng chỉ nằm ở bình diện sự vật.

            Ngủ mơ thấy mình là bướm, tỉnh dậy không biết có phải mình là bướm đang mơ?! Lúc đó là mơ hay lúc này mới là mơ, bây giờ là mơ hay thực! (Trang Tử).

Tôi sai lầm, vậy tôi hiện hữu (Augustin).

Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu (Descartes).

Cái tuyệt hảo, phải hiện hữu; vì nếu không hiện hữu thì không là tuyệt hảo (Anselme).

Tôi là hiện hữu bất tất, vậy phải có hiện hữu tất yếu.

Trên đây là những tri thức, nhưng những tri thức này không còn thuộc bình diện vật thể. Những tri thức này khởi từ tri thức vật thể giác quan, nhưng đã không dừng lại mà vượt trên bình diện vật thể. Với tri thức này, con người trở thành tinh thần, con người đã qua tri thức giác quan để trở về chính mình, con người không dừng lại nơi sự vật, nhưng vươn lên cái siêu vượt. Con người trở thành tinh thần tự do. Con người có thể chỉ dừng lại nơi sự vật, hoặc con người có thể vươn lên hiện hữu tất yếu.

            Người ta thường nghe nói “con người tự do” “ý chí tự do”, nhưng dường như không nghe nói “tri thức tự do”. Người ta thường cho rằng tự do và lý trí không liên hệ với nhau, nhưng thực sự tri thức cũng liên hệ tới tự do vì lý trí cũng bị ảnh hưởng bởi ý chí tự do. Khi nói tri thức tự do, phải hiểu theo văn mạch này[60].

            Con người là tinh thần, theo K. Rahner, nghĩa là, con người trong cuộc sống luôn hướng về tuyệt đối, luôn khai mở với Thiên Chúa[61]. Con người là tinh thần nhập thể, nghĩa là, con người hiện diện với mình, trở về với mình qua việc quy về ảnh tượng (phantasma). Con người hiện diện với chính mình qua vật thể chứ không lệ thuộc vật thể[62].

            Tự do, đối với K. Rahner, là vượt trên tri thức giác quan, vượt trên cảm tính; đó là tự do của tinh thần. Tự do theo nghĩa này, là một tên gọi khác của tiền dự (anticipation), là khả năng vượt qua tri thức vật thể để hướng về hữu thể tất yếu[63]. Con người không dừng lại nơi vật thể, nhưng luôn vươn lên vượt trên vật thể, đó mới là tinh thần; lúc đó tri thức của con người là tri thức tự do. Nếu tri thức của con người chỉ dừng lại nơi vật thể thì tri thức đó không tự do, hay nói đúng hơn, con người đó không tự do.

            Con người có thể trở về với mình bằng tri thức phản tỉnh, có thể vươn lên khỏi vật thể để hướng tới siêu việt thể, đó là tinh thần. Con người là tinh thần, nghĩa là có thể dừng lại nơi vật thể hay vươn lên siêu việt thể. Lý trí không chỉ dừng lại nơi sự vật nhưng vươn lên siêu việt thể, đó là lý trí tự do. Bây giờ chúng ta sẽ xét về ý chí nơi con người.

ii. Ýchí tự do

            Ý chí hay ý muốn, là hành vi của hiện hữu mà nếu không có hành vi này, một hữu thể bất tất không thể hiện hữu.

            Ý chí là hành vi tự do của hiện hữu, là hành vi tự do của hữu thể tinh thần. Nếu một hữu thể bất tất có thể hiện hữu nhờ một “hiện hữu[64]”, hàm chứa “hiện hữu này” tự do. Nghĩa là, hiện hữu này là tinh thần, có trở về chính mình, có tri thức phản tỉnh về chính mình, và siêu vượt.

            Đối với hiện hữu tất yếu tuyệt đối[65], hành vi tri thức và hành vi ý muốn là một; còn đối với tinh thần nhập thể, tức con người, ý muốn đi theo tri thức[66]. Khi nói ý muốn đi theo tri thức, điều này đúng khi tri thức là tri thức tự do, nghĩa là tinh thần nhập thể vượt lên trên tri giác sự vật để hướng tới hiện hữu tuyệt đối. Còn đối với tinh thần “không tự do”, tức không hướng tới tuyệt đối, cả lý trí lẫn ý chí đều không tự do, đều dừng lại nơi vật thể.

            Ý muốn là hoạt động của tinh thần, là hành vi của hiện hữu sở hữu tri thức tự do. Ý muốn tự do, theo nghĩa siêu hình, là ý muốn đi theo lý trí tự do, tức lý trí vượt qua tri thức vật thể để vươn lên tuyệt đối. Ý muốn không tự do, theo nghĩa siêu hình nhưng vẫn là ý muốn tự do hiểu theo nghĩa tự ý, khi tuân theo lý trí không tự do, tức lý trí chỉ dừng lại nơi vật thể, không vượt lên trên tri thức vật thể.

            Một cách bình thường, chúng ta vẫn nói ý chí tự do, vì ý chí là hành vi tự do của tinh thần tự do, thực hiện chính hành vi muốn đó hay không, là tùy nơi hiện hữu tự do này.

            Theo Thánh Thomas, ý chí là tham dục trí tuệ tuân theo sự nhận thức của lý trí. Thánh Thomas chia tham dục làm ba cấp độ: vọng dục, nộ dục, và ý chí[67]. Tham dục tự nhiên là khuynh hướng tuân theo mô thể tự nhiên; tham dục cảm giác là khuynh hướng tuân theo mô thể cảm giác; tham dục trí tuệ (trí dục) là khuynh hướng tuân theo mô thể tri thức[68].

            Theo Aristote, “tham dục là khuynh hướng hoạt động của mọi hữu thể hướng về thiện hảo của mình”. Sở dĩ như vậy, vì “mọi cái hoạt động đều hoạt động hướng về mục đích”, và mục đích đây là cái thiện hảo[69].

            Theo K. Rahner, thái độ tuyệt đối cần thiết mà hiện hữu bất tất phải có là ý chí[70]. Khởi từ nhận định con người đặt vấn nạn về hữu thể, K. Rahner lý luận: “trong mức độ con người tự vấn về hữu thể, con người khẳng định tính hữu hạn bất tất của mình, và trong mức độ con người phải tra vấn, con người khẳng định cách tất yếu hữu thể bất tất của mình... Điều này hàm chứa, đối với hiện hữu hữu hạn bất tất của mình, con người phải có một thái độ; nói cách khác, con người phải có thái độ cần thiết đối với hiện hữu bất tất của mình... Và thái độ tuyệt đối của hiện hữu bất tất này là ý chí”[71].

            Thiện hảo là điều mọi hiện hữu nghiêng chiều về, thế nhưng mức độ hiện hữu nơi mỗi hữu thể khác nhau[72], nên cái thiện hảo của mỗi hiện hữu nghiêng chiều về cũng ở những mức độ khác nhau. Vật thể tự nhiên nghiêng chiều theo luật tự nhiên, vật thể giác quan nghiêng chiều về cái thiện hảo của nó theo bản năng, và hiện hữu tinh thần nghiêng chiều về thiện hảo được nhận thức bởi lý trí.

            Nơi các hiện hữu không là tinh thần, nghiêng chiều này không thể chống cưỡng được; còn với hiện hữu tinh thần, dù đây là nghiêng chiều tất yếu nhưng là tất yếu theo bản tính được lý trí nhận ra, thì tinh thần vẫn tự do. Nói theo cách vẫn thường được dùng, ý chí tự do. Chẳng hạn nghiêng chiều hướng về hiện hữu tất yếu tuyệt đối, hiện diện nơi mọi hiện hữu bất tất- cụ thể là nơi con người, thế nhưng con người vẫn tự do, con người tự do vươn lên hay ở lại nơi sự vật.

b. Yêu thương- hành vi tự do

            Nói tới con người là phải nói tới tình yêu, cũng như nói tới con người là phải nói tới tri thức. Tình yêu là tư thái căn bản của con người. Vậy tình yêu là gì?

            Người ta ham mê tiền bạc danh vọng, chứ người ta không yêu tiền bạc danh vọng, yêu là hành vi tương quan giữa người với người, giữa ngôi vị và ngôi vị, chứ không là tương quan giữa người và đồ vật, giữa ngôi vị và vật thể. Tình yêu là tương quan liên vị.

            Tình yêu là nghiêng chiều của một ngôi vị về một ngôi vị. Tình yêu là ý muốn có đối tượng là ngôi vị[73]. Ý chí con người luôn luôn tự do. Tình yêu là hành vi tự do, nghĩa là con người luôn luôn có thể cưỡng lại được. Nếu “yêu” ai tới mức độ không thể cưỡng lại được, thì đó không là tình yêu mà là thèm muốn đam mê. Khi ấy, người đó không tự do mà đang sống trong tình trạng bản năng. Đối tượng của bản năng không là ngôi vị nhưng là vật thể, hoặc giác thể.

            Con người có thể cưỡng lại tình yêu; nhưng con người không được phép cưỡng lại tình yêu vì con người là hiện hữu tự do; nếu con người cưỡng lại tình yêu, con người không tự do đích thực. Tương quan giữa ngôi vị và ngôi vị, giữa người với người, phải là tương quan tình yêu; nếu không là tương quan tình yêu, đó không là hành vi của những hiện hữu tự do đích thực. Tình yêu là hành vi tự do, là ý muốn hướng tới ngôi vị.

Lược tóm

Con người tự do lắng nghe mặc khải

            Con người với lý trí nhận biết sự vật qua giác quan, nhận biết chính mình, và hơn nữa có thể vượt trên sự vật khả giác để nhận biết hiện hữu tất yếu tuyệt đối tự do. Với khả năng siêu vượt, con người là tinh thần nhập thể tự do.

            Con người là tinh thần tự do. Điều này được nhận thấy khi con người biết mình có thể chọn làm điều này hay điều kia. Đành rằng con người có nhiều giới hạn và tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng con người vẫn cảm thấy và biết mình tự do. Con người biết mình có thể làm hay thực hiện một hành vi bất tất[74].

            Thường người ta nói ý muốn tự do chứ không nói lý trí tự do, thế nhưng chính lý trí cũng có thể là lý trí tự do hay không. Ý muốn tùy thuộc lý trí, nhưng chúng ta trong kinh nghiệm cũng thấy có những khi muốn không theo lý trí, lúc này con người vẫn tự do nhưng thực sự nó không tự do đích thực. Con người tự do đích thực khi con người theo những gì lý trí thấy là đúng.

            Con người tự do đích thực, sống theo lý trí, không dừng lại ở bình diện sự vật nhưng vươn lên, siêu vượt lên khỏi vật chất để hướng tới hiện hữu tất yếu tuyệt đối tự do. Lý trí không tự do khi lý trí chỉ dừng lại nơi sự vật, không vươn khỏi sự vật để hướng tới hiện hữu tuyệt đối, nhưng theo bản năng, theo những gì thuộc về vật chất. Lúc này Voluntas non sequitur intellectum, mà intellectus sequitur voluntatem. Và ý muốn lại theo bản năng chứ không theo lý trí. Lý trí theo ý muốn, theo bản năng, theo những gì là vật chất, không vươn lên thực tại siêu việt, là lý trí không tự do. Lúc đó con người không còn là tinh thần nữa, dù thực sự con người vẫn có khả năng là tinh thần (hiểu theo nghĩa, con người vẫn có thể siêu vượt khỏi cái khả giác). Chỉ khi nào con người với lý trí vượt lên trên cái khả giác, vươn tới hiện hữu tất yếu, con người mới là tinh thần đích thực, lý trí con người mới tự do đích thực.

            Dù có nỗ lực giải thích lý do tại sao “lý trí không tự do” nơi một số người hoặc nơi mỗi người trong một số thời điểm khác nhau trong cuộc đời, thì yếu tố chính yếu vẫn thấy, luôn nằm trong mọi hành vi “không tự do”, là con người luôn luôn tự do. Con người có tự do thực sự hay không, là do chính mỗi người.

            Thiên Chúa có thể mặc khải cho con người trong lịch sử, và thực sự ngài đã mặc khải[75]. Về phía con người, vì là tinh thần nhập thể tự do, con người vẫn tự do, tự do lắng nghe và đáp trả.


 

PHẦN II: MẶC KHẢI TRONG KINH THÁNH

            Đau khổ, sự dữ là một sự kiện và là một vấn đề gây nhiều bức xúc cho con người. Con người thường bị dằn vặt với những tra vấn:

con người từ đâu tới? con người đi về đâu?

tại sao con người đau khổ? làm sao để con người hạnh phúc?

Khao khát hạnh phúc- hiện tại và vĩnh cửu, luôn là một vấn đề, luôn là điều làm con người bận tâm.

            Từ ngàn xưa, con người đã khổ công đi tìm hạnh phúc, đi tìm phương thuốc làm con người có thể sống trường sinh bất tử! Bao nhiêu tôn giáo xuất hiện nhằm chỉ cho con người con đường giải thoát khỏi những đau khổ và đạt tới cõi vĩnh phúc...

            Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không hoàn toàn nằm trong tầm tay của con người, nó là một ơn, là sự chia sẻ và thông hiệp giữa Thiên Chúa và con người, là chính sự sống của Thiên Chúa, là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và của con người đối với Thiên Chúa.

            Từ thuở xa xưa cho đến nay, con người không đặt nặng “biết” bằng “sống”, và nhất là sống hạnh phúc. Chính đời sống hạnh phúc sẽ chi phối cái nhìn về mặc khải.

A. CỰU ƯỚC
1. Cái chết đến từ con người

            Sách Sáng Thế chương 1-11, nói về tạo dựng và tương quan giữa Thiên Chúa và con người trước khi Abram xuất hiện[76].

a. Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp

            St. 1-11 cho biết cái nhìn của truyền thống Do Thái về thời kỳ tiền-Abraham.

            Trình thuật St. 1, 1- 2, 4a cho thấy Thiên Chúa tạo dựng tất cả bằng lời (Ngài phán, và vạn sự vạn vật hiện hữu); Ngài tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, Ngài ban quyền thống trị muôn loài vạn vật cho con người; Ngài tạo dựng con người như chóp đỉnh của muôn loài vạn sự. Theo truyền thống tư tế (P) của trình thuật này, Thiên Chúa hài lòng vì những điều Ngài tạo dựng tốt lành quá đỗi (St. 1, 31). Thiên Chúa tạo dựng và Ngài yêu thương con người.

            Trình thuật St. 2, 4b-25 cũng cho cái nhìn về nguồn gốc con người trong tương quan với Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người không chỉ từ bùn đất, nhưng còn bởi chính hơi thở của Ngài (St. 2, 7). Con người được hưởng dùng tất cả mọi hoa trái trên đất, kể cả cây sự sống, chỉ trừ cây biết tốt xấu; con người bá chủ[77] trên vạn vật.

b. Tội- nguyên nhân đau khổ

            Ở lần san định Ngũ kinh vào khoảng năm 400 trước công nguyên, tác giả đã lấy hai truyền thống tư tế P và truyền thống Y[78] về tạo dựng để làm thành phần đầu của quyển sách Kinh Thánh đầu tiên.

            Trong cái nhìn truyền thống Do Thái này, thời đầu con người sống trong tình thương yêu của Thiên Chúa; con người sống trong hạnh phúc, sống trong sự hòa hợp thân mật với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa săn sóc con người (St. 2, 20tt), con người khắn khít với nhau (St. 2, 24) và không bị dằn vặt đau khổ (St. 2, 25). Thuở đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người, không có đau khổ vì Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt lành.

            Đau khổ chỉ có từ khi con người phạm tội (St. 3, 16-17); và đau khổ tột cùng là cái chết (St. 3, 19). Tương quan tốt lành giữa Thiên Chúa và con người bị gãy đổ (St. 3, 23-24. 8) bởi con người đã ăn trái cây bị cấm (St. 3, 11). Vấn đề ở đây không là ăn một trái cây, nhưng là lỗi một mệnh lệnh, và hơn thế nữa, nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa, tin vào con rắn hơn tin vào Thiên Chúa (St. 3, 4tt).

            Điều đáng lưu ý ở đây, không phải là con người muốn nên một trong những vị thần linh (St. 3, 5), nhưng là con người muốn độc lập với Thiên Chúa[79].

            Từ khi con người phạm tội, con người cảm thấy xấu hổ và đổ lỗi cho nhau (St. 3, 12), con người không còn thấy tha nhân và Thiên Chúa mang lại hạnh phúc cho mình nữa (St. 2, 23; 3, 8-9).

            Hạnh phúc đích thực chỉ có khi con người sống trong Thiên Chúa, trong tình yêu của Thiên Chúa, sống trong tương quan tốt với Thiên Chúa. Khi con người sống trong tương quan tốt với Thiên Chúa, con người sẽ sống hạnh phúc với nhau.

            Truyền thống Do Thái qua các tác giả san định Ngũ Kinh lần cuối cho thấy vấn đề sống (đau khổ hay hạnh phúc) tùy thuộc siêu hình, tùy thuộc quan niệm về nguồn gốc vũ trụ và con người. Cuộc sống (hiện sinh) đặt vấn đề, siêu hình (tri thức) giúp hiểu biết vấn đề tận ngọn nguồn, và rồi con người giải quyết bằng chính cuộc sống. Chỉ trong nhãn quan này, mới thấy việc nghiên cứu mặc khải là hữu ích, là liên hệ tới cuộc sống, là giúp con người sống hạnh phúc, giúp con người vươn tới ơn cứu độ.

            Hạnh phúc đã mất khi con người phạm tội. Tương quan tốt lành giữa con người và Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau, đã bị con người phá hủy khi phạm tội; nhưng Thiên Chúa đã nói một lời gây lạc quan hy vọng cho con người (St. 3, 15). Thiên Chúa đi tìm con người ngay khi con người trốn Ngài (St. 3, 9). Thiên Chúa không muốn cắt đứt liên lạc với con người, Ngài vẫn muốn đối thoại với con người; Ngài chủ động nối lại tương quan với con người dù tương quan này đã bị con người phá hủy.

            St. 4-11 cho thấy cái nhìn về tương quan giữa Thiên Chúa và con người cũng như giữa con người với nhau. Ttương quan giữa con người với nhau cũng ảnh hưởng đến tương quan giữa con người và Thiên Chúa.

            Trình thuật St. 4 cho thấy Abel bị Cain giết và Yahweh đã can thiệp (St. 4, 9tt). Phạm tội là chống lại Trời, con người và cả đất nữa. Đau khổ gia tăng, con người không chỉ phải vất vả mới có của ăn (St. 3, 19), nhưng còn hơn thế, đất đai không còn cho hoa trái nữa (St. 4, 12).

            Tội lỗi càng ngày càng gia tăng (St. 4, 23) đến độ đời sống con người giảm tuổi thọ (St. 6, 3); và hơn nữa “Yahweh đã thấy sự dữ của loài người đã ra nhiều trên đất... và Yahweh đã hối tiếc vì đã làm ra con người trên đất, và Người đã phải đau phiền trong lòng Người” (St. 6, 5-6). Lụt hồng thủy là hậu quả của tội (St. 6, 7). Nhưng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài vẫn muốn cứu độ con người qua Noe (St. 6, 8tt).

            Truyền thống Do Thái ngay trong 11 chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, là Đấng vẫn yêu thương con người ngay cả lúc con người đang nhận lãnh hình phạt như hậu quả của tội:

khi Adam phạm tội, Thiên Chúa có lời hứa cứu độ (St. 3, 15);

khi Cain giết em, lời hứa Cain không bị giết trả thù (St. 4, 15);

khi loài người quá tội lỗi và bị phạt hồng thủy, Thiên Chúa cứu độ Noe và thiết lập giao ước với ông, và qua ông với cả loài người (St. 9, 8-17).

Thiên Chúa cứu độ con người, để con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa và với nhau.


 

2. Tuyển chọn Abraham

            Trong thời kỳ trước Abraham, Thiên Chúa tỏ lộ như Đấng tạo dựng vũ trụ vạn vật và Nguồn hạnh phúc. Thiên Chúa là sự sống và là Đấng làm cho muôn vật được sống; ở ngoài Thiên Chúa, độc lập với Thiên Chúa, chỉ là diệt vong.

            Còn với Abraham, Thiên Chúa tỏ lộ cho thấy Ngài là Đấng kêu gọi ông, đề nghị ông đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho ông, hứa sẽ cho ông có con nối dòng[80] và sẽ cho con cháu ông trở thành một dân lớn, làm ông trở thành nguồn chúc phúc và bảo vệ ông.

a. Lời hứa

            Abram là con của Têrakh, quê ở xứ Kanđê. Têrakh đã đưa con cái mình xuống Haran (St. 11, 27. 31).

i. Lời mời gọi

            Thiên Chúa đã phán với Abram[81]: “hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi; Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, ai mà nói động đến ngươi, Ta sẽ chúc dữ, mọi thị tộc trên trần sẽ lấy ngươi mà cầu chúc cho nhau” (St. 12, 1-3).

            Lời hứa này thật quan trọng đối với Abraham, vì Sara không có con; và không con là một tội lớn đối với não trạng đông phương: tuyệt tự! Lời Thiên Chúa phán với ông, bảo đảm rằng ông sẽ có con nối dòng, và dòng giống từ nơi ông sẽ thành một dân lớn mạnh.

            Thiên Chúa và lời hứa của Ngài đối với Abraham, chi phối trọn đời Abraham. Abraham đã đi theo lời Chúa phán bảo ông (St. 12, 4). Ông trở thành người sống dựa vào lời hứa của Thiên Chúa, nghĩa là ông tựa vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện ra và phán bảo Abraham: “Ta sẽ ban xứ này cho dòng giống ngươi” (St. 12, 7).

            Thiên Chúa hứa ban đất cho dòng giống Abraham! Còn với Abraham? “Hãy ngước mắt lên và từ chỗ ngươi đứng, hãy nhìn từ phía: Bắc, Nam, Đông, Đoài. Vì toàn xứ ngươi thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi cho đến vạn đại... Hãy chỗi dậy rảo khắp xứ chiều ngang chiều dọc, vì Ta sẽ ban đất ấy cho ngươi (St. 13, 14-17). Thiên Chúa đã ban đất vùng này cho Abraham, nhưng cho tới khi Sara chết, Abraham còn phải mua đất để chôn vợ (St. 23, 4tt); và khi Abraham chết ông cũng được chôn cất tại chốn này (St. 25,10).

            Lời Chúa hứa với Abraham đang được thực hiện, nghĩa là lời hứa này chưa hoàn toàn thành tựu; vì thế Thiên Chúa vẫn thường lập lại lời hứa này với Abraham:

“Sau các điều ấy, lời của Yahweh đến với Abraham trong thị kiến mà rằng: Đừng sợ, Abram, Ta là khiên mộc cho ngươi; phần thưởng ngươi sẽ bội hậu. Abram thưa: Lạy Chúa Yahweh, người sẽ ban gì cho tôi, trong khi tôi vô hậu ra đi còn kẻ thừa tự gia đình tôi lại là Êliêzer, người ở Dama...

Và này lời Yahweh phán với ông rằng: Nó sẽ không thừa kế ngươi đâu, những kẻ sẽ phát xuất từ lòng dạ ngươi sẽ kế thừa ngươi.

Người đã dẫn ông ra ngoài trời và phán: Hãy nhìn lên trời, và hãy đếm tinh sao, nếu ngươi có tài đếm được chúng. Đoạn người phán bảo ông: Dòng giống ngươi sẽ như thế. Và Abram đã tin vào Yahweh và sự ấy Người đã kể cho ông như sự công chính (St. 15, 1-6)”.

            Lời hứa ban phần đất cho Abraham và con cháu ông cũng được lập lại:

“Người đã phán với ông: Ta, Yahweh, Ta đã đem ngươi ra khỏi Ur của dân Kanđê, để ban cho ngươi đất này làm cơ nghiệp” (St. 15, 7).

“Ngày hôm ấy Yahweh đã kết ước với Abraham rằng: cho dòng giống người, Ta sẽ ban thửa đất này từ sông Ai cập cho đến sông Cả, sông Phơrát...” (St. 15, 18).

            Giao ước là lời thề hứa long trọng có điều kiện kèm theo.

ii. Giao Ước

            Năm Abram[82] được 99 tuổi, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abram, và đổi tên ông thành Abraham (St. 17, 5), đổi tên Saray thành Sara (St. 17, 15).

            Sáng Thế trình bày giao ước này trong chương 17:

“Khi Abram được 99 tuổi, thì Yahweh đã hiện ra cho ông và phán với ông: Ta là El-Shadday, hãy bước đi trước mặt Ta và ở cho trọn lành. Ta sẽ ban giao ước giữa Ta và ngươi, Ta sẽ cho ngươi sinh sôi đông lắm, đông lắm.

(Và) Abram phục mình sấp mặt xuống.

Và Thiên Chúa phán bảo ông rằng:

Phần Ta, này giao ước của Ta với ngươi:

ngươi sẽ là cha của hằng hà sa số dân tộc...

Ta sẽ lập giao ước giữa Ta và ngươi, và dòng giống ngươi sau ngươi qua các thế hệ, làm giao ước vạn đại,

ngõ hầu Ta là Thiên Chúa của ngươi và của dòng giống ngươi sau ngươi.

Và Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi sau ngươi đất ngươi nương ngụ, toàn cõi đất Canaan, làm sở hữu vạn đại, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.

(Và) Thiên Chúa phán với Abram:

Còn ngươi, ngươi sẽ giữ lấy giao ước của Ta, ngươi và dòng giống ngươi sau ngươi, qua các thế hệ. Này là giao ước các ngươi sẽ giữ lấy, giữa Ta và các ngươi, và dòng giống ngươi sau ngươi: mọi nam nhân trong các ngươi đều sẽ chịu cắt bì” (St. 17,10).

b. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người

            Tương quan giữa Abraham và Thiên Chúa, cũng chính là tương quan giữa Thiên Chúa và con người.

i. Thân tình

            Trong những đoạn St.12 và St.15 cùng St.17, Thiên Chúa là Đấng ban cho Abraham lời hứa và giao ước; còn trong St. 18 Thiên Chúa cư xử thật thân tình đối với Abraham:

Thiên Chúa đã hiện ra cho Abraham nơi cây sồi Mamrê dưới dạng ba người (St. 18, 1); Thiên Chúa đã chấp nhận để được Abraham hầu hạ phục vụ (St. 18, 3-5); Yahweh đã tỏ cho Abraham biết những điều kín, những điều Người sắp làm (St. 18, 16-21) sau khi đã thăm hỏi trò chuyện với Abraham về những chuyện riêng của ông như gia đình vợ con (St., 18, 9-15);

Abraham đã nài nỉ xin Chúa đừng phạt dân Sođôm nếu ở đó chỉ có 10 người công chính.

            Yahweh đối xử với Abraham thật thân thiết (St. 18). Ngài là Đấng bảo vệ Abraham và những quyền lợi của ông. Ngài sẵn sàng nghe lời Abraham cầu xin[83] (St. 20, 7. 17-18).

ii. Đòi hỏi tuyệt đối

            Yahweh Thiên Chúa không chỉ là Đấng ban lời hứa và ký kết giao ước với Abraham, Ngài còn là Đấng đòi hỏi con người phải tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Chính Thiên Chúa đã phán với Abraham: “nơi Ysaac, ngươi sẽ có dòng giống đội tên ngươi” (St. 22, 2); nhưng cũng chính Thiên Chúa đã phán cùng ông “Abraham, ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac, mà đi tới đất Moriyah và ở đó, hãy dâng nó làm của lễ thượng tiến trên một quả núi Ta sẽ tỏ cho ngươi” (St. 22, 2).

            Abraham đã làm theo lời Chúa phán cùng ông! “Khi họ đến nơi Thiên Chúa phán cùng ông, thì Abraham xây tế đàn ở đó, rồi sắp củi, và trói Ysaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con” (St. 22, 9-10). Nhưng thần sứ Gia-vê từ trời phán bảo ông:

“Abraham, Abraham, đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì đến nó, vì bây giờ ta biết ngươi là người kính sợ Thiên Chúa: con một ngươi, ngươi đã không từ chối với Ta” (St. 22, 11-12). Và Thiên Chúa lại tái xác nhận lời hứa Ngài đã ban cho ông một cách long trọng, Thiên Chúa đã thề:

“Lần thứ hai thần sứ Yahweh gọi Abraham từ trời và phán: Ta lấy mình Ta, Ta thề, sấm của Yahweh: vì ngươi đã làm điều ấy, và đã không từ chối (với Ta) con một ngươi, thì Ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, Ta sẽ làm cho dòng giống ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát bãi biển, và dòng giống ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch. Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta” (St. 22, 15-18).

c. Trung gian mặc khải

            Mặc khải là hành vi Thiên Chúa cứu độ con người! Ngài tỏ cho con người biết Ngài là ai và con người là ai (St. 1-2), Ngài cũng tỏ cho Abraham và qua Abraham cho tất cả mọi người, biết: Ngài đã tuyển chọn Abrham, Ngài trở thành Đấng ban lời hứa và Đấng bảo vệ Abraham trong suốt đời ông.

            Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Abraham, là Đấng ban lời hứa, là Đấng bảo vệ Abraham. Nhưng nếu Abraham không biết thì Abraham đã không thể đáp trả lời mời gọi và những đòi hỏi của Thiên Chúa, và nếu vậy Abraham đã không được cứu, và như vậy việc Thiên Chúa tuyển chọn Abraham có ích gì cho ông? Con người chỉ là người trọn vẹn khi con người hành động một cách tự do, có ý thức. Chính vì thế Thiên Chúa đã tỏ lộ cho con người biết về Thiên Chúa, về chính con người, và về cả vũ trụ nữa.

i. Thiên Chúa phán

            St. 12, 1 cho biết “Yahweh phán với Abram”. Nhưng bằng cách nào? qua trung gian nào?

            Thiên Chúa thì vô hình; còn con người là tinh thần và thân xác; con người thiết yếu biết qua trung gian khả giác. Ở đây không thấy Kinh Thánh đề cập đến bằng cách nào Abram biết được là Chúa phán với ông; nhưng một điều Kinh Thánh khẳng định: “Yahweh phán với Abram”, Abram đã ý thức điều này với tất cả sự chắc chắn, không có một chút xíu nghi ngờ.

ii. Thiên Chúa hiện ra

            St. 12, 7: “Và Yahweh đã hiện ra cho Abram và phán bảo ông...”. Ở đây cũng không thấy Kinh Thánh nói Yahweh đã hiện ra cho Abram như thế nào, dưới hình gì (x. St. 17, 1).

            St. 18, 1-2: “Yahweh đã hiện ra cho ông nơi cây sồi Mamrê... ông ngước mắt lên, thì này: có ba người đứng bên ông”. Ở đây Kinh Thánh cho biết: Thiên Chúa đã hiện ra cho Abraham dưới dạng hình người. Hai trong ba người Abraham đã thấy, được gọi là thần sứ (St. 19, 1), còn Yahweh vẫn đứng lại trước mặt Abraham (St. 18, 22).

            St. 16, 7-13 cho thấy thần sứ của Yahweh đã phán với Hagar, thị tỳ của Sara. Và sau đó Hagar cho là Yahweh đã phán với nàng: “Và nàng gọi danh Yahweh Đấng phán với nàng: “Người là El-Roy[84]” (St. 16, 13). Nơi các bản văn xưa, thần sứ của Yahweh không là tạo vật khác với Thiên Chúa[85].

iii. Lời trong thị kiến, trong mộng

            St. 15, 1: “Sau các điều ấy, lời của Yahweh đến với Abram trong thị kiến mà rằng...”. Kinh Thánh nói “lời đến trong thị kiến”, nhưng không thấy qua trung gian người nói hay nhờ trung gian nào khác.

            St. 20, 3: “Thiên Chúa đến với Abimêlek trong mộng ban đêm và phán bảo ông...”. Theo ghi chú trong bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: mộng báo ban đêm là một đặc điểm của nguồn văn E (St. 28, 11; 31, 11-14; 37, 5tt; 40, 5tt; 41, 1tt; 46, 2); đó là một cách tả thần hiện được coi là xứng đáng hơn với tính siêu việt của Thiên Chúa.

            Lời hứa Thiên Chúa đã ban cho Abraham, Ngài lập lại với Ysaac: “Đừng xuống Ai cập; hãy ở lại trong xứ, ta sẽ nói cho ngươi. Hãy ngụ lại trong xứ này: Ta sẽ ở với ngươi, Ta sẽ chúc lành cho người và Ta sẽ ban cho ngươi, và dòng giống ngươi tất cả xứ này. Ta sẽ giữ lời Ta thề với Abraham cha ngươi. Ta sẽ cho dòng giống ngươi nên đông đảo như sao trên trời, Ta sẽ ban cho dòng giống ngươi tất cả các xứ này. Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi chưng Abraham đã vâng nghe Lời Ta và đã giữ trọn đạo với Ta, các luật điều, các thánh chỉ của Ta” (St. 26, 2-5).

            Cũng tại Ghêrar này, “Yahweh đã hiện ra cho ông chính đêm ấy và phán: Ta là Thiên Chúa của Abraham, cha ngươi. Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi! Ta sẽ chúc lành cho ngươi, Ta sẽ cho dòng giống ngươi nên đông đảo, vì Abraham tôi tớ của Ta” (St. 26, 24).

            Trong hai lần mặc khải cho Ysaac được trích ở trên , Kinh Thánh nói Thiên Chúa hiện ra phán (St. 26, 2. 24); ở câu 24: Thiên Chúa hiện ra vào ban đêm. Cả trong hai lần hiện ra, Thiên Chúa đều hứa: “Ta sẽ ở với ngươi”. Thiên Chúa ở với ai, người đó sẽ được chúc phúc. Lời chúc phúc ở đây thật cụ thể: dòng giống đông đảo, và có đất làm phần cơ nghiệp (St. 26, 3. 4).

            Trong hai lần hiện ra, Thiên Chúa đều nhắc tới Abraham; ngoài những tên để chỉ Thiên Chúa như El-Roy, El-Shadday, còn thấy xuất hiện một cách để chỉ Thiên Chúa, đó là: Thiên Chúa của Abraham (St. 26, 24).

            Những điều Thiên Chúa đã hứa với Abraham và Ysaac, thì Ngài cũng lập lại với Yacob. Thiên Chúa đã hiện ra với Yacob trên đường ông tới Haran: “Yacob chiêm bao: thì này có một thang cấp dựng trên đất, nhưng chóp đỉnh thấu trời. Và này có những thần sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên đó. Và này Yahweh đứng bên chàng. Người phán: Ta là Yahweh, Thiên Chúa của Abraham cha ngươi, Thiên Chúa của Ysaac. Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi. Dòng giống ngươi sẽ đông như cát bụi bành trướng ra Đông Tây Nam Bắc. Mọi tông tộc trên trần sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau. Và này Ta sẽ ở cùng ngươi, Ta sẽ gìn giữ ngươi khắp nơi ngươi đi, Ta sẽ đem ngươi về lại đất đai này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi, sao cho đến lúc Ta hoàn tất các điều Ta phán với ngươi” (St. 28, 12-15).

“Yacob đã tỉnh giấc và nói: hẳn thật có Yahweh ở chốn này mà tôi không biết” (St. 28, 16).

“Yacob đã khấn với Chúa rằng: Nếu Thiên Chúa ở cùng tôi, và gìn giữ tôi trên đường tôi đang đi, nếu người cho tôi có bánh ăn, áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an vô sự, thì Yahweh sẽ là Thiên Chúa của tôi và viên đá tôi đã dựng làm thạch trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa. Và trên mọi điều Người ban cho tôi, tôi sẽ trích thập phân dâng Người” (St. 28, 20-22).

            Đọc các trình thuật ghi lại cuộc đời của Yacob, người ta thấy quả thực Thiên Chúa đã dẫn dắt ông, đã đưa ông đi và dẫn ông về. Sau khi Yacob đã có vợ con và tài sản, chính Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông trở về: “Yahweh phán bảo Yacob: Hãy trở về đất cha ông ngươi ở, về quê quán của ngươi và Ta sẽ ở cùng ngươi” (St. 31, 3).

            Thiên Chúa cũng đã can thiệp với Laban để ông không đụng chạm gì tới Yacob (St. 31, 24. 29). Yacob cũng được Thiên Chúa đổi tên thành Israel, như Thiên Chúa đã đổi tên cho Abram và Sara (St. 32, 29; 35, 10).

            Yahweh Thiên Chúa đã hứa Ngài sẽ ở với ông, và điều này thể hiện qua cuộc đời của ông, qua những may mắn ông gặp trên đời, qua những tài sản ông kiếm được. Điều này chính Yacob cũng đã thấy khi ông đến Bêthel dâng lời tạ ơn Thiên Chúa: “hãy khử bỏ các thần xa lạ khỏi giữa các ngươi, hãy thanh tẩy mình và thay y phục. Rồi ta hãy chổi dậy đi lên Bêthel. Ở đó tôi sẽ làm tế đàn kính Thiên Chúa, Đấng đã nhậm lời tôi trong ngày quân bách, Đấng đã ở với tôi trên đường tôi đi” (St. 35, 2-3).

            Thiên Chúa đã ở với Yacob để giải cứu ông, để độ trì ông làm ăn phát đạt. Yahweh đã thành nguồn hạnh phúc của Yacob.

3. Thiên Chúa can thiệp vào dòng lịch sử

 

HOME    THẦN HỌC    MẶC KHẢI        MK1       MK2       MK3       MK4       MK5       MK6       MK7

 

Chúc bạn an vui hạnh phúc.

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

liempham@jesuits.net

 



[1] S. THOMAE in Arist. Librum De Anima Commentarium, n. 21

[2] Một vài từ ngữ được dùng ở đây tương ứng với từ ngữ tiếng nước ngoài:

trí khôn, lý trí:       intellect hay intelligence, intellectus, Vernunft, ...

trí tưởng tượng:    imagination, phantasia, ...

lý nhớ:                    mémoire, memoria, ...

lý trí:                       raison, ratio, Vernunft, ...

trí hiểu:   entendement, Der Vernunft.

Điều này không có nghĩa có nhiều lý trí, nhưng nhằm diễn tả những khả năng của lý trí con người.

Để hiểu có khi phải suy luận, nhưng có khi là sự nắm bắt trực giác không qua suy luận; như vậy trí hiểu có thể nằm trong lý trí (trí hiểu như khả năng lý luận của trí khôn) hoặc trí hiểu có thể được dùng để chỉ chính trí khôn.

Lý trí, theo Đào Duy Anh trong Hán Việt Từ Điển in tại Paris 1950, có nghĩa: sức suy nghĩ, đối với sức cảm giác.

[3] chẳng hạn ý niệm “cái bàn” phổ quát có thể ứng dụng với mọi cái bàn cụ thể.

[4] eidos là từ ngữ được Platon dùng để chỉ nguyên mẫu của những vật thể của thế giới khả giác; từ ngữ ý niệm (eidos, idée) ở đây không trùng với nghĩa được Platon dùng.

[5] Tự do, công bình, bác ái, được hiểu là quan niệm vì nó không được trừu xuất từ những vật thể cụ thể trực tiếp nhưng nó được tạo thành do suy luận, do phán đoán. Thực ra chúng cũng có thể được gọi là những ý niệm, nhưng là những ý niệm “cấp cao”.

[6] phán đoán về tri thức, lối sống, cách hành xử của con người.

[7] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 40

trích dẫn S. THOMAE in III De Anima, lect. 12, nn. 781-785

[8] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 49

K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 254:

Nihil sine phantasmata intelligit anima (linh hồn không hiểu gì nếu không có ảnh tượng).

Theo từ điển Latin-Pháp của Quicherat:

phantasia, ae, f.: vision, imagination, simulacre

Phantasma, atis, n.: être imaginaire, simulacre

cả hai đều từ tiếng Hylạp.

[9] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 41

[10] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 37 note 5 trích dẫn

S. THOMAE in Boeth. de Trin., q. 6, a. 2, ad 5: “Phantasma est principium nostrae cognitionis ut ex quo incipit intellectus operatio, non sicut transiens sed sicut permanens ut quoddam fundamentum intellectualis operationis, sicut principia demonstrationis oportet manere in omni precessu scientiae.

[11] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., n. 19

[12] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., nn. 717. 718. 762

[13] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., nn. 791. 794

[14] S. THOMAE, In Arist. Lib. De Anima Comm., n. 718

[15] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, pp. 86-87

[16] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 36

[17] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 132

[18] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 111

[19] S. THOMAE, Contra Gent., IV, 11 trích bởi

K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 128

[20] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 129

[21] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 128

[22] K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, pp. 248. 113

[23] S. THOMAE, S.T., I, q. 84, a.7, ad 3 trích dẫn bởi

K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 150 note 14

[24] S. THOMAE in Boeth. De Trinit., q. 6, a. 2, corp.

trích bởi K. RAHNER, L’Esprit dans le monde, p. 150 note 14

[25] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 248

Ở chỗ khác, Rahner nói:

Tiền dự là sự khai mở của ý thức chúng ta về chân trời, mà trong chân trời đó đối tượng đặc thù của tri thức nhân linh được lãnh hội (op. cit., p. 114).

Tiền dự là điều kiện để có ý niệm phổ quát, để có trừu xuất; Và đến lượt mình, trừu xuất là điều kiện để có khách thể hóa dữ kiện khả giác, và như vậy cũng là điều kiện để có tri thức (op. cit., p. 113).

Tiền dự như vậy không là sự hiểu biết tiên thiên về một đối tượng, nhưng là chân trời được ban cùng với yếu tính con người, và như vậy, nó là điều kiện tiên thiên của tri thức về một hiện tượng hậu thiên (op. cit., p. 249).

[26] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 112. 113. 115

[27] S. THOMAS, ST. I, q. 79, a. 3, corp: “Oportebat igitur ponere aliquam virtutem ex parte intellectus, quae faceret intelligentia in actu, per abstractionem specierum a conditionibus materialibus. Et haec est necessitas ponendi intellectum agentem Cf. ST. I, q. 84, a. 4, ad 3

K. RAHNER, L'Esprit dans le monde p. 150

K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 111. 113

[28] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 205

S. THOMAE, De Anime, a. 5, corp;

In IV Met., lect.6, n.599

[29] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 80

K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 85

trích dẫn S. THOMAE, Contra Gent., II, 98

[30] K.RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 94:

Connaitre n’est pas une actio (production d’un acte d’appréhension) mais un actus, c’est-à-dire une réalité qui est-auprès-d’elle-même”

(De Verit., q. 8, a. 6, corp. và S.T., I, q. 18, a. 3, ad 1)

[31] K.RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 94:

“Connaitre, c’est être-auprès-de-soi, c’est l’état de réflexion sur lui-même d’un être doué d’une puissance d’être déterminée”.

[32] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 87

Từ ngữ “thể tri” ở đây được dùng để dịch chữ Erkennen tiếng Đức của K. Rahner. Nếu đọc bản dịch tiếng Pháp, dịch giả bản tiếng Pháp lại dùng từ “Connaissance”.

Một vài từ ngữ được dùng ở đây:

tri thức:                  connaissance, connaitre

thể tri:                     connaitre, erkennen

tri thể:                     connaissant, sujet qui connait, cognoscens

cái được biết, thụ tri thể:                     cognitum, intellectum

khả tri thể:             cognoscibile, intelligibile (tĩnh từ dùng như danh từ).

[33] étant connaissant. Chủ tri: sujet qui connait.

[34] reditio subjecti in seipsum. Bei-sich-sein.

[35] Cognoscens in actu et cognitum in actu sunt idem.

Cf. F-J. THONNARD, Précis d’histoire..., p. 108

[36] S.THOMAE, ST. I, q. 87, a.1, ad 3: “Idem est intellectus et quod intelligitur”, trích bởi K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 81

[37] S. THOMAE, Contr. Gent. II, 98: “Intellectum est perfectio intelligentis”;

II, 99: “Intellectus in actu perfectio est intellectum in actu”

trích bởi K. RAHNER, L' Esprit dans le monde, p.81. 85-86

[38] K. RAHNER, L' Esprit dans le monde, p. 82

                Op. cit., p. 80:

“Intelligibile enim et intellectum oportet proportiona esse et unius generis (d’une seule origine), cum intellectus et intelligibile in actu sint unum” (Car autrement l’unité effective de l'être et du connaitre dans la connaissance en acte ne pourrait être rendue intelligible dans sa possibilité).

                Khả tri thể và lý trí phải tương xứng và cùng một loại; lý trí và thụ tri thể là một trong hiển thể. “Idem intellectus et intellectum et intelligere” (p. 80).

                “Ens est intelligibile et intelligens, in quantum est ens actu”

trong In II Met., livre I, n. 280

được trích bởi K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 86

                Tính khả tri là khả năng hiện diện với mình, vì thế tính khả tri có nhiều mức độ khác nhau (la cognoscibilité est pouvoir-être-auqrès-de-soi...) (Esprit dans le monde, p. 84).

                Mức độ chủ thể tính cho thấy một hiện thể sở hữu hữu thể ở mức độ nào (RAHNER, L'Esprit...,p. 83: le degré de cette “subjectivité” indiquent inversement quelle mesure de puissance d'être possède un étant).

                Tri thể và thụ tri thể đều là hữu thể. Khả tri tính tương ứng với chủ thể tính. Tri thể và thụ tri thể là một trong hiển thể, bởi vì cả hai là hữu thể, và bởi vì cả hai đều là hữu thể trở về chính mình của hiện thể.

[39] K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 139. 91-92

[40] “Lý trí chúng ta trong tình trạng hiện tại, tình trạng liên kết với thân xác, không thể biết gì (ở hiển thể) nếu không trở về với ảnh tượng”.

                Còn với với tác phẩm của Aristote được thánh Thomas chú giải:

ARISTOTE, De Anima, Lib. III, lect. XII, c. VII: “... propter quod numquam sine phantasmate intelligit anima” (Lý trí (linh hồn) không biết gì nếu không nhờ ảnh tượng)

trong S. THOMAE, In Arist. Libr. De Anima Comm., nn. 772. 791. 854

[41] S. THOMAE, In Arist. Libr. De Anima Comm., n. 767:

Intellectus proprium est facere affirmationem vel negationem.

[42] Op. cit., p. 793:

Intellectus solius est cognoscere verum et falsum.

[43] Ở đây chúng ta không đứng trên quan điểm Kinh Thánh; nhưng ngay cả với Kinh Thánh, ý định cứu độ của Ngài cũng không đồng nhất với sự thánh thiện và tốt lành của Ngài. Nói một cách nôm na: Thiên Chúa tốt lành và thánh thiện, nhưng không phải vì vậy mà Ngài buộc phải cứu độ con người.

Cf. K. RAHNER, art. “Salvation”

trong SACRAMENTUM MUNDI, V, HERDER and HERDER 1970, p. 406

[44] Chẳng hạn để diễn tả tình yêu giữa hai người với nhau, họ có thể dùng nhiều cách khác nhau, và không buộc phải theo một công thức cố định nào!

[45] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 201:

Dieu peut révéler uniquement ce que l’homme peut entendre... Mais ladite proposition devient fausse si l’on la modifie en disant...

[46] nghĩa là nếu Thiên Chúa không muốn thay đổi cơ cấu con người.

[47] M. A. BAILLY, Abrégé du Dictionnaire Grec-Français, PARIS 1961, từ ngữ Logos

[48] E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum, LIPSIAE 1905, từ ngữ DABAR

[49] J. L. McKENZIE, Dictionary of the Bible, MILWAUKEE 1965, art. “Word”:

“The dynamic reality of the Word is accompanied by its dianoetic reality (O. Procksch). Hb uses “word” where we use “thing” or “deed”. The word as name gives the thing intelligibility; but the thing does not acquire full reality until it gets a name and becomes intelligible. In conferring the name the person exercises his dynamism by which he makes the thing real; in knowing the name the person exercises his dynamism in the reverse direction and “apprehends” the word-thing”. (page 938).

[50] Như vậy, giả như Thiên Chúa mặc khải trong giấc mộng, thì những ảnh tượng (phantasma) hiện diện nơi lý trí trong giấc mơ vẫn có thể được coi như lời.

Hiểu theo nghĩa rộng hơn, lý trí chính là lời. Nếu Thiên Chúa mặc khải gì cho con người, thì mặc khải cho con người qua lý trí. (Câu khẳng định này là thừa, nhưng nó giúp hiểu rõ khẳng định: Thiên Chúa mặc khải cho con người qua lý trí).

Theo K.Rahner, lời thích hợp để hiểu thực tại siêu thế giới, vì lời có khả năng phủ định. Lời có thể phủ định những gì được xác định nơi thực tại trần thế để vươn lên thực tại siêu việt.

(Cf. K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 270)

[51] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, pp. 200-201

[52] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, p. 266

[53] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., p. 203

                Theo M.A. BAILLY, op. cit., từ ngữ HISTORIA:

Lịch sử là điều con người tìm hiểu và khám phá rồi kể lại. Như vậy, nếu con người chỉ nhìn biến cố như những gì tình cờ chứ không do một lý trí hay một hành vi của hiện hữu tự do (cố ý) thực hiện, thì biến cố đó đâu có ý nghĩa gì.

                Với người Do Thái, biến cố lụt hồng thủy có nghĩa vì nó được nhìn như hành động của hiện hữu tự do là Thiên Chúa.

Trong Linh Thao số 102. 111, thánh Ynhã gọi là lịch sử những gì đức tin cho biết về những quyết định của Thiên Chúa.

[54] vì là hành động của hiện hữu tự do.

[55] Lịch sử dân Do thái thực sự đã là lời để dân Do Thái nhận biết Thiên Chúa và ý định của Ngài trên dân. Các tiên tri là những người đã đọc được các lời này một cách rõ nét và đã loan báo lại cho dân.

                Những biến cố lịch sử nhân loại, do con người là những hữu thể tự do thực hiện, đã trở thành lịch sử mang tính thần linh, là lời thần linh giúp con người nhận biết Thiên Chúa.

[56] K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, pp. 220. 88. 94. 97. 99

[57] K.RAHNER, L'homme à l'écoute..., pp. 220-221

S. THOMAE AQ., In Arist. Libr. De Anima commentarium, n. 377: “Cognitio autem omnis fit per hoc, quod coggnitum est aliquo modo in cognoscente, scilicet secundum similitudinem”: tri thức là có cái gì tương tự cái được biết nơi chủ tri.

[58] K. RAHNER., op. cit., pp. 104-105. 225

khả năng phản tỉnh, biết mình và siêu vượt.

[59] K. RAHNER, op. cit., p. 208

K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, p. 139

[60] Về lý trí tự do, đức Phật và S.Freud đã nói về trường hợp lý trí bị hủ hóa bởi tư lợi. Xem thêm: LNC., Dẫn Nhập Thần học, ĐL. 38, trg. 25

[61] K. RAHNER, L'homme à l'écoute..., pp. 124-125. 79

[62] K. RAHNER, L' Esprit Dan Le Monde, p. 291 trích dẫn

De Verit., q. 10, a. 8, ad 4:

“Non tamen materiae subditur, ut materialis reddatur”.

De Verit., q. 19, a. l corp.:

“Hoc lumen (intellectuale) non est corpori obligatum”

[63] K. RAHNER, op. cit., pp. 286. 290. 191

[64] hiện hữu này có thể là hiện hữu bất tất đối với hiện hữu tất yếu tuyệt đối.

[65] Thiên Chúa

[66] ý chí đi theo lý trí (voluntas sequitur intellectum).

[67] ST. THOMAE AQUINATIS in Aristotelis Librum De Anima Commentarium, MARIETTI 1959, n. 288:

“Quod quidem dividitur in tria: scilicet desiderium, quod est secundum vim concupiscibilem; et iram, quae est secudum vim irascibilem: qui duo appetitus pertinent ad partem sensitivam: sequuntur enim apprehensionem sensus. Tertium autem est voluntas, quod est appetitus intellectivus, consequens scilicet apprehensionem intellectus” (Lib. II, lect. V, c. III).

[68] Op.cit.,n. 286:

Appetitus naturalis est inclinatio sequens formam naturalem; Appetitus sensibilis est inclinatio quaedam quae sequitur ad formam sensibilem; Appetitus intelligibilis est inclinatio quae sequitur ad formam intelligibilem.

[69] F-J. THONNARD, Précis d’histoire ..., p. 116

[70] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, p. 156

[71] K. RAHNER, L’homme à l’écoute du Verbe, pp. 155-156

[72] người ta đã lấy khả năng tri thức làm chuẩn đánh giá mức độ hữu thể này.

[73] K. RAHNER, L' Homme à L'écoute Du Verbe, p. 176: 'L'amour est la volonté lumineuse qui veut la personne dans son unicité irréductible'.

[74] Chẳng hạn con người thấy mình có thể ăn hay không ăn, ăn lúc này hay lúc khác, và thậm chí có thể tuyệt thực quyên sinh để bảo vệ hoặc cảnh cáo hay phản đối điều gì đó.

[75] Thiên Chúa đã mặc khải, điều này được nhận biết khi tra vấn lịch sử. Điều này sẽ được làm trong phần mặc khải theo Kinh Thánh.

[76] Sáng Thế được san định lần cuối vào khoảng năm 400 trước công nguyên; nhưng con người đã xuất hiện trên trái đất khoảng hơn một triệu năm rồi, còn Abraham mới chỉ cách chúng ta đây chưa đầy bốn ngàn năm (Abraham xuất hiện khoảng 1850 năm trước công nguyên).

[77] Con người được đặt tên cho muôn vật (St. 2,19-20).

[78] Truyền thống của miền nam, tức Yuđa.

[79] Thiên Chúa đã cho con người sự sống của Ngài (St. 2, 7. 9. 16).

[80] vì Sara son sẻ không con (St.11, 30)

[81] Abram là tên của Abraham trước khi Thiên Chúa đổi tên cho ông (St. 17, 5).

[82] Dựa theo Sáng Thế chương 16, 16: “Abram sống được 86 tuổi, khi Hagar sinh ra Ismael cho Abram”. Và dựa vào St. 16, 3: “Mãn 10 năm Abram lập cư ở đất Canaan, Saray, vợ của Abram đã đem Hagar, thị tỳ của bà, mà dâng nàng làm thiếp cho Abram chồng bà. Ông đã ăn ở với Hagar, và nàng đã có thai. Năm 99 tuổi, Abram đã cắt bì để thực thi điều kiện giao ước của Yahweh, và Ismael đã 13 tuổi (St.17, 24.25). Như vậy, dựa vào sách Sáng Thế, Abram đến định cư ở Canaan khi ông được khoảng 76 tuổi.

[83] Thiên Chúa đến với Abimêlek trong mộng ban đêm (St. 20, 3). Trước đó, Thiên Chúa hiện ra với Hagar, nữ tỳ của Sara, để mách bảo những điều Hagar phải làm (St. 16,7-13). Thiên Chúa phán gọi Hagar khi Sara đuổi Hagar ra khỏi nhà (St. 21, 17-19).

[84] El-Roy có nghĩa là Thiên Chúa của thị kiến.

[85] Xem chú thích trong bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn, nxb. DÒNG CHÚA CỨU THẾ - SG. 1976, chú thích St. 16, 7.