HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC
LỤC:
4. Chúa Phục Sinh Sẽ Trở Lại Vinh
Quang
a. Đức Yêsu nói về ngày quang lâm
b. Phaolô đề cập đến ngày
quang lâm
c. Chúa quang lâm để con người
được hạnh phúc trọn vẹn
PHẦN III: TRONG DÒNG LỊCH
SỬ HỘI THÁNH
a. Đức Yêsu- Lời Thiên Chúa mặc
khải
Niềm tin
của Phaolôâ là niềm tin của các kitô hữu sơ khai,
và cũng là niềm tin của các tông đồ.
“Hỡi anh em, tôi
xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã rao giảng
cho anh em... Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền cho anh em điều mà chính tôi đã chịu lấy: là đức
Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta, theo
lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã
hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm mười hai...
Vậy dù là tôi hay là họ, chúng tôi rao giảng như
thế, và cũng như thế mà anh em đã tin” (1 Cor. 15,
1-5.11).
Phaolô rao giảng
đức Kitô đã chết, sống lại, và là Thiên Chúa.
Đức Yêsu Kitô là người duy nhất mà mọi
sự phải được quy chiếu về. Nơi Đức
Kitô Yêsu, không có chia rẽ hay hiềm khích. Những
hiềmkhích hay chia rẽ nếu có, là tại con
người, do người ta chưa lấy Đức
Kitô Yêsu là trung tâm cuộc sống của mình! “Một khi
người ta nói: tôi, tôi về phe Phaolô; còn kẻ khác: tôi,
tôi về phe Apôlô. Vậy thì Apollo là gì? Phaolô là gì? Vì nền
móng thì không ai có thể đặt cái khác, ngoài nền móng
đã đặt rồi, tức là Đức Yêsu Kitô” (1
Cor. 3, 4. 5.11). “Tôi muốn nói là anh em mỗi người, ai
cũng phân phô: tôi về phe Phaolô; tôi, tôi về phe Apollo; còn
tôi, tôi về phe Kêpha; và tôi, tôi về phe Đức Kitô!
Đức Kitô bị phân mảnh rồi sao? phải
chăng Phaolô đã đóng đinh thập giá vì anh em? hay anh
em đã được thanh tẩy nhân danh Phaolô? (1 Cor.
1,11-12).
Đức Yêsu
Kitô là mối lợi tuyệt vời. Đức Yêsu Kitô là
trung tâm cuộc đời của Phaolôâ, là cái gì quý nhất
Phaolô biết được và ước ao: “tôi còn coi
mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi
cả, vì cái lợi tuyệt
vời là được biết đức Kitô Yêsu, Chúa
tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân
bón cả, để lợi được đức Kitô,
và được thuộc về Ngài” (Phil. 3, 8-9).
Đức Yêsu
Kitô là sự khôn ngoan. Với những ai được kêu
gọi thì đức Kitô là quyền năng và là sự khôn
ngoan của Thiên Chúa; chính do tự Người (Thiên Chúa) mà
anh em được có trong đức Kitô Yêsu, Đấng
do bởi Thiên Chúa đã nên sự khôn ngoan cho chúng ta, sự
công chính, sự cứu chuộc và thánh thiện ((1 Cor. 1, 24.
30).
Đức Yêsu
Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa (Col. 1, 15; 2 Cor. 4, 4),
nhờ Ngài mà mọi vật được tạo thành
(Col. 1, 15-17; 1 Cor. 8, 6; Dth. 1, 3); Đức Yêsu Kitô là
Đấng cứu độ con người[1].
Cứu độ con người khỏi tình trạng
khốn nạn[2].
Ngài là phương xá tội chúng ta (Rm. 3, 25), nghĩa là chúng
ta được cứu nhờ tin vào danh Đức Yêsu
Kitô, chứ không phải nhờ vào việc giữ lề
luật, vì lề luật không có sức cứu độ
con người!
Đức Yêsu Kitô
là nguồn mối chúc lành của chúng ta.
Eph. 1, 3-14: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha của Chúa chúng ta
Đức Yêsu Kitô, Đấng đã chúc lành cho ta với
tất cả những gì là chúc lành của Thần Khí,
ở trên trời trong Đức Kitô... Người đã
chọn ta trong Ngài...Người đã tiền định
cho ta được phúc làm con, nhờ Đức Yêsu Kitô và
vì Ngài...Trong Ngài ta được ơn cứu
chuộc...Trong Ngài, chúng tôi cũng đã được
hưởng phần dành cho chúng tôi...Trong Ngài, cả anh em
nữa...”. Nhờ Đức Yêsu và trong Đức Yêsu Kitô,
chúng ta được Thiên Chúa ban cho tất cả.
Đức Yêsu
Kitô là mầu nhiệm được ẩn dấu từ
muôn thuở, nay được tỏ hiện: “Và quả là
lớn lao thật, mầu
nhiệm của chân đạo đã hiển hiện
trong xác thịt, chứng thực nhờ Thần Khí, bày
tỏ cho thiên thần, loan báo giữa muôn dân, tin kính trong
hoàn vũ, siêu thăng chốn vinh quang” (1Tm. 3, 16). “... mà tôi
đã trở thành người phục vụ mầu
nhiệm đã giữ kín từ muôn thuở, muôn thế
hệ, nhưng nay đã được bày tỏ cho các
thánh của Người, những kẻ đã
được Thiên Chúa muốn thông báo cho biết là gì
lường phong phú vinh quang của mầu nhiệm ấy
nơi dân ngoại, tức là Đức Kitô trong anh em,
mối hy vọng vinh quang” (Col. 1, 26-27).“... nghĩa là
được hiểu biết mầu nhiệm của
Thiên Chúa, tức là đức Kitô, trong Ngài có ẩn chứa
hết thảy mọi kho tàng khôn ngoan thông thái” (Col. 2, 2-3).
Theo Phaolô,
Đức Yêsu Kitô là mặc khải lớn nhất, cao quý
nhất: “Mầu nhiệm đã được ẩn
dấu từ muôn đời nay được mặc
khải” (Rm. 16, 25-27). Đức Yêsu Kitô không chỉ là
người đã chết vì tội của chúng ta,
được Thiên Chúa phục sinh từ cõi chết, mà
Ngài là mầu nhiệm Thiên Chúa dấu kín từ muôn thuở
nay bày tỏ cho các thánh của Người, Ngài là Chúa trên
hết các Chúa, là chính Thiên Chúa.
Đức Yêsu là
Thiên Chúa, đây là tột đỉnh của mặc
khải. Điều này hàm chứa trong nhiều bản
văn của Phaolô. Đức Kitô được gọi
là Con Thiên Chúa[3], Con (riêng)
(Rm.8, 3. 32), Con của tình yêu, Con chí ái (Col.1, 13).
Trong bản
văn “Ai biết được tư tưởng của
Chúa để dạy Ngài[4]?
còn chúng tôi, chúng tôi có tư tưởng của Đức
Kitô” (1Cor.2, 16), Phaolô đặt sóng đôi giữa Chúa Yahweh[5]
và đức Kitô. Điều này hàm chứa, theo Phaolô,
đức Kitô có thần tính như Yahweh.
Nơi bản
văn Rm. 9, 5 “... và do tự họ, Đức Kitô về
phần xác, Đấng vượt trên mọi sự, Thiên
Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn đời”, có một
số nhà chú giải cho rằng câu “Thiên Chúa đáng chúc
tụng cho đến muôn đời” không gán cho Đức
Kitô, nhưng là chúc tụng Thiên Chúa Yahweh; nhưng nếu xét
kỹ văn mạch, người ta thấy lời chúc
tụng này hướng về đức Kitô chứ không
về Yahweh.
Phaolô ít dùng từ
ngữ Thiên Chúa để chỉ Đức Yêsu, sở
dĩ vậy vì Ngài muốn dùng chữ Thiên Chúa (QeoV) để chỉ Cha (Rm. 15, 6);
hơn nữa Phaolô luôn nghĩ đến đức Kitô
lịch sử “Thiên Chúa làm người” (Phil. 2, 5tt; Col. 1,
15) nên đức Kitô được diễn tả như
suy phục Chúa Cha (1 Cor. 3, 23; 11, 3) trong công trình tạo
dựng (1 Cor. 8, 6), cũng như trong việc tái tạo
cánh chung (1Cor. 15, 27tt).
Lời tôn vinh
Phil. 2, 6-11 cho thấy:
·
“Ngài,
phận là phận của một vì Thiên Chúa (morfh Qeou).
·
Thiên Chúa
đã siêu tôn Ngài, và ban cho Ngài Danh Hiệu vượt qua
mọi danh hiệu, hầu trước danh hiệu của
Đức Yêsu, mọi gối đều phải quì
xuống bái lạy, nơi trời cao... và mọi miệng
lưỡi phải xưng hô: YÊSU KITÔ LÀ CHÚA (cc. 9-11). Trong
bản dịch LXX của cựu ước, Thiên Chúa Yahweh
được gọi là Chúa (KurioV). Như vậy, khi thánh Phaolô
gọi Đức Yêsu Kitô là Chúa (KurioV), phải chăng Phaolô muốn
nói Đức Yêsu Kitô ngang hàng với Thiên Chúa? Trước
danh hiệu của Đức Yêsu Kitô, mọi đầu
gối phải quỳ xuống bái lạy, không chỉ trên
địa cầu nhưng cả chốn hoàng thiên và
dưới gầm đất! Chỉ có danh Yahweh, thì
mọi gối mới phải quỳ gối để tung
hô thôi!
“Điều tôi
muốn tôi không làm, còn điều tôi không muốn tôi
lại làm” (Rm.7,19). “Ai cứu tôi khỏi tình trạng
khốn nạn này” (Rm.7, 24). Thiên Chúa Cha cứu độ
con người nhờ Đức Yêsu và Thánh Thần
của Ngài.
Thiên Chúa là Cha
của Đức Yêsu Kitô[6].
Nếu
đối với các tiên tri, Thiên Chúa là Đấng đã
giải phóng dân Israel ra khỏi Aicập, đã ký giao
ước cùng ban lề luật cho dân Dothái trên núi Sinai; thì
đối với Phaolô, Thiên Chúa là Đấng đã
phục sinh Đức Yêsu Kitô Con Ngài từ trong kẻ
chết[7].
Thiên Chúa là
Đấng đã phục sinh Đức Yêsu Con Ngài từ
trong kẻ chết, và Ngài cũng sẽ phục sinh chúng ta[8].
Thiên Chúa, theo Phaolô,
cũng chính là Thiên Chúa cứu độ. Ngài cứu
độ con người qua chính Đức Yêsu Kitô là Con
của Ngài, và hoàn tất chương trình cứu
độ nhờ Đức Yêsu Kitô, Đấng mà Ngài thâu
tóm vạn sự vạn vật (Eph.1, 3-14).
Một trong
những điểm chính về mặc khải trong tư
tưởng Phaolô, là Thánh Thần. Từ ngữ Thánh
Thần hoặc Thánh Linh, hoặc Thần Khí thánh,
được dịch từ chữ Hylạp Pneuma agion; còn từ ngữ Thần Khí,
được dịch từ chữ Pneuma.
Thần Khí
của Con đã được gởi tới trong lòng chúng
ta bởi Thiên Chúa, để chúng ta có thể gọi Thiên
Chúa là Cha, Abba (Gal.4, 6). Thần Khí của Đức Yêsu làm
chúng ta thuộc về Ngài, nếu chúng ta không có Thần Khí
của Đức Yêsu, chúng ta không thuộc về Ngài (Rm.8,
11). Thần Khí của Con được ban trong lòng chúng ta;
Thần Khí của Thiên Chúa cũng ở trong chúng ta (Rm.8, 9.
11; 1Cor. 3, 16). Thần Khí của Thiên Chúa làm cho chúng ta thành
con Thiên Chúa (Rm. 8, 11)[9].
Thần Khí
đỡ đần sự yếu đuối của chúng
ta, cầu khẩn cho chúng ta (Rm. 8, 26tt), giúp chúng ta biết
những gì ở nơi Thiên Chúa (1Cor. 1, 11), giúp chúng ta tuyên
xưng Đức Yêsu là Chúa (1 Cor. 12, 3). Thần Khí công chính
hóa chúng ta (1Cor. 6, 11), làm chúng ta trở nên những
người tự do đích thực (2 Cor. 3, 17).
Thần Khí là
thực tại bao phủ tất cả đời sống
của kitô hữu, những người thuộc về
Đức Kitô và Thiên Chúa.
Tư
tưởng của Phaolô lấy Đức Yêsu Kitô làm
trục. Chính nhờ Đức Yêsu Kitô mà chúng ta hiểu
biết hơn về Thiên Chúa, Đấng đã giải
phóng dân Do Thái ra khỏi Ai cập và ký kết giao
ước với dân trên núi Sinai, Đấng nói với dân
qua môi miệng tiên tri và soi sáng mỗi người bằng
sự khôn ngoan, và bây giờ Ngài giải phóng con
người khỏi tội và khỏi nô lệ ma quỷ
nhờ Con Ngài là Đức Yêsu Kitô. Cũng chính nhờ
Đức Yêsu Kitô mà chúng ta được gọi Thiên Chúa
là Cha. Chính nhờ Đức Yêsu Kitô mà Thánh Thần đã
được ban cho mỗi người, làm mỗi
người tự do đích thực, và chắc chắn
rằng mình đã được và sẽ được
cứu độ.
Đức Yêsu là
tất cả đối với Phaolôâ, và cũng là tất
cả của mỗi người chúng ta. Không có Đức
Yêsu Kitô, những hiểu biết của chúng ta không
trọn vẹn, và chúng ta cũng không được
cứu độ.
Có người cho
rằng tin mừng Yoan và các thư Yoan không là những tác
phẩm của thánh Yoan tông đồ, nhưng đúng
hơn là của các môn đệ thánh nhân. Dù sao chăng nữa,
tin mừng theo Yoan và các thư mang tên Yoan đều
chịu ảnh hưởng rất nhiều của thánh
nhân, đến độ người ta có thể nói thánh
Yoan là tác giả.
Tin Mừng Yoan và
các thư mang tên Ngài là những tác phẩm phản ánh
đức tin của Giáo Hội sơ khai, nó có thể
được coi là những tác phẩm của Hội
Thánh tiên khởi. Hơn nữa, tin mừng và những
thư này, vì được soạn thảo sau tin mừng
nhất lãm và các thư Phaolô, cũng như nhờ những
suy tư và đời sống thiết thân với Thiên Chúa,
với Đức Yêsu Phục Sinh, nên tin mừng và
những thư mang tên Yoan mang nhiều ý nghĩa thần
học sâu xa. Nói như vậy không muốn nói rằng tin
mừng Yoan không có nhiều sử tính. Với những khám
phá hiện đại, người ta thấy tin mừng
Yoan có rất nhiều sử tính, đến độ không
kém tin mừng Marcô.
Lời đã thành
xác phàm và ở giữa chúng tôi (Ga. 1, 14). Có thể coi đây
là tột điểm của mặc khải bằng
lời.
Phần đông
các nhà chú giải đều cho rằng, lời khởi
đầu “Ga. 1, 1-18” là kết quả suy tư lâu dài và
chịu ảnh hưởng quan niệm “lời” trong Dothái
giáo, đặc biệt văn chương tiên tri, và cả
văn chương Hy lạp nữa. Nơi Ga. 1, 1-18, đã
thấy những chủ đề sẽ được
khai triển trong tin mừng Yoan, chẳng hạn:
Đức Yêsu Kitô là sự sống (Ga. 1, 4; cf. Ga. 11,
1tt)
Đức Yêsu Kitô là ánh sáng (Ga. 1, 4.5.9; cf. Ga. 9, 1tt)
Đức Yêsu Kitô là sự thật (Ga. 1, 17; cf. Ga. 14,
6; 8, 32)
Đức Yêsu là
Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần (Ga. 1, 33). Ngài
được xác chuẩn là Đấng Thiên Sai[10]
trong biến cố Ngài nhận phép rửa với Yoan
Tẩy giả.
Đức Yêsu
từ trời xuống, Ngài là Con Một Thiên Chúa (Ga. 3,
13.16).
Đức Yêsu là
Đấng ban Nước Hằng sống (Ga.4).
Ngài sống tùy
thuộc Cha đến độ “của ăn của tôi
dùng là thi hành ý Đấng đã sai tôi, và chu toàn công việc
Người” (Ga. 4, 34).
Đức Yêsu
mặc khải cho dân Do Thái biết giữa Ngài và Thiên Chúa
có một tương quan rất đặc biệt: Ngài
gọi Thiên Chúa là Cha; điều này làm người Do Thái
muốn giết Ngài, vì hàm chứa “cho mình bằng Thiên Chúa”
(Ga. 5, 18).
Đức Yêsu là
Bánh Hằng Sống, ai ăn sẽ được sống
đời đời (Ga.6, 51).
Điều
trước kia Ngài đã tỏ lộ cho Nicôđêmô vào ban
đêm (Ga. 3, 13tt), thì nay Đức Yêsu nói với dân chúng:
Ngài không thuộc trần gian này, Ngài được Cha sai
đến trần gian (Ga.7, 28tt). Đức Yêsu đến
từ Thiên Chúa (Yn 8, 21-29).
Đức Yêsu là
sự sáng (Ga. 8, 12). Trong biến cố Đức Yêsu
mở mắt người mù từ thuở mới sinh,
điều này được mặc khải rõ hơn
(Ga.9).
Đức Yêsu là
sự thật. Sự thật giải phóng và làm con
người tự do đích thực (Ga. 8, 32tt; Ga. 14, 6).
Đức Yêsu là
chủ chiên nhân từ (Ga. 10, 11).
Đức Yêsu là
Con Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa (Ga. 10, 30).
Trong phép lạ
phục sinh Lazarô từ cõi chết, Đức Yêsu mặc
khải Ngài là sự sống lại và là sự sống, ai
sống mà tin Ngài thì không phải chết, còn ai chết mà tin
Ngài thì sẽ được sống lại (Ga. 11,1 tt.
25.26).
Đức Yêsu
xử sự như thể Ngài là vua (Ga. 12, 12-19) dù rằng
khi người Do thái muốn tôn Ngài làm vua khi Ngài cho họ
ăn no thì Ngài lại trốn (Ga. 6, 15).
Đức Yêsu
mặc khải về Thánh Thần (Ga. 14-16), và mặc
khải Cha như Đấng sai Ngài và luôn nhận lời
Ngài nguyện xin (Ga. 17).
Trong Tin Mừng
Yoan, Đức Yêsu mặc khải về chính mình; và trong
tương quan với Con, Thiên Chúa là Cha được
mặc khải; cũng chính qua Ngài mà Thánh Thần được
sai đến và hoạt động trong thế gian.
Trong lời
nguyện của vị Thượng Tế, Đức Yêsu
gọi Thiên Chúa là Cha (Ga.17, 1tt). Sự sống vĩnh
cửu hệ tại nhận biết Cha và Đấng Cha
đã sai, Đức Yêsu Kitô (Ga. 17, 3).
Trong khi giảng
dạy và đối đáp với dân chúng, Đức Yêsu
cũng khẳng định Ngài đến từ Cha. Chính
Thiên Chúa đã sai Ngài[11]
(Ga. 5, 36).
Thiên Chúa là
Đấng Đức Yêsu luôn luôn tùy thuộc vào, Ngài luôn
tìm ý Cha (Ga. 5, 30), luôn làm những công việc của Cha
(Ga.6, 38) luôn nói lời của Cha ban cho Ngài (Ga. 12, 49; 14, 24),
luôn tìm vinh quang của Đấng đã sai Ngài (Ga.7, 18).
Tương quan
giữa Thiên Chúa Cha và Ngài mật thiết đến
độ:
·
Ai không kính
trọng Ngài là không tôn kính Cha, Đấng đã sai Ngài (Ga.
5, 23),
·
Và ai tin vào
Ngài, thì không chỉ là tin vào Ngài, nhưng là tin vào Cha,
Đấng đã sai Ngài (Yn 12, 44),
·
Ai tiếp
đón Ngài là tiếp đón Đấng đã sai Ngài (Ga. 13,
20).
Thiên Chúa là Cha
đức Yêsu Kitô, là Đấng đã sai Đức Yêsu
Kitô, là Đấng mà Đức Yêsu luôn hướng về.
Một số nhà
thần học hiện đại, căn cứ vào sự
liên quan mật thiết giữa Đức Yêsu và Thiên Chúa,
đã đi tới kết luận: Đức Yêsu là Thiên
Chúa. Đây là một lý chứng nhằm chứng minh thiên
tính của Đức Yêsu qua sự tùy thuộc hoàn toàn
của Đức Yêsu vào Thiên Chúa Cha.
Thần Khí đã
xuất hiện khi Đức Yêsu lãnh phép rửa với
Yoan Tẩy Giả tại sông Yordan: “Tôi đã trông thấy
Thần Khí như chim câu đáp xuống và lưu lại
trên Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi đến thanh
tẩy bằng nước, chính Người nói với tôi:
ngươi thấy Thần Khí đáp xuống và lưu
lại trên ai, thì chính Ngài là Đấng thanh tẩy trong
Thánh Thần và tôi đã được xem thấy, và xin
đoan chứng: chính Ngài là Đấng Thiên Chúa chọn”
(Ga.1, 32-34). Thần Khí và Thiên Chúa đã làm chứng cho
Đức Yêsu với Yoan Tẩy giả, và đến
lượt Yoan Tẩy giả, ông cũng làm chứng cho
Đức Yêsu.
Thanh tẩy trong
Thần Khí, là sinh lại bởi nước và Thần Khí.
Đây là điều kiện để được vào
nước Thiên Chúa (Ga. 3, 5-6), vì kẻ sinh bởi xác
thịt là xác thịt, còn ai sinh bởi Thần Khí là
thần khí (Ga. 3, 6).
Thần Khí,
Đấng an ủi khác, là Thần Khí chân lý, sẽ
được Thiên Chúa ban cho các tông đồ[12],
Thần Khí này thế gian không thể lãnh nhận (Ga. 14, 17).
Thần Khí, Đấng an ủi, sẽ được
gởi tới nhờ danh Đức Yêsu; Thần Khí sẽ
dạy dỗ các tông đồ (Ga. 14, 26), sẽ dẫn các
tông đồ vào tất cả sự thật (Ga. 16, 13).
Thần Khí là thực tại được Đức Yêsu
ban cho kẻ tin Ngài (x. Ga. 7, 37-39).
Thần Khí,
Đấng an ủi, Đấng ở nơi Thiên Chúa Cha,
Ngài không chỉ được Cha sai gởi(Ga. 14, 17. 26),
nhưng còn được Đức Yêsu sai gởi, và Ngài
sẽ làm chứng cho Đức Yêsu (Ga. 15, 26).
Khi còn sống
ở trần gian với thân xác, Đức Yêsu đã
hứa ban Thần Khí cho các tông đồ, và Ngài đã
thực hiện điều này sau khi phục sinh từ cõi
chết: “Đức Yêsu thổi hơi trên họ và nói: các
con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga. 20, 22). Thần Khí
được ban cho các tông đồ, để ở
với các tông đồ mãi mãi (Ga. 14, 16), để loan báo
cho các tông đồ những điều sẽ xảy
đến (Ga. 16, 13), để làm chứng cho Đức
Yêsu (Ga. 15, 26), và cũng để các tông đồ có
thể tha tội nhân danh Thiên Chúa (Ga. 20, 22-23).
Con người là
tạo vật được Thiên Chúa yêu thương vô
cùng. Vì yêu, nên Thiên Chúa đã sai gởi Con của Ngài
xuống trần gian (Ga.3, 16). Thiên Chúa Cha yêu con người
như yêu Chúa Yêsu (Ga.17, 23 cf. Ga.17, 20). Chúa Yêsu yêu con
người như chính Cha yêu Chúa Yêsu (Ga.15, 9); Ngài yêu con người
đến độ hiến mạng sống cho con
người “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của
người hiến mạng sống mình” (Ga.15, 13), Ngài
biến bánh rượu trở thành thịt máu Ngài
để nuôi con người (Mc.14, 22-25), Ngài yêu con người
đến cùng (Ga.13, 1tt). Thánh Thần yêu thương con
người đến độ luôn ở với con
người (Ga.14, 16), nhắc nhớ và dạy dỗ con
người (Ga.14, 26), dẫn con người vào sự
thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Niềm tin và cách
sống có tương quan mật thiết với nhau. Tin
vào Thiên Chúa và Đấng-Cha-sai Đức Yêsu, hàm chứa
tin rằng “máu Đức Yêsu, Con của Người,
tẩy sạch ta khỏi mọi tội lỗi” ( 1Ga. 1, 7).
Con người có
tội và được Thiên Chúa cứu thoát nhờ máu
Đức Yêsu! Nếu không nhận mình có tội, là phủ
nhận công trình cứu độ của Đức Yêsu,
phủ nhận giá trị nhập thể và cứu
chuộc của Đức Yêsu, và của chính Thiên Chúa.
“Nếu ta nói: ta không có tội, thì ta tự dối mình, và
sự thật không có ở nơi ta” (1 Ga. 1, 8).
Tin vào Đức
Yêsu, hàm chứa phải giữ giới lệnh yêu
thương của Ngài: “Như thầy yêu mến anh em, anh
em cũng hãy yêu mến nhau” (Ga. 13, 34-35).
“Thiên Chúa là tình
yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa
ở trong kẻ ấy” (1Ga. 4, 16). Ai ở trong tình yêu thì
ở trong Thiên Chúa, ai yêu thương thì người đó
ở trong Thiên Chúa, người đó thuộc về Thiên
Chúa; còn ai không yêu thương, ghét anh em mình, thì đó là
kẻ sát nhân, và như vậy không có sự sống
đời đời (1Ga. 3, 14-15).
Thư thứ
nhất của Yoan đặt song song hành vi “tuyên xưng
Đức Yêsu là Con Thiên Chúa” và “ai ở trong tình yêu”. Cả
hai hành vi đó đều làm cho người ta “ở trong
Thiên Chúa” và “Thiên Chúa ở trong người đó” (1Ga. 4,
15-16).
Tin Thiên Chúa và yêu
anh em mình, đây là những hành vi của những
người được cứu độ, những
người có sự sống đời đời.
Toàn bộ thư
và tin mừng theo Yoan được viết ở thời
điểm cuối cùng của bộ Tân ước.
Nhờ có thời gian dài suy tư, và nhất là nhờ
đời sống thiết thân với Đức Yêsu
Phục Sinh cùng Thánh Thần của Người, mặc
khải được trình bày nơi tin mừng và các
thư Yoan thật rõ ràng và sâu sắc.
Đức Yêsu
tử nạn phục sinh là Con của Cha trên trời, Ngài
sống rất thiết thân với Thiên Chúa Cha. Ngài là
sự sáng, sự thật, và sự sống. Ngài là
đường đưa con người về với
Cha, cho con người sống trong vương quốc
của Cha. Ngài đã về với Cha để dọn
chỗ cho chúng ta, và Ngài sẽ trở lại đón chúng ta
đi với Ngài (Ga. 14, 3).
Thiên Chúa là Cha
của Đức Yêsu; chính Cha đã sai con tới
để cứu những kẻ tin vào Ngài và vào Con (Ga. 17,
3; 3, 16). Cha cũng là Đấng đã sai gởi Thánh
Thần, Đấng sẽ ở mãi mãi với các tông
đồ, Đấng trở nên chứng nhân của
Đức Yêsu Phục Sinh nơi những con người
còn ở trần gian nhưng không thuộc về trần
gian.
Con người là
tạo vật được Thiên Chúa yêu thương; chính
vì yêu thương nên Thiên Chúa đã gởi Con và Thánh
Thần đến để cứu độ con người.
Dù được yêu thương, nhưng vẫn có
những người từ chối tình yêu của Thiên Chúa,
không tiếp nhận và không tin vào người Con mà Ngài
đã sai gởi xuống trần gian; những người
này đứng về phe ma quỷ, không thuộc về Thiên
Chúa. Cuối cùng Thiên Chúa vẫn chiến thắng thế
gian vì Đức Yêsu đã chiến thắng thế gian (Ga.
16, 33). Sự sáng đã chiến thắng bóng tối. Tình yêu
của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Yêsu đã
chiến thắng sự chết, đã chiến thắng
tội lỗi và tất cả.
Các tông đồ
và cộng đoàn kitô hữu tiên khởi tin rằng
Đức Yêsu tử nạn thời tổng trấn
Philatô, đã phục sinh từ cõi chết, được
siêu tôn bên hữu Thiên Chúa, và Ngài sẽ trở lại trong
vinh quang.
a. Đức Yêsu nói về ngày quang lâm
Đức Yêsu
đã nói về ngày quang lâm khi giảng dạy[13]
các tông đồ cũng như khi trả lời vị
thượng tế khi Ngài bị tra vấn[14]!
Khi các môn đồ đến gặp riêng Đức Yêsu
hỏi về ngày quang lâm, Ngài trả lời: “Các
ngươi hãy coi chừng đừng để ai lừa
gạt các ngươi. Vì có nhiều kẻ đội danh
Ta mà đến nói rằng: Đức Kitô, chính là Ta. Và
họ sẽ lừa gạt được nhiều
người... Vì cũng như chớp lòa bên Đông
rạng bên Đoài, thì cuộc quang lâm của con
người cũng sẽ thế... và người ta
sẽ thấy Con Người đến trên mây trời
với quyền năng và vinh quang cao cả...” (Mt. 24, 3-4.
27. 30). Và khi Con Người đến trong vinh quang, Ngài
sẽ phán xét thiên hạ dựa theo những điều
họ làm cho những người nghèo khó (Mt. 25, 31-46).
Tin mừng theo
Yoan đề cập đến việc Đức Yêsu
về với Cha, và Ngài sẽ trở lại đón các môn
đệ thân thương của Ngài: “Lòng các ngươi
chớ rúng động. Hãy tin vào Thiên Chúa, và cũng hãy tin
vào Ta. Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; chẳng
vậy, Ta đâu có nói với các ngươi là Ta đi
dọn chỗ cho các ngươi. Và nếu Ta ra đi và
dọn chỗ cho các ngươi, thì Ta sẽ đến
lại và đem các ngươi theo Ta, để Ta ở
đâu, các ngươi cũng ở đó” (Ga. 14, 1-3).
Về ngày của
Chúa, chẳng ai biết được, kể cả các
thiên thần trên trời, cả Con nữa trừ phi là Cha
(Mc. 13, 32; 1Tx. 5, 2). Vào ngày Chúa quang lâm, những kẻ đã
chết trong Đức Kitô sẽ sống lại, đó là
niềm tin của tất cả kitô hữu.
Đức Yêsu
đã cho những người thuộc bè Sađốc[15]
thấy rằng Thiên Chúa, là Thiên Chúa của kẻ sống,
chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết. Khi Kinh Thánh nói
Thiên Chúa là Thiên Chúa của Abraham, của Ysaac, của Yacob-
mà điều Kinh Thánh nói là sự thật-, nên Abraham, Ysaac
và Yacob vẫn còn đang sống một cách nào đó.
Theo đức tin
kitô, người chết không đi vào cõi hư vô nhưng
vẫn tồn tại; họ chịu phán xét riêng để
được thưởng hoặc bị phạt, để
hưởng tôn nhan Chúa hay bị sa hỏa ngục. Tuy
vậy hạnh phúc trọn vẹn tràn đầy chỉ
đến khi Chúa Yêsu Kitô quang lâm; ngày đó người
chết sẽ sống lại, và được hạnh
phúc trọn vẹn cả hồn lẫn xác.
Tất cả tin
mừng nhất lãm đều thuật lại trình
thuật Đức Yêsu nói về sự sống lại (Mc.
12, 18-27 Mt. 22, 23-33 Lc. 20, 27-40); còn đối với tin
mừng theo Thánh Yoan, Đức Yêsu nói: “Phục sinh và
sự sống, chính là Ta. Ai tin vào Ta thì dẫu chết
cũng sẽ sống; và mọi kẻ sống cùng tin vào Ta
sẽ không phải chết bao giờ” (Ga. 11, 25-26).
b. Phaolô đề cập đến ngày quang lâm
Phaolô cũng
đề cập đến ngày quang lâm của Đức Yêsu
Kitô (1Tx. 5, 23; 4, 13tt; 2Tx. 2, 1tt). Về ngày giờ của Chúa
đến thì không ai biết, vì Ngài như kẻ trộm
đến trong đêm tối (1Tx. 5, 1tt). Phaolô cũng nói
về số phận của những người đi
trước, những người đã chết
trước ngày Đức Kitô quang lâm (1Tx. 4, 13tt). Khi nói
về số phận của những người đã
chết trước khi Đức Kitô quang lâm (1Tx. 4, 13tt),
Phaolô hy vọng ngài cũng thuộc về số những
kẻ còn sống khi Đức Kitô quang lâm. Những
người đã chết trước thời Đức
Kitô quang lâm, sẽ được sống lại và đi
đón Chúa (1Tx. 4, 16-17). Trong thư thứ hai gởi
Thessalonika, Phaolô chỉnh lại tư tưởng của
một số người cho rằng ngày của Chúa
gần đến (2Tx. 2,1 tt), và họ không làm gì nữa
(2Tx. 3, 10tt).
Phaolô lý luận
chứng minh người ta sẽ sống lại dựa
vào sự kiện đức tin “Đức Yêsu Kitô đã
phục sinh”. “Nếu Đức Kitô đã sống lại
từ cõi chết, thì làm sao trong anh em lại có kẻ dám
nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu
không có chuyện kẻ chết sống lại, thì
Đức Kitô cũng đã không sống lại; mà nếu
Đức Yêsu Kitô không sống lại, thì lời giảng
của chúng tôi thật hư không” (1Cor. 15, 12-14).
Nếu
Đức Kitô không sống lại, thì:
việc anh em tin là hão huyền (1 Cor. 15, 17),
anh em vẫn còn trong tội lỗi của anh em (c. 17),
chúng ta là kẻ khốn nạn nhất trong thiên
hạ (c. 19),
việc chúng ta chịu thanh tẩy vì kẻ chết
nào có ích lợi gì? (c. 30-31),
Phaolô chiến đấu với mãnh thú tại Êphêsô
nào có báo bổ gì? (c. 32),
tốt hơn là nên hưởng lạc thú nếu
người chết không sống lại.
“Nhưng kỳ thực, Đức Kitô đã sống
lại từ cõi chết, tiên thường của các vong
linh. Vì chưng sự chết do bởi một
người. Quả thế, cũng như nơi Ađam
mọi người đều phải chết, thì trong
đức Kitô, mọi người cũng sẽ
được tác sinh. Nhưng ai theo thứ tự nấy,
tiên thường là Đức Kitô, rồi đến các
kẻ thuộc về Người vào ngày quang lâm” (1 Cor. 15,
20-23).
c. Chúa quang lâm để con người được hạnh phúc trọn vẹn
Những
chương khởi đầu của Kinh Thánh cho thấy
hạnh phúc của con người hệ tại
đời sống thân mật với Thiên Chúa, đau
khổ và tột điểm của đau khổ là sự
chết hệ tại tội lỗi, tức là thái độ
không tin tưởng- phó thác- yêu thương Thiên Chúa.
Abraham,
người được yêu thương tuyển
chọn, đã sống lâu và giàu có, trở nên mối phúc
lành cho nhiều người.
Lịch sử dân
Israel cho thấy, nếu dân trung thành với Thiên Chúa, thì toàn
dân sống trong yên bình hạnh phúc; còn nếu dân phản
bội Thiên Chúa, không tuân giữ giao ước, thì dân
sẽ bị các dân tộc khác thống trị (thời quan
án), hoặc sẽ bị đưa đi lưu đày (các
ngôn sứ).
Nơi Đức
Yêsu Phục Sinh, tất cả lời hứa của Thiên
Chúa cho con người đã và đang được hoàn
tất. Nơi Đức Yêsu tử nạn phục sinh,
tất cả lời hứa của Thiên Chúa đối
với con người đã được bảo
đảm. Ơn gọi làm con Thiên Chúa, được chia
sẻ sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa
được bảo chứng bằng máu Đức Yêsu
Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể. Sự sống vĩnh
cửu, đời đời hạnh phúc, đã
được ban nhờ và trong Đức Yêsu Kitô;
hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ
trọn vẹn vào ngày quang lâm của Đức Yêsu Kitô,
ngày Thiên Chúa làm trọn vẹn mọi sự.
Nơi Abraham và
những người thời cựu ước, của
cải là bằng chứng hạnh phúc; còn nơi
Đức Yêsu Kitô, chính Thiên Chúa là gia sản của
những kẻ thuộc về Người; hạnh phúc
của con người là chính Thiên Chúa. Lề luật trong Cựu
Ước cho thấy con người là tội nhân; còn
với Đức Yêsu Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể,
con người là tạo vật được yêu! Nơi
đức Yêsu Kitô, con người được ban
dẫy đầy ơn này đến ơn khác. “Luật
được ban nhờ Môsê, còn ân sủng và sự
thật thì được ban nhờ Đức Yêsu Kitô”
(Ga. 1, 17).
Nhờ
Đức Yêsu Kitô, với Đức Yêsu Kitô và trong
Đức Yêsu Kitô, con người được tất
cả, đặc biệt nhất là Thánh Thần.
Không một giáo
phụ nào có ý định soạn thảo một khảo
luận về mặc khải, tuy vậy người ta
vẫn tìm thấy những tư tưởng rải rác trong
các tác phẩm của các ngài để làm một tổng hợp
về chủ đề này[16].
Khi tìm hiểu
tư tưởng của một tác giả nào đó,
người ta phải đọc bản văn tác giả
để lại trong bầu khí văn chương tư tưởng
thời đại đó, cũng như phải hiểu
bản văn đó trong chính mạch văn của tác
giả. Phải cẩn thận để tránh những sai
lầm mà nhiều người vấp phạm, là
đọc bản văn xưa theo não trạng hiện
đại, và không để ý đến sự thay
đổi ý nghĩa của từ ngữ theo những
nền văn hóa và thời đại khác nhau.
Thánh Ynhã Antiokia
sống vào cuối thế kỷ thứ nhất sang
đầu thế kỷ thứ hai sau công nguyên; Ngài
chết khoảng năm 110 dưới triều hoàng
đế Trajan: bị đưa làm mồi cho thú dữ
ăn thịt. Ngài có biệt danh là “người mang Thiên
Chúa” (Theophoros). Ngài là giám mục của Antiokia. Trên
đường được giải tới Roma
để đem ra xét xử, Ngài đã viết bảy lá
thư cho các giáo đoàn. Chính nhờ những lá thư này mà
người ta biết tư tưởng của thánh nhân[17].
Vào cuối
thế kỷ thứ nhất sang đầu thế kỷ
thứ hai, dân Do Thái vẫn sống dưới ách đô
hộ của người Roma và bị thù ghét đặc
biệt sau biến cố năm 70. Các kitô hữu, sau
biến cố bị Nêron vu cáo đốt thành Roma, bị
nghi ngờ và căm ghét nhiều hơn.
Vào thời
điểm này, bộ Tân Ước đã hình thành trọn
vẹn, đã được lưu truyền và
được dùng trong các cộng đoàn kitô nhưng
chưa rõ ràng như hiện nay.
Các kitô hữu, khi
sống chung với dân ngoại cũng như với
người Do Thái giáo, phải trả lời những câu
hỏi liên quan đến đức tin của mình, cũng
như phải đáp trả những bài bác của
những người theo triết thuyết Hy lạp
hoặc Do thái giáo. Nhờ những nỗ lực nhằm
trả lời này, mà có những tài liệu như hiện
nay.
Trong thư
gởi cộng đoàn Magnesios, thánh Ynhã Antiokia viết:
“Bởi vì các tiên tri đã sống theo Đức Yêsu Kitô, vì
thế các ngài đã bị hành hình; các ngài đã
được linh ứng bởi ân sủng của
Người, để những người không tin
được xác tín hoàn toàn rằng chỉ có một Thiên
Chúa, Đấng tỏ lộ bởi Đức Yêsu Kitô Con
Ngài, là Lời của Ngài xuất thân từ im lặng,
Người Con làm hài lòng Ngài trong mọi sự” (Ad Magn. 8,
2).
Với Ynhã
Antiokia, Đức Yêsu Kitô được coi là trung tâm
của mặc khải, ngay cả khi đề cập
đến các tiên tri. Khi người theo Do Thái giáo nại
đến Cựu Ước, Ynhã nại đến
Đức Yêsu Kitô với thập giá sự chết và
phục sinh của Ngài (Ad Philadenphenses 8, 2).
Với Ynhã
Antiokia, Tin Mừng không là những quyển sách, nhưng là
Đức Yêsu Kitô và cuộc khổ nạn cùng phục sinh
của Ngài (Ad Philadenphenses 9,2 )[18].
Thánh Justin (100-163)
sinh trong một gia đình Hylạp ngoại giáo, là một
triết gia, trở lại. Ngài biện hộ cho
đạo trước các triết gia ngoại cũng
như trước hoàng đế Antoin Le Pieus. Ngài bị
chém đầu vì đức tin dưới thời hoàng
đế Marc Aurène ở Roma[19].
Justin sống trong
thời ngộ đạo phát triển và thịnh hành.
Chủ đề mặc khải hàm chứa trong vấn
đề biết Thiên Chúa.
Có gì khác biệt giữa mặc khải kitô giáo và cái
biết nơi ngộ giáo?
Trong thế
giới chịu ảnh hưởng văn hóa hy-lạp,
kitô hữu trả lời sao cho những triết gia
đại diện cho não trạng của đa số dân
chúng cho rằng “Thiên Chúa- Đấng trên cao không thể khám
phá, và giả như khám phá được thì cũng không
thể diễn tả được[20]”?
Theo triết lý này, quan niệm “Thiên Chúa là Đấng
tuyệt đối cao vời”, không thể dung hợp
với đức tin kitô giáo cho rằng: Thiên Chúa là
Đấng tạo dựng tất cả cách tự do, và
can thiệp vào lịch sử!
Vấn đề
được đặt ra: “Tính không thể xác, không cho
phép Thiên Chúa giao tiếp trực tiếp với thế
giới” (Dial. 127, 2; Apol. II, 7.9). Tatien, một học trò của
Justin, giải thích rằng: “đặc tính thiêng liêng
của Thiên Chúa, là lý do làm Ngài không thể được
hiểu cách vật chất được (Adversus Graecos
Oratio, IV, 1). “Làm sao Ngài có thể nói hay tỏ lộ cho ai
ở một góc nào đó trên trái đất này được?”
(Dial. 127, 3)! Làm sao giải quyết vấn nạn “Thiên Chúa
siêu việt” có thể mặc khải trong không gian thời
gian? Phải chăng sự kiện Thiên Chúa mặc khải
trong không gian thời gian, phủ nhận tính siêu việt
của Thiên Chúa?
Để
giải quyết vấn đề này, Justin chú ý tới khía
cạnh trung gian của Đức Kitô: “bởi ý Thiên Chúa,
Abraham Ysaac và Yacob đã thấy Đấng là Thiên Chúa, là Con
Thiên Chúa, là Đấng được sai gởi (angelos),
bởi vì Ngài phục vụ ý định của Cha, Ngài là
Đấng- bởi ý muốn của Cha- đã làm
người và sinh bởi đức trinh nữ, Ngài là
Đấng khi xưa đã lấy hình lửa nói chuyện
với Môsê giữa bụi gai (Dial. 127, 4).
Đối
diện với người Do Thái, Justin giải thích sự
thần hiển trong Cựu Ước theo nhãn quan kitô:
Lúc khởi đầu, Lời (logos) đã hành
động như thiên thần (Dial. 56, 4; 128, 2), như
sứ giả (Apol. I, 63, 5).
Trong nhập thể, mặc khải của Thiên Chúa
đạt tới chóp đỉnh (Dial. 127, 4; Apol. I, 63).
Như vậy, đối nghịch với quan niệm Do
Thái, biến cố Yêsu Kitô được trình bày như
thời điểm tối cao của mặc khải
thần linh. Các sự kiện lịch sử
được viện dẫn về biến cố này
không cho phép có lời giải thích thần thoại về
nhập thể (Apol. I, 13, 3; I, 46, 1; Dial. 30, 3). Mặt khác,
quan niệm thần học về lịch sử cho
thấy đặc tính cứu độ của mặc
khải (Apol. I, 23, 2; II, 5, 4).
Điểm mang
nhiều ý nghĩa trong thần học về mặc
khải của Justin, là ông đồng nhất đức
Yêsu lịch sử với Lời (Logos):
“Cha của hoàn vũ có một người Con-
Đấng là lời và trưởng tử của Thiên
Chúa, là chính Thiên Chúa nữa. Ngày xưa Ngài đã hiện ra
cho Môsê và các tiên tri, khi thì dưới hình lửa, khi thì
dưới hình thân xác, nhưng rất mới đây, vì vâng
phục ý Cha và để cứu rỗi những
người tin vào Ngài, Ngài đã làm người sinh bởi
người nữ đồng trinh, và đã nhận lãnh
trên mình những xỉ nhục và đau khổ, để
chiến thắng cái chết bởi cuộc tử nạn
và phục sinh của chính Ngài” (Apol. I, 63, 15tt; cf. I, 23).
Như một
triết gia, Justin đã đem quan niệm lời trong
triết lý Hy lạp và trong tư tưởng Do Thái
để giải quyết vấn đề
được thế giới ngoại đạo
đặt ra cho vấn đề mặc khải kitô giáo.
Nhờ quan niệm Lời là chính Đức Yêsu Kitô, mà
mặc khải trong Đức Yêsu Kitô được quan
niệm như một tiến trình cứu độ
được thể hiện torng lịch sử (Apol. I,
5, 4).
Lý thuyết
về “logos spermatikos” giúp Justin nhận ra rằng: các
triết gia và các nhà làm luật trước Đức Kitô
cũng được tham dự vào chân lý (Apol. II, 10, 2; cf.
Ga. 14, 6), và chân lý trọn vẹn chỉ được ban
cho nhân loại qua Đức Yêsu là Lời (Apol. II, 8, 3).
Trước
Đức Kitô, có sự hiện diện hạt giống
của lời nhân loại, nhưng điều này không
được hiểu hoặc không được
đồng nhất với mặc khải tự nhiên, mà
phải được hiểu: mọi chân lý và mọi
thực tại đều mang dấu ấn của
đức Kitô (cf. Apol. II, 10, 8)[21].
Thánh Irénée, một
nhà hộ giáo nổi tiếng, sinh tại Tiểu Á, là
học trò của thánh Polycarpe de Smyrne. Vào khoảng năm
177, Ngài được cử làm giám mục kế vị
Pothin tại Lyon. Thánh nhân chết vì đạo vào thời
Septime Sévère khoảng năm 202[22].
Các vị hộ
giáo, ngoài việc minh chứng Kitô giáo sở hữu mặc
khải tuyệt đối, các ngài còn phải
đương đầu với những giải thích sai
lạc mặc khải kitô giáo, hoặc do những
người lạc giáo giải thích tín điều cách sai
lạc, hoặc do những người theo các tôn giáo khác
cũng nhận họ có mặc khải, chẳng hạn
như ngộ giáo.
Ngộ giáo cho
rằng, con người, tự sức mình không thể
đạt tới tri thức nhờ đó con người
được cứu độ. Họ cho rằng
những tri thức tôn giáo, những tri thức cứu
độ mà họ có, được mặc khải
từ trên. Thời thánh Irénée, có những người mang
danh kitô hữu nhưng thực chất họ là những
người theo ngộ giáo, họ chủ trương:
“Thiên Chúa đích thực không ai đã biết trước
khi Chúa chúng ta đến; Thiên Chúa mà các tiên tri rao giảng,
không là Cha của đức Kitô” (Adversus Haer. IV, 6, 1).
Lập trường này hàm chứa nhị nguyên thuyết
của ngộ giáo: Thiên Chúa đích thực và Đấng
tạo hóa không đồng nhất với nhau. Tri thức
cứu độ (gnose) không đến từ Đấng
tạo hóa, nhưng đến từ Thiên Chúa chân thực.
Họ cho rằng không phải mọi người
đều có thể nhận lãnh tri thức này, mà chỉ có
một số người sống theo Thần Khí thôi.
Phủ nhận nét tích cực của thế giới và
lịch sử, hàm chứa phủ nhận mặc khải
trong dòng lịch sử, phủ nhận Đức Yêsu
lịch sử và chỉ chấp nhận Đức Yêsu
“theo Thần Khí” mà thôi.
Irénee nhấn
mạnh rất nhiều đến lịch sử cứu
độ trong công trình cứu chuộc. Với Irénée,
nhị nguyên siêu hình của lạc giáo không là giáo lý của
Kinh Thánh. Irénée cho rằng Đức Kitô hoạt
động trong toàn lịch sử cứu độ; ngài
phủ nhận sự đối nghịch giữa Thiên Chúa
Tạo Hóa và Thiên Chúa Cứu Độ. Với Irénée, Thiên
Chúa tạo hóa cũng chính là Thiên Chúa cứu độ trong
dòng lịch sử[23].
“Tư tưởng của những người theo ngộ
giáo xa rời Thiên Chúa chân thực. Họ không biết
rằng Lời, Con duy nhất của vị Thiên Chúa này, là
Đấng luôn hiện diện với nhân loại, đã
liên kết với công trình được nhào nặn
bởi chính Ngài, và đã in dấu vào công trình này bằng
thần tính của Ngài. Lời này đã làm người,
đó là Đức Yêsu Kitô, Đấng đã chịu
đau khổ vì chúng tôi, đã phục sinh vì chúng tôi, sẽ
đến lần nữa trong vinh quang của Cha để
phục sinh mọi thân xác, mang lại ơn cứu độ,
và làm sáng lên quy luật thẩm phán chí công trong hoàn vũ
đã quy phục Người. Chỉ có một Thiên Chúa là
Cha như chúng tôi đã trình bày, và chỉ có một
Đức Kitô Yêsu Chúa chúng ta đến trong suốt
nhiệm cục phổ quát và thu hồi tất cả trong
Ngài” (Ad. Haer. III, 16, 6; 24, 1).
Với từ
ngữ nhiệm cục (oikonomia), Irénée muốn diễn
tả hành vi cứu độ của Thiên Chúa trong
Đức Yêsu Kitô, và nhấn mạnh đặc biệt
đến những biến cố cứu độ.
Khởi từ
Eph.1, 10 Irénée muốn làm nổi bật biến cố Yêsu
Kitô, cho rằng biến cố này vang vọng không chỉ
trong bình diện hoàn vũ, nhưng còn trong bình diện lịch
sử cứu độ nữa. Qua từ ngữ nhiệm
cục, Irénée đã đào hố chôn ngộ thuyết- giáo
thuyết chủ trương có sự đối nghịch
giữa Cựu Ước và Tân Ước. Theo lý luận
của những người ngộ thuyết, có hai
Đức Kitô, một Đức Kitô nhập thể và
một đức Kitô vô hình (Ad. Haer. III, 16, 6 cf. IV, 9, 1; 36,
5). Đối nghịch với khuynh hướng sai lạc
này, giám mục thành Lyon khẳng định sự duy
nhất lịch sử và duy nhất hữu thể của
Đức Kitô.
Mặc khải
theo Irénée luôn được đặt trong văn mạch
cứu chuộc học. Chính trong viễn ảnh này mà chúng
ta đọc lời chú giải Mt. 11, 25-27 của Ngài: “Cha,
Đấng vô hình đối với chúng ta, đã
được biết bởi Lời của Ngài, và
mặc dầu (Cha) là Đấng không thể diễn
tả nổi, đã được diễn tả bởi
Lời Ngài; và ngược lại, Lời chỉ
được biết bởi Cha thôi. Đó là chân lý
lưỡng diện mà Chúa đã cho chúng ta biết. Vì
thế, Con mặc khải cái biết về Cha bằng
sự tỏ lộ riêng của Ngài; đóù là cái biết
về Cha... bởi vì tất cả mọi sự
được biểu lộ nhờ trung gian của
Lời” (Ad. Haer. IV, 6, 3).
Thiên Chúa mặc
khải, cũng chính là Thiên Chúa tạo dựng và cứu
chuộc con người trong dòng lịch sử: “Ngài là Thiên
Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Yacob,
Thiên Chúa của kẻ sống; Ngài là Đấng lề
luật loan báo, các tiên tri hứa, Đức Kitô mặc
khải, các tông đồ truyền lại, và Giáo Hội
tuyên xưng. Do Lời là Con Ngài, Ngài là Cha của Chúa chúng ta,
Đức Yêsu Kitô, Đấng mặc khải Ngài. Và Ngài
tỏ lộ cho những kẻ Ngài mặc khải cho,
bởi vì chính cho họ mà Con đã mặc khải Ngài cho
họ (Ad. Haer. II, 0, 9).
Irénée quy chiếu
mặc khải về Đức Kitô, và Đức Kitô này
không thể tách biệt với Con làm người. Nhiệm
cục cứu độ (oikonomia) không bẻ gẩy tính duy
nhất của quan niệm về Thiên Chúa: nhận thức
(mặc khải) vẫn liên kết với sáng kiến
của Cha[24]. Chính Con
đã mặc khải Cha. Nếu ai rao giảng một Thiên
Chúa vô minh, là chống lại đức Kitô; vì Đức Kitô
Chúa chúng ta là Con Thiên Chúa (Ad. Haer. IV, 6, 4).
Tạo dựng,
nhìn trong nhãn quan duy nhất, cũng là công trình mặc
khải của Thiên Chúa toàn năng (Ad. Haer. II, 9, 1; 30, 9).
Khởi từ
tạo dựng, qua luật và các tiên tri, chúng ta đạt
đến Đức Kitô. Xét như là Con, đức Kitô là
thực thể hữu hình của Cha (Ad. Haer. IV, 6, 6). Các
biến cố lịch sử không chỉ hướng chúng
ta đến với Đức Kitô, nhưng nó còn là công
trình của Ngài và mặc khải Thiên Chúa[25].
Như vậy, Thiên Chúa mặc khải ngày càng rõ qua
những thời điểm khác nhau của lịch sử
cứu độ. Sự nhập thể của Lời thâu
tóm mọi thời điểm của nhiệm cục
đi trước[26].
Khi nhấn
mạnh các biến cố của lịch sử cứu
độ, Irénée không cho ngộ đạo có dịp len lõi
vào giáo lý kitô giáo trong lãnh vực mặc khải; và cũng
tương tự như vậy khi quy chiếu tiến
trình mặc khải vào biến cố Yêsu Kitô.
Thánh Irénée trình bày
các hành vi cứu độ như một khoa sư phạm.
Thiên Chúa dạy dỗ con người về Ngài để
họ biết Ngài hơn. Và trong việc này, nhiệm vụ
của Lời nhập thể rất quan trọng: “Chúng ta chỉ
có thể biết về các mầu nhiệm của Thiên
Chúa, nếu Thầy của chúng ta, tức Ngôi Lời, làm
người. Thực vậy, không một ai khác có khả
năng mặc khải các bí mật của Cha, nếu không
phải là Lời Ngài” (Ad. Haer. V, 1, 1).
Không như
những vị thầy nơi ngộ đạo, Thiên Chúa
là vị Thầy chân thực và duy nhất của các tín
hữu. Vị Thầy thần linh đã tỏ lộ Con
Ngài trong những thời gian sau cùng này, để làm
xấu hổ những kẻ cứng tin (x. Ad. Haer. IV, 35,
5).
Các tín hữu Kitô
không nhận giáo huấn kiểu ngộ đạo như
nhớ lại (réminiscence), nhưng nhận do trung gian hành vi
cứu chuộc của Thiên Chúa. Các cuộc tranh luận
với ngộ đạo làm Irénée nhấn mạnh các
dữ kiện của nhiệm cục, và quy hướng
thần học của Ngài vào sự kiện Yêsu Kitô.
Ngộ đạo phân biệt Đức Kitô và Đức
Yêsu theo xác thịt, còn với Irénée, việc nhập thể
của Con là chóp đỉnh của mặc khải.
Thần học
của Irénée xây nền trên các dữ kiện của
lịch sử cứu độ, và như vậy liên quan
mật thiết đến Kinh Thánh. Các người ngộ
đạo cũng nại đến Kinh Thánh, và cũng có
quy điển Kinh Thánh riêng của họ, nhưng có
một khác biệt sâu xa giữa họ và các kitô hữu.
Ngộ đạo cho rằng “nguồn gốc của cái
biết là cái biết”, và như vậy, họ có thể
vượt qua Kinh Thánh; ngược lại các kitô hữu
chính thống và đại diện là Irénée, coi trọng các
quy chuẩn của chân lý (Kanon aletheias) được
chứa trong Kinh Thánh cũng như trong truyền thống
của Hội Thánh (paradosis) (Ad. Haer. III, 11, 1; 12, 6; 15, 1; IV,
35, 4).
Chứng từ
căn bản về Thiên Chúa là Kinh Thánh. Kinh Thánh truyền
lại cho chúng ta hành động cứu độ của
Người:
“Bởi vì chúng ta có quy tắc là chính chân lý (regulam ipsam
veritatem) và chứng từ hiển nhiên về Thiên Chúa, nên
chúng ta không còn phải tìm kiếm khám phá những giải
thích mới...” (Ad. Haer. II, 28, 1)[27].
Giữa Kinh Thánh
và mặc khải có mối dây liên kết phải
được tuyệt đối duy trì, vì Kinh Thánh xác
nhận hành vi cứu độ của Thiên Chúa (Ad. Haer. II,
28, 1); tuy vậy thánh nhân không đồng nhất cách
đơn thuần chứng từ kinh thánh và thực
tại lịch sử; điều này được
thấy rõ vì biến cố mặc khải đạt
tới chóp đỉnh trong việc nhập thể của
Lời Thiên Chúa, xảy ra trước Kinh Thánh Tân
Ước. Xét như là chứng từ về biến
cố Yêsu Kitô, Tin Mừng (và Kinh Thánh nói chung) là tài liệu
mặc khải [28].
Nói tới Kinh
Thánh Tân Ước là phải nói tới các tông đồ;
các ngài đóng một vai trò đầu tiên và rất quan
trọng trong việc hình thành Tân Ước. Các ngài là
mắt xích giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
Những
người ngộ đạo đặt cái biết
của họ trên sự nhận biết của các tông
đồ; còn đối với kitô hữu chân chính, các tông
đồ là bảo chứng của Tin Mừng (Ad. Haer. II,
2, 2; I, 27, 2):
“Vì chúng ta không nhận biết nhiệm cục cứu
độ bởi những ai khác ngoài những người
đã mang Tin Mừng lại cho chúng ta. Các ngài đã rao
giảng Tin Mừng này đầu tiên, và bởi ý
định của Thiên Chúa, các ngài đã turyền lại
cho chúng ta trong Kinh Thánh, để Tin Mừng này trở thành
nền tảng và rường cột đức tin của
chúng ta” (Ad. Haer. II, 1, 1).
Như vậy,
theo Irénée, tiêu chuẩn (mặc khải) là các tông đồ,
chứ không là những truyền thống bí mật nào khác
như những người ngộ đạo chủ
trương và dạy bảo. Những người ngộ
đạo chủ trương có những truyền
thống truyền chân lý bí mật, chứ không do truyền
thống chữ viết[29].
Chúa đã đặt các tông đồ như những nhân
chứng về hành động và những lời dạy
bảo của Người (Ad. Haer. III, 12, 15). Bởi
thế, các tông đồ có chỗ đứng duy nhất
trong việc lưu truyền Tin Mừng. Chỗ
đứng này không bao giờ suy suyển, lung lay hoặc
già nua cằn cỗi. Hội Thánh biết rằng,
đức tin của mình tựa trên uy quyền các tông
đồ. Tính tông truyền bảo đảm chân lý
mặc khải.
Thánh Irénée đã
thiết lập mối dây liên kết giữa mặc
khải và truyền thống khi Ngài khẳng định các
tông đồ có nhiệm vụ lưu truyền mặc khải
mà Đức Yêsu Kitô đã tỏ lộ[30].
Những gì đã
được mặc khải qua hành vi cứu chuộc
của Thiên Chúa, đã được ghi giữ trong Kinh
Thánh dưới tác động của Thánh Linh và
được truyền lại trong Hội Thánh, là một
thực tại sống động.
Kinh Thánh và
truyền thống không là
những thực tại được đặt bên nhau
cách độc lập, hoặc những thực tại
bổ túc cho nhau dù một trong hai có thể tồn tại
không cần thực tại kia; trái lại Kinh Thánh
được bảo đảm trong truyền thống
của Hội Thánh (Ad. Haer. III, 4, 1). Hội Thánh gìn giữ
Kinh Thánh bằng chính cuộc sống đức tin của
mình, và truyền lại cho các tín hữu cách trung thành.
Mặc khải
được chứa đựng trong Kinh Thánh và
được truyền lại trong Hội Thánh bằng
đường lối kế tục (Ad. Haer. IV, 33,8).
Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của
Thánh Linh, là tiêu chuẩn giải thích Kinh Thánh, vì Hội Thánh
là người gìn giữ truyền thống. Hội Thánh phải
tùng phục Mặc khải và những dữ kiện
lịch sử cứu độ mà Kinh Thánh đã xác
định[31].
Clément d'Alexandrie[32]
sinh vào khoảng năm 150 và chết vào khoảng năm 215;
ngài là một giáo sư nổi tiếng tại Alexandrie, và
được coi như vị thầy sáng lập
trường phái thần học Alexandrie. Có những nhân
vật lừng danh thuộc trường Alexandrie như
Origène, Athanasia, Cyrille d'Alexandrie,... ; Origènne là học trò
trực tiếp của Clément.
a. Đức Yêsu- Lời Thiên Chúa mặc khải
“Con người
được tạo dựng để chiêm ngắm
trời, con người là tạo vật thiên thai, Thiên Chúa
mời gọi con người đến nhận biết
Thiên Chúa” (Protrepticus, X, 100, 3). Theo Clément, “sự nhận biết
là tri thức thần linh, là ánh sáng thắp lên trong tâm
hồn con người, giúp con người tùng phục các
giới lệnh, là ánh sáng tỏ lộ mọi cái trên
thế giới, là ánh sáng làm cho con người có khả
năng nhận biết chính mình, và dạy dỗ con
người tham dự vào sự sống của Thiên Chúa”
(Strom. III, 44, 3).
Ngộ
đạo ảnh hưởng khá mạnh thời Clément
sống. Giáo thuyết này chủ trương rằng, cái
biết giúp con người được cứu
độ. Những người theo ngộ đạo cho
rằng họ sở hữu tri thức cứu độ,
tri thức này đã được mặc khải cho
họ. Nếu vậy, cái biết được mặc
khải qua đức Yêsu Kitô có giá trị gì?
Dựa vào Mt. 11,
25-27: “Không ai biết Con trừ Cha, và không ai biết Cha
trừ Con và những người Con muốn mặc
khải cho”, Clément cho rằng chỉ có Đức Kitô là
Đấng mặc khải Thiên Chuá chân thực; và như
vậy không được tham dự vào các bói toán, và
cũng không được tin vào các lời sấm (của
ngộ đạo), vì nếu không, tính duy nhất của
mặc khải do đức Kitô bị lu mờ (Protrepticus
I, 10, 3). Clément cũng cho rằng các mầu nhiệm của
ngộ giáo thực sự rỗng tuếch. Họ cho
rằng họ tìm được tri thức cứu
độ, nhưng thực ra chỉ có Thiên Chúa có thể
mặc khải cho con người, và sự mặc khải
này phải qua trung gian của Đức Kitô, chứ không do
một ai khác.
Dựa vào Ga. 10, 9 Clément nói: “cửa này đã đóng
cho tới bây giờ, và chắc rằng, người
mở nó sẽ mặc khải những cái ở bên trong và
tỏ cho biết những cái mà người ta đã không có
thể biết lúc trước... Đức Kitô- vị
trung gian duy nhất mặc khải Thiên Chúa” (Protrepticus I, 10,
3). Thực tế, Yoan muốn nói về cộng đoàn cánh
chung, nhưng Clément lại giải thích như một
khẳng định về nhiệm vụ mặc khải
duy nhất: các tín hữu được nhận biết và
được thấy, nghĩa là được cứu
độ[33].
Clément cho rằng, ý thức của con người
về sự siêu việt của Thiên Chúa, là một bằng
chứng phủ nhận ngộ đạo, vì ngộ
đạo chủ trương, để có điều
ấy, cần phải có mặc khải từ trên[34].
Những điều trên không trái với những khẳng
định khác của Clément cho rằng, để biết
Thiên Chúa cần phải được mặc khải, và
mặc khải này được Thiên Chúa khởi
xướng; cái biết Thiên Chúa bằng kinh nghiệm và
chứng cớ khoa học thì không có thể đạt
được (Stromata V, 82, 9).
Như vậy, “chúng ta chỉ có thể biết
được cái không thể biết, nhờ ân sủng
thần linh, và bởi Lời Thiên Chúa, xuất từ Thiên
Chúa” (Stromata V, 82, 4; cf. 71, 5).
Logos có một
chỗ đứng rất quan trọng trong tư
tưởng của Clément:
·
“thiên
thần” trong cuộc chiến với Yacob ở Cựu
Ước được giải thích là Logos.
·
Logos là
gương mặt của Cha: “Gương mặt của
Thiên Chúa, là Logos. Bởi Lời (Logos) Thiên Chúa đã thành
hữu hình và khả tri” (Pedagogus 1, 57, 2; cf. Gen. 32, 29). Thiên
Chúa là Đấng có thể hiểu, chứ không hoàn toàn
không thể hiểu như triết thuyết Platon
thường chủ trương[35].
·
“Người
chỉ đạo chúng ta, thuộc về chúng ta, là Thiên Chúa
chí thánh, Đức Yêsu, Lời, Đấng hướng
dẫn nhân loại” (Pedagogus 1, 55, 2).
·
Clément trích
dẫn Hb.1, 1 và nói: “Từ khởi đầu, ngay lúc
tạo dựng thế giới, Lời đã dạy dỗ
nhiều lần nhiều cách, và dẫn đưa
đến trọn lành” (Stromata VI, 58, 2); chính vì vậy “các
ngươi đừng gọi ai là thầy trên mặt
đất” (Pedagogus III, 43, 2; cf. Mt. 23, 8 tt).
Sẽ dễ dàng
hiểu những điều Clément khẳng định
hơn, nếu đặt mình vào khung cảnh văn hoá Hy
lạp, vì trong nền văn minh văn hoá này, Thiên Chúa
được gọi là người chỉ đạo.
Clément đã triển khai ý niệm này của Kitô giáo,
để giúp thế giới hiểu về Kitô giáo hơn.
Clément nhắc
đến “nhiều giao ước” với dân Do Thái và Hy
lạp của một Thiên Chúa duy nhất (Stromata VI, 42, 3);
và trong một mức độ nào đó, Clément đặt
triết lý ngang hàng với Cựu Ước: “cũng
như sự rao giảng đã đến vào thời thích
hợp, cũng vậy lúc thời gian thích hợp, luật
và các tiên tri được ban cho những người man di
mọi rợ, còn người Hy lạp thì được
ban cho triết lý, để chuẩn bị họ đón
nghe lời rao giảng” (Stromata VI, 44, 1).
Cùng ý tưởng
trên được thấy ở ngay đầu sách của
Ngài: “Trước khi Chúa đến, triết lý là chuyện
không thể miễn trừ được đối
với người Hy Lạp, để dẫn họ
tới công lý; còn bây giờ nó trở nên hữu dụng
để dẫn họ tới tôn kính Thiên Chúa. Nó dùng
để huấn luyện trí tuệ, để trí tuệ
có thể lãnh nhận đức tin qua chứng minh” (Stromata
1, 28, 1). Trước biến cố nhập thể, khôn
ngoan được ban cho người Hy Lạp như
nhiệm cục cứu độ cho họ; còn bây giờ
triết lý chỉ đóng vai trò phục vụ đức
tin. Biến cố Đức Yêsu Kitô là tiêu chuẩn và chìa
khóa của mặc khải.
Clément vẫn
giữ nguyên tắc cho rằng, Thiên Chúa chỉ
được biết thời Đức Kitô đến
(Pedagogus 1, 20, 2). Lời đã đến để dạy
con người trở nên Thiên Chúa: “Chính là Lời,
Đấng đã nói với các ông bây giờ với tất
cả sự rõ ràng, để sự cứng tin của các
ông phải xấu hổ. Vâng, tôi nói rõ, Lời đã
trở nên người của Thiên Chúa, và chính người
này dạy dỗ các ông biết làm sao để trở nên
Thiên Chúa (Protrepticus 1, 8, 4).
Với Clément
d'Alexandrie, cả hai giao ước (Cựu lẫn Tân
Ước), tuy đến ở những thời
điểm khác nhau, nhưng đều có cùng một
kết quả, và đến từ một Thiên Chúa duy
nhất:
“Giao ước là hai, do tên gọi và do thời gian,
đã được ký kết theo nhiệm cục thần
linh vào thời đại và (tùy) sự tiến bộ
(của con người); cả hai giao ước
đều có cùng một hiệu quả, bởi vì cả
Tân Ước và Cựu Ước đều đến
từ Thiên Chúa duy nhất, qua sự trung gian của Con”
(Stromata II, 29, 2).
Chính Đức
Kitô là trung tâm nối kết các biến cố mặc
khải trong Cựu Ước và Tân Ước: “Lề
luật, các tiên tri, Tin Mừng, đều được
liên kết tất cả trong Đức Kitô, trong một
nguồn nhận biết duy nhất” (Stromata III, 70, 3).
HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Rm. 10, 9: “nếu ngươi tuyên xưng ngoài miệng Yêsu là Chúa, và nếu lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ cõi chết, ngươi sẽ được cứu”.
[2] Rm. 7, 24: vô phúc thay con người tôi! Ai cứu tôi khỏi cái xác chết này? đội ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta.
[3] Rm 1, 3tt. 9; 5, 10; 8, 29; 1Cor. 1, 9; 15, 28; 2 Cor. 1, 19; Gal. 1, 16; 2, 20; 4, 4. 6; Eph. 4, 13; 1 Thess. 1, 10
[4] Ys. 40, 13
[5] Chúa chỉ Yahweh theo bản dịch LXX.
[6] Điều này chúng ta thấy nơi đầu thư và kết thư của thánh Phaolôâ (Rm. 15, 6; 2Cor. 1, 3; 2 Cor. 11, 31; Eph. 1, 3; Col. 1, 3) Đức Yêsu là Con của Ngài (Rm.1, 3.4.9; 5, 10; 8, 3.29.32; 1 Cor. 1, 9; 15, 28; 2 Cor. 1, 19; Gal. 1, 16; 2, 20; 4, 4.6; Eph. 4, 13; Col.1, 13; 1Tx. 1, 10).
[7] Rm. 4, 24; 7, 4; 8, 11; 10, 9; 1Cor. 6, 14; 15,15; 2Cor. 4, 14; Gal.1, 1; Eph.1, 20; 2, 6; Col. 2, 12; 1Tx.1, 10
[8] Rm. 8, 11: nếu Thần Khí của Đấng đã phục sinh Đức Yêsu từ trong kẻ chết ngự trong anh em, Đấng đã phục sinh Đức Kitô từ trong kẻ chết, cũng sẽ ban sự sống cho thân xác hay chết của chúng ta.
1Cor. 6, 14: Thiên Chúa, Đấng đã phục sinh Chúa, cũng sẽ phục sinh chúng ta nữa bởi quyền năng của Người.
[9] Trong thư Roma chương 8, Phaolô dùng lẫn lộn Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức Yêsu, và Thần Khí. Phải chăng đây là một thực tại được gọi bằng những tên khác nhau?
[10] Kitô, CristoV, Massiah, Đấng được xức dầu.
[11] Các công việc ta làm làm chứng cho ta rằng Cha đã sai Ta (x. Ga. 6, 57; 7,29).
“Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, cũng vậy, Con cũng sai chúng (Ga. 17, 18. 21. 23. 25; 20, 21).
[12] Ga.14, 17. 26; 15, 26
[13] “bấy giờ nếu có ai bảo các ngươi: này Đức Kitô ở đây, hay, Ngài đó kìa; thì các ngươi đừng tin! Sẽ có những Kitô giả... ! và bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây với uy quyền cao cả và vinh quang...” (Mc. 13, 21-22. 26).
[14] “Và các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu quyền năng và đến với mây trời” (Mc. 14, 62; Mt. 26, 64).
[15] Những người không tin sự sống lại.
[16] R. LATOURELLE, op. cit., p. 88
[17] C. BIHLMEYER, Histoire de l’Église, t. I, SALVATOR-PARIS 1962, p. 229
[18] P. STOCKMEIER, “Révélation dans l’Église chrétienne primitive”,
trong La Révélation dans l’Écriture, la patristique, la scolastique,
Coll. HISTOIRE DES DOGMES, CERF 1974, pp. 74-76
[19] C. BIHLMEYER, op. cit., pp. 233-234
[20] Platon, Timée 28C
[21] P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 82-87
[22] C. BIHLMEYER, op. cit., pp. 239-340
[23] Adversus Haer. III, 9, 1:
“Unus igitur idem Deus est, Pater Domini Nostri, qui et praecursorem per prophetas missurum se promisit: et salutare suum, id est Verbum suum, visibile efficit.
[24] Cf. Ad. Haer. IV. 6, 4: sine Deo non cognosci Deum... Cognoscunt enim eum quibuscumque revelaverit Filius.
[25] Ad. Haer. IV, 20, 7: Verbum... hominibus per multas dispositiones ostendum Deum.
[26] Ad. Haer. II, 23, 1: Dominum tantae dispositionis recapitulationem facientem.
[27] Adversus Haer. III, 1, 1:
“Non enim per alios dispositionem salutis nostrae cognovimus, quam per eos per quos Evangelium pervenit ad nos.
[28] “Lời một kh i đã làm người, đã ban cho chúng ta Tin Mừng dưới bốn hình thức” (Ad. Haer. III, 2, 8).
[29] Adversus Haer. III, 2, 1:
“... non enim per litteras traditam illam, sed per vivam vocem”.
[30] Ad. Haer. II, 30, 9: Hic Deus Abraham, et Deus Isaac, et Deus Yacob, Deus vivorum, quem et lex annuntiat, quem Apostoli tradunt, quem Ecclesia credit. Cf. Ad. Haer. III, 3, 1.
[31] P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 93-104
Tất cả phần về thánh Iréné được tóm từ đây.
[32] Tất cả phần về thánh Clément d’Alexandrie được tóm nơi
P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 112-119
[33] P. STOCKMEIER, art. cit., p. 114
[34] Ibidem
[35] P. STOCKMEIER, art. cit., p. 115
“Lời, Đấng tỏ lộ Cha như Cha, đã trở nên “thân xác” với ngũ quan” (Stromata V, 24, 1).