HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC
LỤC:
b. Cần ơn soi sáng để nhận
biết chân lý
b. Con người- hình ảnh Thiên Chúa
d. Đức Yêsu Kitô- đường
dẫn đến với Thiên Chúa Cha
Tư
tưởng của Origène[1]
cũng nhằm biện minh cho mặc khải Kitô giáo. Theo
triết lý Hy lạp, Thiên Chúa là Đấng siêu việt khôn
dò, vậy làm sao Ngài lại có thể mặc khải cho con
người? Mặc khải kitô giáo khác với những tôn
giáo nhận mình cũng có mặc khải như thế nào?
Origène sinh
khoảng năm 185 tại Alexandrie, là học trò của
Clément d' Alexandrie. Ông đã đi nhiều nơi, kể
cả đã qua Roma. Origène chú giải nhiều sách trong
bộ Kinh Thánh. Ông chết ở Césarée hay ở Tyr
khoảng năm 250, sau khi chịu cực hình vì đức
tin[2].
Theo De Principiis,
một trong những tác phẩm đầu tiên của
Origène, người ta thấy thần học của Origène
triển khai từ ý niệm Thiên Chúa.
Chịu ảnh
hưởng của trường phái Platon cũng như
trường phái thần học Alexandrie, Lời đóng
một vai trò rất quan trọng. “Người ta thấy nơi
Lời- Đấng là Thiên Chúa và là hình ảnh của Thiên
Chúa vô hình- Cha là Đấng đã sinh ra Lời... Ai chiêm
ngắm hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, cũng có thể
chiêm ngắm Cha, nguyên mẫu của hình ảnh” (Comm. in
Joan. XXXII, 9).
Thiên Chúa mặc
khải theo một chương trình, và trong chương
trình này Lời đóng vai trò hướng ngoại (De Princ.
IV, 4, 8; Comm. in Joan, VI, 57; Contr. Celsum II, 66). Lời xét như
người chỉ đạo, dẫn đưa con
người đến một nhận thức cao hơn
(Comm. in Joan. 19, 6). Quan niệm mặc khải bao hàm ý
tưởng tiến bộ, được diễn tả
bằng bộ ba Umbra- Imago- Veritas.
Con người có
thể nhận biết Thiên Chúa qua công trình của
Người (Princ. I, 1, 6; Comm. in Cant. III), và qua việc
lắng nghe tiếng lương tâm của mỗi
người (Princ.I, 3, 1). Con người có sự
đồng nhất thiêng liêng nào đó với nguyên lý của
hữu thể (Hom. in Gen. 17).
Mặc khải
của Thiên Chúa cho con người đạt tới cao
điểm trong biến cố nhập thể của
Lời. Nơi Đức Yêsu Kitô, Lời hiện diện
không chỉ như nguồn ý nghĩa trong tạo dựng,
cũng không chỉ như lực thiêng liêng nơi con
người có lý trí, mà như là autologos (Contr. Celsum V, 39; VI,
47).
Mặc khải có
tính năng động nội tại, và hàm chứa tính
tiến bộ. Sự thần hiển trong việc nhập
thể của Lời liên kết với biến cố tái
lâm của Đức Kitô. Trong ngày cánh chung đó,
người ta sẽ thấy Đức Kitô “không như
chúng ta thấy bây giờ, nghĩa là như Ngài không là,
nhưng như là thời đó, nghĩa là như Ngài
thực sự là” (Comm. in Mt. XVII, 19).
Về sự
tiến bộ của mặc khải, R. Goegler viết:
sự tiến bộ của mặc khải không hệ
tại trong sự thay đổi nội dung, nhưng trong sự
khai mở tiệm tiến của nội dung, trong sự
thiêng liêng hóa và trong sự hoàn tất nội dung mặc
khải[3].
Triết gia Celsus,
một đại diện của tư tưởng Hy
lạp thời đó cho rằng: “Cứ theo người Do
thái và Kitô hữu, Thiên Chúa và Con Thiên Chúa đã chẳng có thể
hạ cố” (Contr. Celsum V, 2). Sở dĩ Celsus nói như
vậy, vì ông thấy có sự mâu thuẫn nội tại
trong lập trường của Kitô giáo khi tuyên xưng
Đức Yêsu là Con Thiên Chúa và Lời, nhưng đồng
thời lại trình bày Ngài như một người
bị đánh đòn và chịu khổ hình, chứ không
như Lời thuần túy và thánh thiện (Contr. Celsum, II,
31).
Thực ra, Origène
không phải là người không cảm thấy nhức
nhối vì sự “kỳ dị” này, nhưng ông cố
gắng thoát khỏi lưỡng luận này bằng lý thuyết
về sự thích ứng của Lời với hoàn cảnh
con người: “khi đến với con người tìm
kiếm Ngài và tiếp nhận Ngài khi Ngài hiện ra cho
họ, Lời có khả năng làm cho họ nhận
biết Cha và mặc khải Cha, Đấng là Đấng
vô hình trước khi Ngài tới. Ai có thể cứu và
dẫn linh hồn con người đến với Thiên
Chúa tối cao, nếu không phải là Thiên Chúa Lời?
Từ khởi đầu Ngài đã ở nơi Thiên Chúa,
nhưng vì con người còn bị dính vào xác thịt, nên
Ngài đã thành thịt, để có thể được
nhận biết bởi những người không thể
thấy Ngài như Ngài là Lời, như Ngài ở bên
cạnh Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Được diễn
tả trong hạn từ thân xác, và được rao
giảng như xác thịt, Ngài gọi đến với
Ngài những kẻ là xác thịt, để làm cho họ
được bước lên cao, để họ có
thể thấy Ngài như Ngài đã là trước khi
trở thành xác thịt” (Cont. Celsum VI, 68).
Origène cố
gắng thiết lập sự hài hòa giữa Kinh Thánh và
những lời bài bác từ những ý thức hệ xung
quanh. Qua nổ lực này, Origène duy trì sự siêu việt
của Thiên Chúa cùng với ước vọng hiểu
biết của con người; và cho thấy việc
nhập thể hướng đến việc biến
đổi con người, dẫn con người
đến chiêm ngắm các thực thể thiêng liêng.
Trong công thức
“Đức Kitô loan báo chính mình” (Comm. in Joan. XIII, 28), Origène
trình bày quan niệm về mặc khải: Lời làm
người, vừa là Đấng mặc khải, vừa
là Đấng được mặc khải.
Tương quan
giữa Lời và Kinh Thánh rất chặt chẽ: “tất
cả đã được tạo dựng bởi Lời,
nghĩa là không chỉ các tạo vật, nhưng cả
lề luật và các tiên tri nữa” (Comm. in Col., frgm. PG. 14,
1297c cf. Ga. 1, 3).
Giữa Kinh Thánh
và Lời nhập thể có tương quan song đối:
“Cũng như Lời được loan báo không thể
sờ mó được vì bản chất của nó như
vậy (tức vô hình), nhưng một khi nó được
chép lại trong sách, một hình thức nhập thể nào
đó, thì nó có thể được đụng chạm;
cũng vậy, Lời của Thiên Chúa. Theo thần tính,
Lời không được thấy cũng chẳng
được viết, nhưng khi Lời thành thịt, thì
Lời được thấy và được viết.
Vì Ngài làm người, nên có sách gia phả của
Đức Yêsu Kitô” (Comm. in Mt., frgm. PG. 17, 289 AB).
Dưới hình
thức sách, mặc khải là một hành vi giống như
nhập thể (Contr. Celsum VI, 77). Theo một nghĩa nào
đó, Lời Kinh Thánh đồng nhất với lời
siêu thời gian. Kinh Thánh ở đây không chỉ
được hiểu như những trình thuật về
lịch sử cứu độ được in dấu
bởi Thiên Chúa Lời, cũng không được hiểu
là bộ sưu tập những chữ chết, nhưng
phải được hiểu là tất cả các biến
cố cứu độ được Lời thực
hiện.
Celsus cho rằng
con người khó có thể biết Thiên Chúa với cái
biết tinh ròng. Để trả lời, Origène nói: “Chúng
tôi cho rằng, bản chất con người không
đủ để tìm kiếm Thiên Chúa và khám phá ra Ngài
với sự tinh ròng, trừ phi với sự giúp
đỡ của Đấng mà họ đã tìm kiếm. Sau
khi những kẻ tìm kiếm Ngài đã làm hết sức và
đã khám phá được Ngài, họ đã thú nhận
rằng, phải có sự giúp đỡ của Ngài
để khám phá được Ngài. Ngài tỏ lộ cho
những kẻ Ngài xét là hữu lý để Ngài hiện ra
cho họ” (Contr, Celsum VII, 42).
Với câu trả
lời trên của Origène, mặc khải là sáng kiến
của Thiên Chúa, chứ không phải do sức và tự
sức con người. Sự tiến bộ về
nhận biết Thiên Chúa vẫn là ân sủng.
Origène không để ý nhiều đến chiều
kích lịch sử của mặc khải, nhưng lại
nhấn mạnh đến chiều kích đối
thoại. Thiên Chúa đã mặc khải cho con người,
và qua hành vi mặc khải, Ngài khơi nguồn những
tương giao mới và phong phú giữa Ngài và con
người.
Augustin sinh
khoảng năm 354 tại Tagaste ở Numide. Mẹ là thánh Monica,
và cha là một người ngoại chỉ trở lại
vào giây phút cuối đời. Thời thơ ấu, thánh
nhân đã được mẹ dạy cho biết “ơn
cứu độ chỉ có được trong Đức
Kitô”, và điều này đã in sâu trong tâm khảm Agustin. Vào
những năm 365-369, nghĩa là vào thời điểm
Augustin từ 11 đến 15 tuổi, Augustin
được gởi đi học tại Madaure; chính vào
thời điểm xa gia đình đầu tiên này, và
nhất là xa người mẹ đạo đức
Monica, mà Augustin bắt đầu sống xa nếp sống
đạo đức. Vào năm 370, Augustin được
gởi đi Carthage để học về hùng biện. Vào
năm 373, lúc 19 tuổi, Augustin đọc Lecture de
l'Hortensius của Cicéron, và nhận ra: con người
chỉ có hạnh phúc đích thực nếu chiếm
hữu được chân lý. Từ thời điểm này
trở đi, câu hỏi nền tảng luôn được
lập đi lập lại với Augustin: làm sao có
được chân lý đích thực?[4].
Trên
đường tìm kiếm chân lý đích thực, Augustin
đã đến với phái nhị nguyên (Manichéisme); đây
là thời điểm Augustin làm giáo sư về hùng
biện ở Tagaste năm 373, và ở Carthage vào những
năm 374-383. Nhị nguyên thuyết đã làm Augustin thất
vọng, nhất là khi lãnh tụ phái nhị nguyên là giám
mục Fauste ở Milève tới Carthage vào năm 382, giám
mục này thú nhận không thể trả lời các vấn
nạn của Augustin. Hơn nữa, khi Augustin tới Roma
vào năm 383, ngài thất vọng hơn nữa khi thấy
đời sống vô luân của các lãnh tụ phái nhị
nguyên tại đây[5].
Vẫn miệt
mài tìm kiếm chân lý đích thực, sau khi thất bại
với nhị nguyên thuyết, vào năm 383 ở Roma,
Augustin tìm đến với chủ thuyết cái nhiên
(probabilisme) của trường phái tân hàn lâm (Nouvelle
Académie). Nhưng chủ thuyết này cũng làm Augustin
thất vọng, vì họ nhận mình dạy
đường lối khôn ngoan, nhưng chính họ lại
chủ trương thuyết cái nhiên, một chủ thuyết
lấy nghi ngờ làm chính, và cho rằng con người
không hoàn toàn chắc chắn sở hữu được
chân lý.
Cũng vào năm
384, Augustin nhận ghế giáo sư tại Milan, và ở
đây Augustin gặp thánh giám mục Ambroise. Sau những
lần nghe thánh nhân giảng dạy và gặp gỡ, Augustin
nhận ra chân lý. Augustin quyết định học
đạo, trở thành dự tòng vào năm 384.
Vào khoảng
năm 385 Augustin khám phá ra rằng, cần thiết phải
có một uy quyền phân biệt với lý trí, để có
thể sở hữu được chân lý. Đó là Kinh
Thánh hay Hội Thánh. Cũng chính vào thời điểm này,
Augustin phủ nhận hoàn toàn chủ trương thuyết
cái nhiên trong việc nhận biết chân lý. Chấp nhận
Kinh Thánh và Hội Thánh là quy phạm của đức tin và
chân lý, đó là sự hoán cải tinh thần của
Augustin., Tuy vậy vẫn còn nhiều vấn đề
thuộc bình diện tri thức mà Augustin còn cảm thấy
lấn cấn. Augustin vẫn tiếp tục đọc và
nghiên cứu những tác phẩm của trường phái
tân-Platon, chủ yếu của Plotin. Những điều
này soi sáng cho Augustin nhiều, và bổ túc những
điều giám mục Ambroise giảng dạy[6].
Vào mùa thu, tức
là vào khoảng tháng 9 năm 386, một lần đang ở
trong khu vườn tại Milan, Augustin nghe thấy tiếng
“Tolle, lege”, ngài đã quyết định từ bỏ tham
vọng, từ bỏ hôn nhân, từ bỏ thế gian; ngài
đã cùng một số bạn bè lui về Cassiciacum
để làm một loại nhà tập, sống đời
tu trì[7].
Tới
đầu năm 387, Augustin trở về lại Milan
để chính thức chuẩn bị lãnh nhận bí tích
rửa tội vào lễ Phục Sinh năm 387, cùng với
người con Adéodat và một người khác là Alype[8].
Augustin làm linh
mục năm 391; và khi giám mục ở Hippone mất, Ngài
được chọn làm giám mục tại đó năm
395. Chính từ giáo phận nhỏ bé này, mà Ngài soi sáng
Hội Thánh hoàn vũ[9].
Augustin chết
ngày 28.08.430, thọ 76 tuổi, khi Ngài đang làm giám mục
ở Hippone, tức Numide, nay thuộc Carthage nước
Algérie.
Khi xét quan
điểm của Augustin về mặc khải, phải
lưu ý đặc biệt tới lý thuyết soi sáng
của thánh nhân. Chính nơi lý thuyết soi sáng này,
người ta thấy được quan niệm của
thánh nhân về Thiên Chúa và con người.
Lý thuyết “soi
sáng” (illumination) phản ánh cuộc đời tìm kiếm
chân lý của Augustin với bao nhiêu năm miệt mài
vất vả nơi các trường phái nhị nguyên và Tân
Hàn Lâm.
Augustin đã tìm
thấy chân lý.
Khi nhận ra chân
lý, tức là thấy được sai lầm của
trường phái nhị nguyên. Những người này luôn
nói họ rao giảng mặc khải của đức Kitô,
nhưng thực ra họ rao giảng chính lý thuyết
của họ. Họ không có sự khôn ngoan đích thực,
và cuộc sống vô luân của họ cho thấy
điều đó. Augustin cũng thấy được sai
lầm của phái Tân Hàn Lâm; những người này cho
rằng không thể biết chân lý cách chắc chắn, và
họ chủ trương “thuyết cái nhiên” (probabilisme): có
lẽ họ biết được chân lý!
b. Cần ơn soi sáng để nhận biết chân lý
Cần ơn soi
sáng để nhận biết chân lý[10].
Điều này không muốn nói, lý trí không có khả năng
biết chân lý. Lý trí có khả năng nhận biết chân lý
vĩnh cửu, nhưng cần có sự trợ giúp bởi
ánh sáng từ trên.
Sẽ hiểu rõ
hơn về lý thuyết ơn soi sáng, nếu nhìn và so sánh
với quan niệm của Augustin về ân sủng và tự
do: con người với nguyên tội vẫn còn tự do
nhưng phần nào đã bị lòng tham dục khống
chế; ân sủng của Thiên Chúa vẫn cần để
con người làm điều thiện, chứ không
phải con người có khả năng hành thiện
độc lập với Thiên Chúa như Pélage chủ
trương, hoặc con người chủ động
hành thiện trước và ân sủng của Thiên Chúa
trợ giúp sau như nhóm Semipélagianisme chủ trương.
Lý trí cần
ơn soi sáng để nhận biết chân lý[11],
nhưng lý trí không “chỉ có nhiệm vụ thứ yếu
và có tính chuẩn bị trong việc nhận biết chân lý
như F-J. Thonnard chủ trương[12].
Nếu giải thích lý trí chỉ có nhiệm vụ thứ
yếu trong việc nhận biết chân lý, e rằng chúng ta
hiểu sai tư tưởng của Augustin, vì như
vậy trái với Rm.1, 19-21 và cũng trái với quan
niệm về con người của Augustin (con
người vẫn còn tự do để làm điều
thiện, và ân sủng không làm giảm giá trị tự do
của con người).
Tương
tự như ánh sáng cần để thị giác có thể
nhận ra những vật hữu hình, thì ơn soi sáng
cũng cần để lý trí nhận ra những chân lý
vĩnh cửu. Ánh sáng mặt trời cần để
nhận ra những sự vật hữu hình, nhưng nói
như vậy không có nghĩa muốn nói rằng: thị
giác chỉ có chức năng thứ yếu torng việc
nhìn thấy sự vật khả giác hữu hình.
Lý thuyết soi
sáng, tức lý thuyết về khả năng của lý trí
con người, là lý thuyết nằm trong nhãn quan con
người đã phạm tội. Như vậy, quan
điểm cứu độ là quan điểm nền
tảng trong cả thần học lẫn triết học
của Augustin. Chính con người sa đọa mới
cần ơn cứu độ. Không thể tách triết
học ra khỏi thần học nơi Augustin. Ở
đây người ta lại thấy lời dạy của
mẹ thánh Monica thật quan trọng với Augustin; lời
dạy này hình thành quan điểm của Augustin nơi
cả triết học lẫn thần học: “Ơn
cứu độ chỉ có nơi Đức Kitô”[13].
Sau bao năm trong mê lầm trong tăm tối, trong khắc
khoải tìm kiếm chân lý; cuối cùng Augustin đã nhận
biết chân lý cùng với thực tại cụ thể
của con người: con người với những
giới hạn và tham dục.
Lý thuyết “soi
sáng” không là lý thuyết độc lập bàn về khả
năng của lý trí con người, nhưng nó diễn
tả giới hạn của con người cụ thể
trong việc nhận biết chân lý, và như vậy nó
chỉ được hiểu đúng đắn trong cái
nhìn toàn bộ về con người của Augustin. Lý
thuyết “soi sáng” hàm chứa khẳng định có
những chân lý hiện hữu độc lập với lý
trí con người[14],
và những chân lý vĩnh cửu khách quan này hiện hữu
nơi Thiên Chúa, nơi Lời Thiên Chúa[15].
Ánh sáng soi sáng lý
trí này, là ánh sáng tự nhiên (xét như linh hồn theo bản
tính quy hướng về nhận biết chân lý)[16],
là ánh sáng đặc biệt phân biệt với ánh sáng riêng
của trí khôn[17],
là chính Thiên Chúa[18].
Ánh sáng, nhờ đó lý trí nhận biết chân lý, là chính trí
năng tác động theo Thomas[19].
Ánh sáng này, theo Thomas, tuy không do linh hồn sở hữu
như tự linh hồn có vẫn ở nơi linh hồn,
làm một với linh hồn. Còn đối với Augustin,
ánh sáng này linh hồn nhận được từ trên,
từ Thiên Chúa[20].
Chân lý ở trên lý
trí con người, là thực tại độc lập
với lý trí con người. Chính vì vậy, lý trí con
người cần ơn soi sáng để nhận biết
chân lý vĩnh cửu. Và cũng chính vì vậy, con
người cần một uy quyền tách biệt với
lý trí để giúp lý trí con người nhận biết
chân lý vĩnh cửu, đó là Kinh Thánh và Hội Thánh[21].
Thiên Chúa là chân lý
thực hữu, là chân lý của mọi chân lý, là
Đấng cứu độ con người qua Đức
Kitô, là Đấng soi sáng, để linh hồn con
người nhận biết chân lý vĩnh cửu, là
Đấng yêu thương luôn ban ân sủng giúp con
người hành thiện. Con người là tạo vật
sa ngã bị thương tổn, được cứu
độ qua ơn soi sáng để nhận biết chân lý
vĩnh cửu, qua ân sủng và đặc biệt qua
Đức Yêsu Kitô như Lời Thiên Chúa, Đấng
vừa là Đường, vừa là sự thật, vừa
là Sự sống.
Với kinh
nghiệm sống của bản thân, Augustin không đề
cao lý trí như một khả năng tuyệt đối mà
các nhà duy lý đã làm sau này. Trái lại, thánh nhân đề
cao Đức Kitô như Lời Thiên Chúa sở hữu
mọi chân lý và làm con người hạnh phúc đích
thực. Ngài cũng đề cao Hội Thánh như
quyền bính bảo vệ và lưu truyền chân lý. Chính nhờ
Hội Thánh và cụ thể qua thánh giám mục Ambroise,
Augustin đã nhận biết chân lý vĩnh cửu.
Bonaventura[22]
không trực tiếp bàn về mặc khải, nhưng
cũng bàn về những mặc khải trong lịch
sử cứu độ. Ở đây sẽ tìm biết
tư tưởng của ngài về sự cần
thiết, chức năng và đặc tính của mặc
khải từ tổng hợp thần học[23].
Với một tín
hữu, điều họ tin nhận, là chân lý. Tương
tự như vậy với một triết gia kitô hữu
chân thực, điều họ tin nhận và triết
thuyết của họ không thể mâu thuẫn nhau. Trong cái
nhìn này, những điều Bonaventura chấp nhận
hoặc vay mượn nơi triết lý của Platon,
đối với Bonaventura, có thể dung hợp hài hòa
đối với chân lý đức tin ngài tin nhận.
Cũng trong cái nhìn này, đức tin trở thành chỉ
đạo cho lý trí, và chân lý đức tin trở thành nguyên
tắc triết lý.
Thuyết ý
mẫu (exemplarisme) là cốt lõi triết thuyết của
Bonaventura. Đây là thuyết được gợi hứng
bởi tư tưởng của Platon, cho rằng thế
giới khả giác này được giải thích nhờ
thông dự vào nguồn ý niệm[24].
F-J. Thonnard tóm lại lý thuyết căn bản của
Bonaventura bằng câu: “Mọi sự đều khả tri
nhờ các ý niệm mẫu của Thiên Chúa”[25].
Lý thuyết ý
mẫu nơi Bonaventura hàm chứa:
·
Hữu
thể tối cao đã tạo dựng vũ trụ
nhờ những ý niệm nơi Ngài;
·
Bởi vì
vũ trụ thế giới này được tạo
dựng theo ý mẫu nơi Thiên Chúa, nên những hữu
thể tạo dựng cũng giống cũng phản ánh,
như những bóng mờ (umbra) hoặc như những
dấu vết (vestigium) hoặc cao hơn nữa là như
hình ảnh (imago)[26].
·
Thiên Chúa
biết tạo vật vì những ý niệm ở nơi
Thiên Chúa như những ý niệm mẫu của tạo
vật; các ý niệm ở nơi Thiên Chúa, nhưng cũng
ở nơi các sự vật, đến độ vũ
trụ trong toàn bộ có thể được coi như
sự biểu lộ của nguyên mẫu và sự tốt
lành của Thiên Chúa[27].
Các ý niệm mẫu được định nghĩa là
“Similitudo rei per quam cognoscitur et producitur”.
Ý niệm
thuộc về tri thức, và tri thức là sự
đồng hóa nào đó, hoặc cái tương tự
giữa chủ thể tri thức và đối
tượng tri thức. Bonaventura dùng từ ngữ
“diễn tả” (expressio) để chỉ tri thức[28].
Chân lý được định nghĩa là tri thức
tuyệt hảo[29],
là hành vi của trí khôn diễn tả sự giống nhau
tuyệt hảo giữa trí khôn và sự vật[30].
Bonaventura còn phân
biệt tri thức do trừu xuất và tri thức do ơn
soi sáng. Tri thức trong trật tự trừu xuất
nhằm thủ đắc khoa học về những
hữu thể bất tất, còn tri thức ở trật
tự thị kiến trực giác có đối
tượng là chân lý vĩnh cửu thần linh[31].
Ở đây Bonaventura lấy lại lý thuyết soi sáng
của Augustin.
b. Con người- hình ảnh Thiên Chúa
Vì con người
là hình ảnh (imago) của Thiên Chúa, nên con người có
thể biết và yêu Thiên Chúa[32].
Chính bởi ý niệm mà tương quan giữa Thiên Chúa và
tạo thành được thiết lập, đến
nỗi “sự tương tự” (similitudo) trở nên
nền tảng cho phép đạt tới tri thức
chắc chắn[33].
Theo Bonaventura,
mọi tạo vật đều phản ánh Ba Ngôi: Ngôi Cha
như nguồn gốc, ngôi Con như hình ảnh, và Thánh
Thần như dây liên kết (Coll. in Hex. II, 23).
Con người,
vì là hình ảnh, có thể vươn lên và trở về
với nguồn gốc của mình. Con người có
khả năng đọc quyển sách là thế giới
tạo vật này để nhận biết Thiên Chúa. Nơi
con người xét như là hình ảnh, có một khát
vọng tự nhiên trở về với nguyên mẫu, cái mà
con người có một nhận thức nào đó về, nhờ
bản chất được tạo dựng của mình[34].
Trật tự tri
thức và lịch sử cứu độ không tách rời
khỏi nhau. Lịch sử xét như là lịch sử nhân
linh, luôn hướng tới ơn cứu độ hay
sự hư mất như ta thấy trong Kinh Thánh. Bởi
tội, con người chuyển từ tình trạng vô
tội và vẹn toàn như thời ở vườn
địa đàng đến tình trạng sa đọa; và
chính đức Kitô đã giải phóng con người
bằng cách đặt con người dưới luật
ân sủng (III Sent. d. 16, dub. 4).
Tình trạng vô
tội nguyên vẹn là sự hòa hợp hoàn hảo giữa
cơ chế hữu thể của con người xét
như hình ảnh của Thiên Chúa với chính cung cách hành
xử của con người. Lúc này ý chí và trí khôn nhận
biết mối tương quan đặc biệt giữa
con người và nguyên lý của mình; tri thức trực
giác và tri thức trừu xuất về Thiên Chúa trở
thành một, đến độ Thiên Chúa có thể
được nhận biết qua các tạo vật như
qua một tấm gương không tì ố (I Sent. d. 3, p. 1,
a. un., q. 3). Nhưng ở tình trạng này, tri thức về
Thiên Chúa cũng không tuyệt hảo, vì nó chưa là thị
kiến trong vinh quang. Tuy vậy, thế giới
được coi là quyển sách đã mở và có thể
đọc được (Brev. II, 12; II Sent, d. 23, a. 2, q. 3).
Tội nguyên
tổ đã bẻ gẫy sự hài hòa giữa Thiên Chúa và
con người. Quyển sách tạo thành đã trở thành
bị niêm ấn; tinh thần đã xa lìa Đấng là nền
tảng, nguyên lý, mục đích của mình, để
hướng tới các thực tại chóng qua. Hậu
quả là bản tính bị sa đọa, tuy vẫn là hình
ảnh (II Sent., proem); nếu ba tài năng của tâm hồn
vẫn còn nguyên vẹn, thì tấm gương của
thế giới bên ngoài đã bị lu mờ, và khả
năng nhận biết cũng như các sự vật
đã ra tệ (I Sent., d. 3, p. 1, a.un., q. 3). Sau sa ngã không ai có
thể từ các tạo vật trở lại nguồn
gốc của mình, vì quyển sách tạo thành đã khép
lại; bởi thế, để có thể trở lại
nguồn gốc của mình, vì quyển sách tạo thành
đã khép lại; Bởi thế, để có thể
trở về lại với nguồn gốc của mình,
cần phải có một quyển sách mới, hầu
thế giới được soi sáng và các ngôn ngữ
biểu trưng của tạo thành có thể
được hiểu. Đó là Kinh Thánh (Col. in Hex. XIII, 12).
Các phần
của Kinh Thánh có một lịch sử động, nó bao
gồm ba giai đoạn lớn của lịch sử
cứu độ: thời luật tự nhiên, thời
luật được chi chép, và sau cùng là thời
đại luật ân sủng. Người ta phải
biết ba thời điểm này để hiểu tính
chất mầu nhiệm của Kinh Thánh (Col. in Hex. XV, 20). Ai
đi sâu vào mầu nhiệm Kinh Thánh, sẽ nhận ra ý
định của Thiên Chúa trong hành động cứu
độ.
Kinh Thánh nhắm
biểu lộ ơn cứu độ trong thời gian và
không gian. Kinh Thánh là sức mạnh canh tân nhằm dẫn
đưa tạo thành đến nguồn gốc của nó
và mang lại hạnh phúc tròn đầy (Bre., Prol., 2) Tuy
vậy, Kinh Thánh không nhằm đưa con người
trở lại tình trạng địa đàng đã
mất, nhưng nó mang lại cái gì mới mà thế gian
không thể tự mình làm ra được, vì Kinh Thánh là tác
phẩm của Thiên Chúa, chính Ngài đã dùng các tác giả nhân
loại để viết nên Kinh Thánh (IV Sent., d. 2, a. 2, q. 2,
ad.1).
Ở tình
trạng đầu tiên, con người được
đặt làm trung tâm của tạo thành; còn bây giờ
đức Kitô là trung tâm. Chính Ngài bây giờ là con
đường của tạo thành và con đường
chân lý, Ngài là khách lữ hành, xuất từ Cha và trở
về với Cha. Trong Ngài, quyển sách tạo thành
được mở ra; Ngài cũng là người
đọc sách với tri thức viên mãn, là Đấng
đưa tất cả tạo thành trở về với
tác giả của nó. Như ở nơi Ba Ngôi, Lời Thiên
Chúa là Đấng diễn tả yếu tính của Cha;
cũng vậy bây giờ đối với tạo thành,
Ngài vừa là người mặc khải tối cao của
Ngôi thứ nhất. Quyển sách nội tâm của Thiên Chúa
đã được mở ra bên ngoài bởi việc
nhập thể; quyển sách này có thể đọc và có
thể hiểu, bởi vì nơi quyển sách, nơi
người Con này, thâu tóm sự khôn ngoan vĩnh cửu;
đến độ trong Ngài, thế giời này có thể
được tái tạo (Brev. 11, 11). Trong Đức Kitô,
hữu thể thâm sâu của Thiên Chúa được khai
mở cho thế gian, đến độ bây giờ
thế gian có thể biết và liên kết vói Ngài: đó là
ơn cứu độ đã được mầu
nhiệm nhập thể mang lại.
Kinh Thánh là
nguồn duy nhất của tri thức thần học, Kinh
Thánh mang lại cho người đọc không chỉ
mặc khải, hiểu theo nghĩa như lời giải
thích thế giới và lịch sử, nhưng nó còn có
nhiệm vụ thanh tẩy cùng soi sáng, và đem lại cho
người đọc ý nghĩa về Thiên Chúa, điều
đã bị mất bởi tội.
Kinh Thánh phải
được đọc trong truyền thống giáo
phụ, vì nếu bị tách khỏi đức tin
truyền thống của Hội Thánh, Kinh Thánh không mang
lại tri thức cứu độ (Coll. in Hex. XIX, 10).
Hiểu trong
bầu khí này, Bonaventura chống lại triết học, vì
triết học không mang lại những tri thức đóng
góp vào tri thức cứu độ, không có sức tha
thứ tội (Vis. III, Coll. 7, n. 6-7; cf. Coll. in Hex. XIX, 7), vì
lý trí nhân loại không có khả năng chứng minh
đức tin. Đức tin dựa trên Kinh Thánh và các phép lạ
(Coll. in Hex. XIX, 14).
d. Đức Yêsu Kitô- đường dẫn đến với Thiên Chúa Cha
Đức Kitô,
Đấng nói trong Kinh Thánh, là nền tảng cố
định, là đèn soi lối, và là cửa dẫn vào
(fundamentum stabiliens, lucerna dirigens, et janua introducens).
Đức Kitô trở nên nguyên lý soi sáng trí tuệ. Ngài là
nguồn duy nhất của tri thức chân thực, là
đường và chân lý, vì Đức Kitô là Đấng
mặc khải Cha. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
được viết trong Ngài như trong quyển sách
sự sống. Trong Ngài ẩn dấu kho tàng khôn ngoan và
hiểu biết[35].
Xét như là
đường dẫn tới Cha, Đức Kitô là
Thầy và là nguyên tắc tri thức (những tri thức do
đức tin). Không có Ngài, không ai đạt đến tri
thức này, vì bởi việc Ngài đến trong Thánh Linh,
Ngài là nguồn gốc mặc khải, và bởi việc
Nhập Thể, Ngài trở thành cột trụ uy quyền
(Sermo sel. de Reb. Theol. IV, n. 2). Xét như là chân lý, Ngài là
Thầy duy nhất, vì nơi Ngài có chân lý vĩnh cửu
về đối tượng cần biết và không thể
sai lầm (Op. cit., n. 6). Đức Kitô cũng là mối dây
liên kết hai mặc khải chứa đựng trong hai
giao ước, do đó Ngài là nền tảng chân thực
của học thuyết nơi các tiên tri và nơi các tông
đồ[36]. Hơn
nữa, xét như Lời làm người, Đức Kitô
mở cho chúng ta ý nghĩa thâm sâu nhất của Kinh Thánh, vì
Kinh thánh chủ yếu nói về nguồn gốc và tiến
trình cứu độ (Coll. in Hex. III, 2).
Đức Kitô
xuất hiện trong Tân ước dưới dấu
chỉ thập giá, do đó tất cả thần học
phải là thần học về thập giá: “Thập giá là
quyển sách duy nhất dẫn con người đến
sự khôn ngoan đích thực”[37].
Qua Đức
Kitô, Thiên Chúa đã nói với con người. Đức tin
là lời đáp trả duy nhất tương ứng
với chức vụ trung gian của Đức Kitô. Tuy
vậy nguồn của đức tin không là hành
động thuần túy của con người, nhưng
chính trong Đức Kitô và trong Thiên Chúa mà đức tin có
nền tảng (Coll. in Hex. VIII, 2).
Bonaventura cho
rằng, đức tin Hội Thánh tuyên xưng
được tìm thấy trong Kinh Thánh, nếu không
từng chữ thì ít ra là trong ý nghĩa[38].
Do đó mọi khẳng định thần học
phải có tương quan chặt chẽ với mặc
khải thành văn[39].
Để hiểu Kinh Thánh, cần sự giúp đỡ
của truyền thống qua các giáo phụ. Trong nhãn quan này,
các tín khoản tuyên xưng thời các tông đồ có
một chỗ đứng rất quan trọng, vì nó có giá
trị như nguyên tắc chỉ đạo và bất
biến[40]. Trong nhãn
quan này, mặc khải thiết yếu liên hệ tới
Hội Thánh giáo huấn.
Khi lược
sơ qua tư tưởng của thánh Bonaventura,
người ta nhận ra nỗ lực của Ngài nhằm
giải quyết vấn đề tiềm ẩn: con
người có thể biết Thiên Chúa không? con người
có thể nhận mặc khải của Thiên Chúa không? Thánh
nhân giải quyết bằng lý thuyết các ý niệm, có
sự liên hệ giữa Thiên Chúa và tạo vật (Umbra,
vestigium); riêng con người vì là hình ảnh của Thiên
Chúa, có thể đọc được quyển sách
“tạo thành” nói về Thiên Chúa. Quyển sách này đã
bị tội làm đóng lại, và con người không
thể đọc được nữa; thế nên
cần một quyển sách khác là Kinh Thánh. Với
Đức Kitô, chúng ta nhận biết về Thiên Chúa
dễ dàng hơn và trọn vẹn hơn quyển sách
“tạo thành”. Đức Kitô vừa là phương tiện
mặc khải mới và trọn vẹn của Thiên Chúa,
nhưng đồng thời Ngài cũng là đối
tượng mặc khải. Ai biết Ngài, là biết Cha,
ai thấy Ngài là thấy Cha; mặc khải đã
đạt tới tột đỉnh nơi đức Kitô[41].
Thomas d'Aquin sinh
khoảng năm 1225 ở lâu đài Rocca Secca gần Naples
tại Ý trong một gia đình công tước. Vào
khoảng năm 1244, ngài vào dòng Đa-minh, nhưng mãi
một năm sau, tức khoảng năm 1245, ngài mới
được tự do theo ơn gọi; vào khoảng
năm 1252-1259, ngài dạy tại Paris; khoảng năm
1272-1274, trở về Naples. Ngài chết trên
đường đi dự công đồng Lyon vào ngày 07.
03. 1274[42].
Thomas phân biệt
rõ trật tự tự nhiên và trật tự ân sủng. Lý
trí có thể nhận biết những chân lý mà không cần
nại đến sự can thiệp đặc biệt
của Thiên Chúa; và như vậy, triết lý là một khoa
học độc lập[43].
Những gì
khả hữu, đều khả tri[44].
Theo Thomas, trong tình
trạng tại thế của con người, đối
tượng tương xứng của con người tinh
thần là hữu thể trừu xuất từ sự
vật khả giác. Trí năng con người gồm trí
năng tác động và trí năng thụ động; trí
năng thụ động cũng còn gọi là trí năng
khả thể. Trí năng tác động trừu xuất những
ảnh niệm khả tri từ những ảnh
tượng, và từ các ảnh niệm khả tri này có các
ý niệm[45].
Một quan
niệm về khả năng tri thức của con
người bao hàm quan niệm về con người. Theo
Thomas con người có khả năng đi từ cái
đặc thù đến cái phổ quát, và có khả năng
đi từ cái hữu hạn đến cái vô hạn.
Hiểu con
người như trên, nghĩa là trong trật tự bình
thường[46],
con người đã được tạo dựng
để hướng tới với Thiên Chúa. Như
vậy, con người trong trật tự tự nhiên, có
tri thức về Thiên Chúa, nghĩa là, triết lý có chỗ
riêng của nó, nó có thể được coi là khoa học
độc lập với thần học- khoa học
đặt nền trên trật tự đặc biệt,
trật tự mặc khải, trật tự siêu nhiên.
Nếu lý trí con
người ở trật tự bình thường có
khả năng đi từ cái đặc thù để
đến cái phổ quát, có khả năng từ cái
hữu hạn lên tới cái vô hạn, có khả năng
từ hữu thể khả giác vươn tới thực
tại vô hình siêu việt, thì liệu có cần có mặc
khải không? Trong những điều liên quan đến
Thiên Chúa, có nhiều điều vượt quá khả
năng của lý trí con người, chẳng hạn chân lý
“Thiên Chúa là một và ba”[47].
Dưới sự hướng dẫn của ánh sáng tự
nhiên các triết gia chỉ có thể biết Thiên Chúa
hiện hữu và những phẩm tính tổng quát nơi
Thiên Chúa. Lý trí với khả năng tự nhiên, không có
khả năng hiểu thấu đáo Thiên Chúa và bản
chất của Ngài, vì tri thức của con người
ở điều kiện tại thế này đều
khởi từ giác quan. Những sự vật khả giác
tự bản chất của chúng không thể đưa trí
khôn của chúng ta đạt đến yếu tính thần
linh (Contr. Gent. I, c. 3, n.16). Hơn nữa, với khả
năng tự nhiên của lý trí con người vẫn có
thể sai lầm về những gì có thể biết
được theo khả năng của nó, nên Thiên Chúa nhân
từ cũng mặc khải cả những chân lý tự
bản chất không vượt quá lý trí con người, khi
những chân lý này liên quan đến hạnh phúc con
người, ngõ hầu con người được thông
phần vào sự nhận thức thần linh (ScG. I, 4, n.
26). Còn lý do khác cho thấy mặc khải thực sự
cần thiết cho con người, đó là: con
người được tạo dựng để
hướng về Thiên Chúa. Không có mặc khải, con
người không có thể đạt tới cùng đích
đời mình mà Thiên Chúa đã đặt nơi con
người như ơn gọi, như cái cấu thành
hữu thể con người[48].
Thiên Chúa đã tạo dựng con người như một
hữu thể “quy thần”, như một hữu thể có
thể đối thoại với Thiên Chúa, có thể
được Thiên Chúa mặc khải, có khả năng
sống hạnh phúc với Thiên Chúa.
Mặc khải
cần thiết, vì chỉ có đức tin dẫn tới
hưởng kiến. Hạnh phúc tuyệt đối
của con người hệ tại được hưởng
kiến Thiên Chúa, và con người chỉ có thể
đạt được sự hưởng kiến này
nếu con người được Thiên Chúa dạy
dỗ như một người thầy dạy học trò
(ST., IIa-IIae, 2, 3)[49].
Nói một cách khác, đức tin là điều kiện
để được hưởng kiến vĩnh phúc.
Con người được mời gọi, để
vượt qua chính mình, vượt qua những gì khả
giác, để học ao ước những gì vượt
quá điều kiện của cuộc sống hiện
tại (ScG. I, c.5, n.29). Đức tin thật cần
thiết để đạt tới tri thức chân
thực hơn về Thiên Chúa, và tri thức này chỉ
được ban cho những ai tin vào Thiên Chúa là
Đấng vượt trên cả cái mà người ta có
thể nghĩ về Ngài (ScG. I, c.5, n.30).
Đối
tượng vô hình của đức tin được
tỏ lộ đầu tiên cho các thiên thần bằng
một thị kiến trực tiếp (per apertam visionem). Và
rồi các thiên thần thông truyền cho một số
người nào đó với tất cả sự chắc
chắn do mặc khải thần linh (ScG. III, c. 154, n. 3256
tt). Sự chắc chắn này có được, là nhờ
một ánh sáng thiêng liêng nội tâm, cho thấy điều
còn bị che khuất đối với ánh sáng tự nhiên
của lý trí.
Mặc khải
không là một đặc ân cá nhân, chỉ dành cho một
số người; trái lại nó dành cho tất cả
mọi người; và như vậy, nó phải trải dài
qua thời gian. Và điều này chỉ có thể, nếu
mặc khải được viết ra. Và không chỉ có
thể, còn gồm cả việc chú giải các tài liệu
mặc khải cũng như việc hiện tại hóa
mặc khải (ScG. III, c.154, n. 3258-3273).
Mặc khải
xét như lịch sử chỉ có thể đến
với chúng ta trong những quyển sách của hai giao
ước, đó là Kinh Thánh. Kinh Thánh là nền tảng
của mọi suy tư thần học, nếu những suy
tư thần học này muốn tựa vào lịch sử.
Theo chứng
từ Kinh Thánh, nhân loại đã trải qua nhiều tình
trạng (status): luật cũ rồi luật mới.
Tương quan giữa luật cũ và luật mới
cũng tương tự như tương quan giữa cái
bất toàn và cái hoàn hảo. Tất cả lịch sử
cứu độ hướng tới đỉnh, là tình
trạng đời sống hiện tại (status praesentis
vitae). Nghĩa là, sau nó sẽ không có cái gì mới xét như
thiết yếu nữa; bởi vì không có cái gì gần
mục đích cuối cùng hơn cái dẫn trực
tiếp tới mục đích cuối cùng: thời gian ân
sủng đã được biểu lộ trong
đức Kitô (ST. Ia-IIae, 106, 4). Mặc
dầu giai đoạn cuối cùng của ơn cứu
độ đã được khởi đầu với
Đức Kitô, nhưng cái hiện tại vẫn là hình bóng
và bất toàn so với “quê hương” (patria); khi quê
hương được đạt đến vào
cuối thời thì cái hiện tại sẽ chấm
dứt (ST. Ia-IIae, 106, 4).
Cựu
Ước vẫn còn cần thiết, vì nó là luật
chuẩn bị cho Đức Kitô xuất hiện. Mỗi
một thời điểm của lịch sử cứu
độ không thể được hiểu như
một giai đoạn ở ngoài đối với con
người. Chính nhờ thời điểm cuối cùng
này mà bản chất của Cựu Ước
được xác định, đến độ con
người không thể được xác định cách
đúng đắn nếu không để ý đến tình trạng
cuối cùng này. Tình trạng của nhân loại thay
đổi qua thời gian. Và như vậy, đức tin
ở mỗi tình trạng cũng khác nhau theo thời
điểm nhưng tính duy nhất của đức tin
ở hai giao ước vẫn được bảo toàn
(ST. I-II, 106, 3, ad 2; 107, 1, ad 1; 107, 2).
Thomas cũng bàn
đặc biệt đến các tiên tri của Cựu
ước, và cho thấy những hoàn cảnh trong đó
mặc khải lịch sử đến với con
người. Nơi các tiên tri, Thiên Chúa đã ban cho các ngài
ánh sáng siêu nhiên để các ngài nhận biết Thiên Chúa;
các tiên tri hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa, và các ngài chỉ
nhận được ánh sáng này bao lâu các ngài
được ban cho (De Ver. 11, 1). Người ta có thể
hình dung tiến trình này như một cuộc nói chuyện
(quasi quaedam allocutio) hay như việc nghe nói (perceptio divinae
locutionis). Các lời hay các diễn từ của tiên tri
được tri thức này hướng dẫn
điều khiển, nhằm xây dựng tha nhân.
Đối
tượng của tri thức, là Thiên Chúa và con
người, là những biến cố tương lai, là
sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, là tri thức
cần cho con người trong trật tự cứu
độ và truyền thông tri thức này. Yếu tố mô
thức của tri thức tiên tri là ánh sáng thần linh; chính
ánh sáng thần linh làm cho các sấm ngôn có tính thống
nhất dù đối tượng thay đổi, dù cách thức
lãnh nhận có khác nhau (thị kiến, giấc mơ, hình
ảnh) (ST. II-II, 171, 3, ad 3). Yếu tính của lời tiên
tri không hệ tại những hình thức diễn tả
nhưng ở nơi ánh sáng được thông truyền.
Nơi đây không còn là một tương quan tự nhiên
thầy trò, nhưng chính là ánh sáng siêu nhiên đến soi sáng
phán đoán. Chính nhở ánh sáng này mà các tiên tri có sự
chắc chắn tuyệt đối.
Mặc khải
tiên tri gồm những mức độ trọn hảo
khác nhau, và cao nhất là sự biểu lộ các chân lý
thần linh qua chiêm ngắm; sự biểu lộ qua chiêm ngắm
vượt trên sự biểu lộ bằng hình ảnh
được rút ra từ những sự vật khả
giác của thế giới này, bởi vì, biểu lộ qua
chiêm ngắm giống thị kiến hưởng phúc
hơn (ST. II-II, 174, 2).
Nơi tri thức
tiên tri, các thiên thần cũng đóng một vai trò nào
đó trong mức độ các ngài có thể gợi lên
những thị kiến hình ảnh hoặc củng cố
ánh sáng thần linh trong tâm trí con người (De Ver. 12, 8, ad
4).
Sấm ngôn
hướng tới tri thức các chân lý thần linh.
Việc chiêm ngắm các chân lý thần linh. Việc chiêm
ngắm các chân lý này dạy dỗ con người ở bình
diện đức tin cũng như ở bình diện hành
động. Có sự tiến bộ về tri thức
thần linh trong dòng thời gian. Thời trước
lề luật, Abraham và các tổ phụ cũng
được giáo huấn trong tri thức về Thiên Chúa;
thời dưới lề luật, tri thức này mang
một hình thức hoàn hảo hơn: chân lý không chỉ
được loan báo cho một số người hay
một số gia đình, nhưng cho tất cả một
dân tộc; và rồi dưới thời ân sủng, Con Thiên
Chúa đã mặc khải mầu nhiệm Ba ngôi.
ii.
Đức Kitô- lữ hành và phúc nhân
Đức Kitô
tới đánh dấu điểm dứt của sấm
ngôn[50].
Ngài là Đấng mặc khải, là phúc nhân và lữ hành
(comprehensor et viator), Ngài nối kết thần linh và con
người, Ngài mang lại cho con người tri thức
tối hậu về Cha, Ngài thay thế sấm ngôn của
giao ước cũ. Nơi Ngài, mọi ân sủng
được ban cách hoàn hảo nhất (ST. III, 7, 7). Ngài
có thể thông truyền cho thế gian trọn vẹn chân lý
và toàn thể đặc sủng. Chính Ngài đã linh ứng
các tiên tri trước Ngài, và cả các thiên thần nữa;
bởi vì mọi tri thức đều do việc tham
dự vào Lời Thiên Chúa (Sup. Jo., c. VI, lect. 2, n.868).
Đức Kitô là
vị tiên tri tuyệt đối, hiểu như là
người “thị kiến” và “thông truyền”[51],
bởi vì Ngài đã loan báo các chân lý về Thiên Chúa (Sup. Jo.,
c. IV, lect. 6, n. 667). Bản án trên thập giá được
viết bằng ba ngôn ngữ, điều này hàm chứa
đặt mọi khoa học dưới sự vâng
phục của Ngài, và mọi tri thức tuyệt
đối đã được mặc khải trong
đức Kitô (Sup. Jo., c. XIX, lect. 4, n. 2422).
Chức năng
mặc khải của Đức Kitô ít được bàn
trong những tác phẩm chính của Thomas, nhưng
điều này không có nghĩa nó không có trong tư
tưởng của Ngài. Trong phần dẫn nhập
của tổng luận thần học phần thứ ba,
ngài viết: “Salvator noster Dominus Jesus Christus... viam veritatim
nobis in seipso demonstravit, per quam ad beatitudinem immortalis vitae
resurgendo pervenire possimus...” Đó là nội dung và mục
đích của mặc khải được thực
hiện nơi Đức Kitô. Ngài cho chúng ta thấy
rằng: chính con người Ngài là đường chân lý,
qua ngài chúng ta đến với Chúa Cha. Sự xuất
hiện của Ngài như một người giữa chúng
ta, chưa là kết điểm của hoạt động
thần linh; như vậy chúng ta không được
ngơi nghỉ trong nhân tính của Ngài, nhưng chúng ta
phải hướng về Chúa Cha qua nhân tính của Ngài[52].
Như Lời
Thiên Chúa, Đức Kitô là chân lý. Và như vậy, tất
cả mọi người muốn biết chân lý phải
gắn bó với Ngài. Đồng thời, Ngài cũng là sự
sống, đến độ, Ngài có thể giới
thiệu mình như là đường dẫn tới
đích điểm, vì trong Ngài tìm thấy mọi
điều đáng ao ước (Sup. Jo., c. XIV, lect. 2, n.
1869).
Nhập thể
cần thiết, vì việc nhập thể của Con Thiên
Chúa giúp con người đạt đến cùng đích
một cách chắc chắn hơn và thích hợp hơn. Bởi
việc nhập thể của Đức Kitô, đức
tin của chúng ta đạt tới sự chắc chắn;
vì nơi con người Đức Kitô, chính Thiên Chúa nói
với chúng ta cách trực tiếp, không qua trung gian. Niềm
hy vọng của chúng ta cũng được củng
cố, vì không có gì cho thấy rõ hơn tình yêu của Thiên
Chúa đối với con người qua việc Con của
Ngài đến ở giữa con người.
Mặc khải là
một chứng từ tình yêu, để chúng ta có thể
đáp trả bằng một tình yêu. Hơn nữa, Lời
làm người cho chúng ta một tấm gương “ad
rectam operationem”, bởi vì hoàn toàn như một
người, hầu con người có thể thấy Ngài
và bắt chước. Việc nhập thể biểu
lộ sự tham dự hoàn toàn thần tính (plene participatio
deitatis); sự tham dự thần tính này là mục đích và
hạnh phúc của con người (ST. II, 1, 2).
Tất cả
đời sống trần thế của Đức Kitô
đối với chúng ta là một mầu nhiệm, mầu
nhiệm cứu độ. Và điểm cuối của
mầu nhiệm này là sự phục sinh của
Người. Thomas cho rằng mầu nhiệm phục sinh
nhằm “bảo đảm sự công chính thần linh, giáo
dục đức tin của chúng ta, nâng cao lòng trông cậy;
huấn luyện đời sống tín hữu, bổ túc
ơn cứu độ chúng ta”[53].
Moiï ân sủng
được ban cho con người nhờ Đức
Kitô. Đức Kitô, hội tụ mọi ân sủng, xét
như Ngài là vị thầy đầu tiên và chủ yếu
của chúng ta (ST. III, 7, 7).
Nhập thể
nhằm rao giảng chân lý (ST. III, 40, 1). Sự rao giảng
này là một mặc khải của ngôi Cha, có kết
quả là giải phóng chúng ta khỏi tội, đồng
thời cho phép chúng ta lại gần Thiên Chúa (Sup. Jo., c. I,
lect. 11, n. 221).
Ngày xưa
người Con duy nhất đã thông truyền tri thức
về Thiên Chúa qua các tiên tri, tức những người
đã được tham dự vào Lời Vĩnh Cửu.
Còn bây giờ trong giao ước, không cần nại
đến trung gian vì sứ điệp đã vang vọng
trong chính ngôi vị Thiên Chúa. Như vậy, chúng ta có một
giáo lý vượt trên tất cả mọi giáo lý về
địa vị, về sự đáng tin, và về
việc sử dụng. Đối tượng quan
trọng nhất của sứ điệp này là: Thiên Chúa
một và ba. Sứ điệp này không có tiên tri nào có
thể nói tới, ngay cả Môsê (Sup. Jo, c. I, lect. XI, n. 221).
Bởi nhập thể, Thiên Chúa đã có thể nói trực
tiếp với chúng ta, để chúng ta có thể nghe
Lời Thiên Chúa (Sup. Jo. c. VIII, lect. 3, n. 1138).
Khi Đức Kitô
tỏ lộ Ngài như chân lý, Ngài chuẩn bị
vương quốc của Ngài. Vương quốc này
chủ yếu tựa trên việc mặc khải chân lý,
đến độ trong vương quốc này chỉ có
sự khôn ngoan nhân loại trong mức độ sự khôn
ngoan này đến tự Ngài (Sup. Jo., c. XVII, lect.6, n.2267). Khi
chân lý mặc khải không còn liên kết với ngôi vị
Đức Kitô tỏ hiện nơi thân xác nữa, thì
những người đến sau Đức Kitô chỉ
có một lối gián tiếp đến với chân lý này.
Tuy vậy lời mời gọi vẫn còn. Trong suốt dòng
thời gian, lời rao giảng luôn gắn liền với
mặc khải duy nhất, bởi vì chính Thiên Chúa dùng
phương tiện lời rao giảng để nói
với con người (De Ver. 18, 3).
Để con
người có thể tin vào sứ điệp của
Lời rao giảng, lời rao giảng có thể
được củng cố bởi những phép lạ,
cho thấy lời rao giảng này có nguồn gốc
thần linh (ST. II-II, 2, 1, ad 1). Có hai điều kiện
để tin: một là việc trình bày giáo lý đức
tin, hai là phép lạ và xác tín của người rao giảng
(như nguyên nhân bên ngoài của đức tin). Sự
thuận tình (assensus) đến sau đó, là công trình của
Thiên Chúa tác động thâm sâu do ân sủng (ST. II-II, 6, 1). Tuy
phép lạ và những điều bên ngoài khác cũng đóng
góp vào việc phát sinh đức tin, nhưng thánh Thomas không
cho đó là điều tối hệ trọng. Điều
quan trọng là “sự thúc đẩy của đức tin”
(instinctus fidei). Bằng lời mời gọi thâm sâu này, con
người khai mở với Tin Mừng và với Thiên
Chúa; chính Thiên Chúa dẫn con người tới sự
thuận tình tin[54].
Tiếng gọi
nội tâm mà Thiên Chúa ngỏ với con người nhờ
Đức Yêsu Kitô trong Thánh Thần này, là một lời
mời gọi tùng phục ơn cứu độ, trong
việc vâng phục lời rao giảng (Quodl. II, q. 4, 1, ad 3;
Sup. Jo., c. XIV, lect. 6, n. 1958).
Chân lý mặc
khải đầu tiên ở nơi giáo lý của
Đức Kitô, và sau đó ở nơi các tiên tri và các tông
đồ. Các ngài là những người được
thông truyền mặc khải cách trực tiếp; còn
với những người khác, mặc khải
được thông truyền qua lời rao giảng (ST.
II-II, 6, 1; 1, 10, ad 1; II-II, 174, 6). Do đó, đức tin
của kitô-hữu hôm nay tựa trên những quyển sách
quy chuẩn mà các ngài đã biên soạn[55].
Vậy Kinh Thánh có một vị thế duy nhất, nghĩa
là nhờ Kinh Thánh mà kitô-hữu nhận được
điều mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho về chính
Ngài, đến độ Kinh Thánh cung cấp cho đức
tin và cho thần học những luận chứng cần
thiết mà không một nguồn nào có thể mang lại.
Các tác giả Kinh
Thánh nhận một chứng từ thần linh chứng
thực bằng những phép lạ; những phép lạ này
giúp các ngài thoát khỏi nghi ngờ và những sai lầm. Vì
thế, các ngài là những bảo đảm của chân lý
mặc khải; đến nỗi kitô-hữu chỉ
phải tin vào các vị kế nhiệm các tông đồ,
trong mức độ lời rao giảng của các vị
này ăn khớp với những điều các tông
đồ đã kể lại qua những bản viết
của các ngài. Lãnh vực mặc khải trải rộng
với nội dung Kinh Thánh (De Ver. 14, 10, ad 11).
Giáo huấn
của Giáo Hội không được đi quá điều
đã được nói trong Kinh Thánh. Với những
vấn đề thuộc tín lý theo nghĩa riêng, Kinh Thánh
được coi là đủ. Tất cả những gì
bắt nguồn từ ý định Thiên Chúa mà lại
vượt quá những đòi hỏi tự nhiên thì đã
được mặc khải trong Kinh Thánh (ST. III, 1, 3).
Một cách tổng quát, đối với những gì liên
hệ đến cái siêu nhiên, kitô-hữu không bao giờ
được nói hay nghĩ rằng điều đó không
được “diễn tả” trong Kinh Thánh (In de div. nom.,
c.1, lect.1). Vì chính bởi Kinh Thánh mà kitô-hữu lãnh nhận
mặc khải của Thiên Chúa về chính Ngài, vậy
những gì được chứa đựng trong Kinh Thánh
phải được coi là “quy chuẩn tuyệt hảo
của đức tin” (optima regula fidei), nên không
được thêm hoặc bớt gì vào Kinh Thánh.
Kinh Thánh là quy
chuẩn đức tin. Những sự khác phải tùng
phục hòa hợp với quy chuẩn này, kể cả
truyền thống các giáo phụ (ST. II-II, 1, 9 arg. 1; III Sent.,
d. 25, q.2, a.2, qcl.4 arg. 3).
Mục đích
Kinh Thánh là giáo huấn con người; các giáo phụ
cũng như truyền thống chú giải đều
đóng góp vào mục đích này. Về tương quan
giữa Kinh Thánh và việc giải thích, Thánh Thần như
mắt xích nối kết hai điều này. Thánh Thần có
nhiệm vụ chính trong việc khai sinh các tài liệu này,
và Ngài cũng có nhiệm vụ tương tự trong
việc giải thích các tài liệu này trong dòng thời gian
(Quodl., XII, q. 17, a. un). Đây là điều phải giả
thiết khi nói Giáo Hội là quy chuẩn không sai lầm
(regula infallibilis).
Kho tàng đức
tin đã được xác định ngay thời các tông
đồ; tuy nhiên kho tàng này phải được làm rõ
trong Giáo Hội; các quyết định của Giáo Hội
được Thiên Chúa soi sáng là quy chuẩn, và cấu thành
lời giải thích chân thực về Kinh Thánh (ST. II-II, 2,
6). Như vậy giáo lý của Giáo Hội (doctrina Ecclesiae)
trở thành quy luật không sai lầm (regula infallibilis),
bởi vì đối tượng mô thể của
đức tin là chân lý thứ nhất, đã tự tỏ
lộ trong Kinh Thánh và trong giáo lý của Giáo Hội[56].
Như vậy, việc giải thích Kinh Thánh gắn liền
với uy quyền của Giáo Hội; đức tin của
Giáo Hội luôn quy chiếu vào Kinh Thánh như nền
tảng, bởi vì chỉ có tác giả Kinh Thánh mới
nhận được mặc khải trực tiếp[57]. Giữa giáo lý của Giáo Hội
và Kinh Thánh có một sự duy nhất, bởi vì Giáo Hội
không có quyền đi qúa những gì đã được
thiết lập trong các sách quy chuẩn (ST. II-II, 5, 3, ad 2;
Quodl. III, q. 4, a.10). Giáo Hội, được Thánh Thần
chân lý hướng dẫn, không thể rơi vào sai lầm[58];
và trong những vấn đề tranh cãi, quyết
định cuối cùng thuộc về giáo hoàng, vì ngài
được trao phó việc trình bày kinh tin (Credo) cho
mọi người, và các tín hữu phải vâng phục[59].
Vào thế kỷ
XVI, mặc khải là một vấn đề
được nhiều người bàn cãi. Do ảnh
hưởng của những anh em Tin Lành, có những quan
niệm và chủ trương sai lầm về giáo lý
mặc khải. Để cải chính lại những sai
lầm và để bảo toàn nguyên vẹn đức tin
công giáo, quyền bính Giáo Hội nơi công đồng Trêntô
đã can thiệp và trình bày giáo thuyết công giáo về
mặc khải.
Trước khi
xem ý kiến công đồng Trento về mặc khải, hãy
tự đặt mình vào bầu khí tư tưởng
của thời đó, cụ thể là quan niệm về
mặc khải của phong trào cải cách.
Phong trào cải
cách tôn giáo được Martin Luther khởi xướng[60],
và được nhiều người hưởng
ứng. Những tư tưởng gia nổi tiếng
của phong trào cải cách này là: Jean Calvin (1509-1564), Mélanchton
(1497-1560), Zwingli (1484-1531)...
i.
Giáo lý của những anh em Tin Lành
Martin Luther nghiên
cứu nhiều về Kinh Thánh và khi nghiên cứu thư
của thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma, ông bị
đánh động đặc biệt bởi tư
tưởng “bởi tin vào Đức Yêsu mà chúng ta
được cứu độ, chứ không phải
bởi việc làm” (Rm. 3, 22.28). Năm 1517, ông viết 95
luận đề chống lại giám mục Magdebourg là
Albert de Brandebourg về vấn đề lạm dụng “ân
xá”. Và chính khởi từ biến cố này, đã có
nhiều biến cố tiếp theo đẩy Luther dần
dần xa lìa đức tin công giáo: phủ nhận quyền
bính của giáo hoàng và chỉ tin vào Kinh Thánh (sola Scriptura)[61].
Thiên Chúa đã
mặc khải cho con người qua các tạo vật;
nhưng từ khi con người phạm tội, lý trí con
người đã hư hỏng; và như vậy, việc
mặc khải qua các tạo vật thật là vô dụng
đối với con người ngày nay[62].
Thiên Chúa đã ban
cho chúng ta Kinh Thánh, nên từ nay con đường đi
đến với Thiên Chúa đã được tỏ
lộ trong Kinh Thánh, Kinh thánh dạy mọi sự cần
thiết cho đức tin để được cứu
độ[63]. Vì
thế không cần đến truyền thống như
một nguồn bổ túc.
Quy chuẩn
đức tin là chính Kinh Thánh với sự giúp đỡ
của Thánh Thần; Thánh Thần soi sáng tâm hồn mỗi
người, giúp con người hiểu được những
gì Thiên Chúa muốn mặc khải và con người
phải tin[64].
ii.
Nhận xét về lập trường của anh em Tin Lành
Với cái nhìn
đầu tiên, người ta tưởng rằng anh em Tin
Lành đề cao tính siêu việt của mặc khải, khi
họ xóa bỏ mọi trung gian giữa Lời Chúa và
người tiếp nhận, nhưng thực sự không
phải như vậy! Khi phủ nhận trung gian giữa
Lời Chúa và tâm hồn người tiếp nhận, anh em
Tin Lành phủ nhận truyền thống được
thể hiện nơi huấn quyền của Hội Thánh
trong suốt dòng lịch sử, cũng như trong quyết
định hiện tại để giải thích Lời
Chúa. Như vậy, lý thuyết này dễ dẫn tới
giải thích Kinh Thánh tùy ý, chỉ theo tiêu chuẩn là chính
mình (cá nhân và chủ quan), hoặc chỉ theo những
điều lý trí thấy đúng mà thôi (duy lý).
Công đồng
Trentô được đức giáo hoàng Phaolô III triệu
tập năm 1545, nhằm canh tân Giáo Hội và chấn
chỉnh những chủ trương sai lầm do ảnh hưởng
của phong trào “thệ phản[65]”
Trong sắc
lệnh Sacrosancta Oecumenica biểu quyết vào ngày 08.04.1546
tại khóa họp thứ IV, công đồng đã bàn
đến vấn đề sách thánh và truyền thống
(cf. DS. 1501 tt).
Công đồng
nhấn mạnh đến từ ngữ “Tin Mừng”,
từ ngữ đã được đức Yêsu dùng
để chỉ sứ điệp cứu độ.
Đức Yêsu đã sai các tông đồ đi rao giảng
Tin Mừng cho muôn dân. Tin Mừng này đã được
ban cho chúng ta cách tiệm tiến: đầu tiên
được hứa qua các tiên tri trong Kinh Thánh, sau đó
được chính Đức Yêsu Kitô Con Thiên Chúa loan báo, và
rồi các tông đồ rao giảng theo lệnh của Ngài
cho mọi tạo vật. Chân lý cứu độ và
luật luân lý, chứa đựng trong các sách
được linh hứng và trong truyền thống
bất thành văn. Các chân lý này có Tin Mừng là nguồn duy
nhất.
Với cùng
một lòng kính trọng và thảo hiếu, công đồng
tiếp nhận cả Kinh Thánh lẫn truyền thống
khởi từ miệng Đức Kitô hay được
đọc bởi chính Thánh Thần và được duy trì
trong Hội Thánh công giáo nhờ bởi kế tục.
Trong phần
dẫn nhập sắc lệnh “công chính hóa”, công
đồng đề cập đến giáo lý đã
được Đức Yêsu dạy dỗ, các tông
đồ truyền lại và Hội Thánh gìn giữ; công
đồng không cho phép bất cứ ai tin hoặc rao
giảng khác với điều đã được công
đồng xác định và tuyên bố trong sắc
lệnh này (DS. 1520). Cần lưu ý từ ngữ đã
được công đồng dùng ở đây: dạy
dỗ, truyền lại, gìn giữ[66];
không thể tách mặc khải, dù thành văn hay bất
thành văn, ra khỏi cơ cấu bộ ba này.
Công đồng
Trentô tuy không dùng chữ “mặc khải” nhưng công
đồng đã trình bày mặc khải như nội dung
được rao giảng. Một cách cụ thể,
mặc khải này là Tin Mừng đã được
hứa qua các tiên tri, được công bố bởi
đức Kitô, được rao giảng bởi các tông
đồ, và được truyền lại cho Hội
Thánh duy trì và bảo vệ. Tin Mừng này cũng
được gọi là giáo lý, được dạy và
được truyền. Giáo lý cứu độ này
gồm các chân lý và các lời hứa, đã được
rao giảng cho những người tin, và được
lưu chuyển nhờ Kinh Thánh và truyền thống[67].
Dưới
một góc cạnh nào đó, công đồng Trentô
đồng hóa mặc khải với Đức Kitô và
với thực tại được rao giảng, và
cuối cùng là với các chân lý chứa đựng trong Kinh
Thánh và trong truyền thống.
HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Phần lớn những điều nói về Origène ở đây, được tóm trong
P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 119-125
[2] C. BIHLMEYER, op. cit., pp. 245-249
[3] R. GOEGLER, Das Evangelium nach Johannes
được trích dẫn bởi P. STOCKMEIER, art. cit., p. 122
[4] F. CAYRÉ, Précis de Patrologie, t.I, l. I-II, DESCLÉE et CIE, PARIS 1927, p. 601 trích dẫn AUGUSTINUS, Confess., l. III, c. IV, 7
[5] Ibidem
[6] F. CAYRÉ, op. cit., p. 602
[7] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 204
[8] F. CAYRÉ, op. cit., p. 604
[9] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits,
La doctrine augustinienne de l’illumination,
DDB et CIE, PARIS 1934, pp. 44-45
[10] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 204
[11] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits, pp. 44-45 trích dẫn
AUG., Contra Academicos, III, c. VI, n. 13, t.I, col. 467a
AUG., De vita beata, c. IV, n. 35, t.I, col. 519b
AUG., Soliloques, I, c. I, n. 3, col. 599c
AUG., De Magistro, c. XI, n. 38, t. I, col. 916a
[12] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 202:
“Donc la raison ne peut qu’un rôle préparatoire et secondaire...”
[13] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 200
[14] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits, pp. 26-27
và những trích dẫn tác phẩm của thánh Augustinus.
[15] Op. cit., pp. 33-34. 58-59
[16] Op. cit., p. 189
[17] Op. cit., pp. 149. 189
[18] Op. cit., p. 156 trích dẫn
AUG., In Joan. Evang. Tract. XV, n. 19, t. III, col. 1858b
[19] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits, p. 80
[20] Op. cit., pp. 189-190
[21] F. CAYRÉ, op. cit., p. 602
[22] Bonnaventura sinh vào khoảng năm 1221, Ngài đã nhập dòng Phanxicô và đã là bề trên cả của dòng này. Ngài chết cùng năm với thánh Thomas d’Aquino dòng Đa-Minh, tức năm 1274.
[23] ULRICH HORST, “La conception de la révélation dans la haute scolastique”, trong MICHEL SEYBOLD, La révélation dans l’écriture, la patristique, la scolastique, CERF- PARIS 1974, p. 216
[24] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 392-393
[25] Op. cit., p. 390
[26] ULRICH HORST, art. cit., p. 217
[27] Ibidem
[28] “Haec similitudo est ratio expressiva cognoscendi”.
[29] “lux expressiva in cognitione intellectuali”.
[30] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 393
trích dẫn I Sent., dist. 35, q. 1, fund. 2
và I Sent., a. 1, q. IV, concl.
Chính nhờ lý thuyết về các ý niệm này, mà Bonnaventura bắc một cây cầu giữa hữu hạn và vô hạn (ULRICH HORST, art. cit., p. 216-217).
[31] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 400-401
[32] Quoniam enim omnis creatura comparatur ad Deum et in ratione causae et in ratione triplicis causae, ideo omnis creatura est umbra vel vestigium. Sed quoniam sola rationalis creatura comparatur ad Deum ut objectum, quia sola est capax Dei per cognitionem et amorem: ideo sola est imago.
(I Sent., d.3, p.1, a. un, q. 2, ad 4 (I, 72b-73b)
cf. ULRICH HORST, art. cit., p. 217
[33] ULRICH HORST, art. cit., p. 218
trích dẫn Quaestio disp. de scientia Christi, q. 4 (V, 24a) ở ghi chú 10.
[34] Op. cit., p. 219, ghi chú 14
[35] Sermo sel. de reb. theol. IV, n. 1: Unus est magister vester ... In verbo isto declaratur, quod est fontale principium illuminationis cognoscitivae... ipse est, qui est origo omnis sapientiae... Ipse Christus est autem fons omnis cognitionis rectae. Ipse est via, veritas et vita ... (ULRICH HORST, art. cit., p. 222).
[36] Op. cit., n.5: Ipse enim est fundamentum totius doctrinae authenticae, sive apostolicae sive propheticae, secundum utramque Legem, novam et veteram.
[37] Sermo de Tem. Fer.VI in Parasc., s.II, II:
Si volumus spiritualia contemplari, oportet tollere crucem ut librum, quo erudiamur ... Liber sapientiae est Christus, qui scriptus est intus apud Patrem, cum sit ars omnipotentis Dei; et foris, quando carnem assumit. Iste non est apertus nisi in cruce; istum librum debemus tollere, ut intelligamus arcana sapientiae Dei.
[38] I Sent., d. 11, a. un., q.1, ad 5:
Si verba (in Scriptura) non reperiantur, reperitur tamen sensus.
[39] I Sent., d. 27, p. 1, a. un., q. 4:
Nam quaedam sunt de necessitate fidei, quaedam de necessitate Scripturae, quaedam sunt his annexa, ut sunt illa quae faciunt ad fidei explicationem et Scripturae expositionem.
[40] III Sent., d. 25, a. 1, q. 1:
Nullum tamen est credibile a fide, quod non possit reduci ad articulos in symbolo contentos sicut ad principia dirigentia et stabilia fundamenta.
cf. ULRICH HORST, art. cit., p. 225.
[41] Phần lớn những gì viết trong phần về mặc khải theo thanh Bonaventura được lấy từ ULRICH HORST, art. cit., pp. 215-226
[42] F. CAYRÉ, op. cit., pp. 526-536
F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 321ss
[43] F. CAYRÉ, op. cit., pp. 568-569
[44] II Contr. Gent., c. XCVIII: “Quidquid esse potest, intelligi potest”.
Cf. F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 361: “tout est intelligible par l’être”.
[45] F. CAYRÉ, op. cit., p. 574
trích dẫn S.T. I, q. 85, a. 2, note a của nxb. MARIETTI 1952, p. 584.
Vài từ ngữ được dịch:
phantasma: ảnh tượng
species intelligibilis: ảnh niệm
idea: ý niệm
[46] tức trật tự tự nhiên, khác với trật tự đặc biệt là trật tự siêu nhiên.
[47] Từ đây trở đi, về thánh Thomas, hầu hết được lấy trong
ULRICH HORST, art. cit., pp. 228 ss.
[48] ST. I, q.1, a.1: Homo ordinatur ad Deum sicut ad quemdam finem.
Cf. ScG. I, c. 1, n. 4.
[49] Và con người chỉ đạt được sự hưởng kiến này nếu con người tin vào Thiên Chúa như người học trò tin vào thầy dạy.
[50] ULRICH HORST, art. cit., p. 238
[51] nơi tiên tri, hai điều này là chủ yếu.
[52] Sup. Jo., c.VII, lect.4, n. 1074: cum enim Christi humanitas sit nobis via tendendi in Deum... non debemus in ea quiescere ut in termino, sed per eam debemus in Deum tendere.
[53] ST. III, 53, 1: “... ad commendationem divinae iustitiae, ad fidei nostrae instructionem, ad sublevationem spei, ad informationem vitae fidelium, ad complementum nostrae salutis”.
[54] In Rom., c. 8, lect. 6, n. 707: Vocatio hominum, quae quidem est duplex, una exterior, quae fit ore praedicatioris... Alia vero vocatio est interior quae nihil est quam mentis instinctus, quo cor hominis movetur a Deo ad assentiendum his quae sunt fidei vel virtutis.
[55] S.T.I, 1, 8, ad 2
[56] ST.II-II, 5, 3: Formale autem objectum fidei est veritas prima secundum quod manifestatur in Scripturis sacris et doctrina Ecclesiae.
[57] Cf. Ibidem: Unde quicumque non inhaeret, sicut infallibili et divinae regulae, doctrinae Ecclesiae, quae procedit ex veritate prima in Scripturis sacris manifestata, ille non habet habitum fidei.
[58] ST. II-II, 1,9: Ecclesia universalis non potest errare quia a Spiritu Sancto gubernatur, qui est Spiritus veritatis.
[59] ST. II-II, 1,10: Et ideo ad solam auctoritatem summi Pontificis pertinet nova editio symboli: sicut et omnia alia quae pertinent ad totam Ecclesiam, ut congregare synodum generalem et alia huiusmodi.
[60] Martin Luther sinh khoảng năm 1483 trong một gia đình nông dân tại Eisleben ở Đức. Năm 1501 ông vào đại học Erfurt. Năm 1505 ông vào tu viện thánh Augustin ở Erfurt, và năm 1507 lãnh tác vụ linh mục. Năm 1508 ông đến Wittenberg để học triết lý luân lý, và sau đó học Kinh Thánh. Từ năm 1513 trở đi, ông nghiên cứu nhiều về Kinh Thánh. Martin Luther chết khoảng năm 1546.
[61] C. BIHLMEYER, op. cit., III, pp. 172 tt
[62] J. CALVIN, Institutio christianae religionis, GENENAE 1618, L.I, c.5, n.2; c.2, n.1; L.II, c.6, n.1
trích bởi R. LATOURELLE, op. cit., pp.271-272
[63] A. DULLES, Revelation theology,
HERDER and HERDER-LONDON 1969, p. 48
[64] R. LATOURELLE, Théologie de la Révelation, DDB. 1966, p. 272
[65] dịch từ chữ protestant.
[66] tương ứng với Đức Yêsu, các tông đồ, Hội Thánh.
[67] Đa số phần này được lấy trong R.LATOURELLE, op. cit., pp. 273-276