HOME    THẦN HỌC    MẶC KHẢI        MK1       MK2       MK3       MK4       MK5       MK6       MK7

 

MẶC KHẢI

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

MỤC LỤC:

 

3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử.. 1

4. Thiên Chúa thành tín. 3

5. Ngôn sứ.. 4

6. Khôn Ngoan. 7

B. TÂN ƯỚC.. 10

1. Tin Mừng nhất lăm.. 10

2. Theo Phaolô. 16

 

3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử

            Yahweh Thiên Chúa đă hiện ra cho Môsê nơi bụi gai bốc cháy nhưng không tàn, và Người phán: “khi ngươi dẫn dân ra khỏi Ai cập... các ngươi sẽ thờ Thiên Chúa trên núi này” (Xh. 3, 12). Biến cố Xuất Hành đi liền với giao ước trên núi Sinai, biến cố xuất hành hướng về giao ước tại Sinai. Ở đây t́m hiểu khía cạnh mặc khải trong biến cố xuất hành- giao ước này.

a. Cảm thương dân

            Trong tŕnh thuật ơn gọi Môsê ở Xh. 3, Thiên Chúa tự giới thiệu Ngài là “Thiên Chúa của Cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Ysaac, Thiên Chúa của Yacob” (Xh. 3, 6).

            Thiên Chúa là Đấng thương cảm dân Người: “Ta thấy rơ nổi khổ của dân Ta bên Ai cập, và Ta đă nghe tiếng than chúng kêu lên trước mặt đốc công, quả Ta đă biết các khổ đau của chúng” (Xh. 3, 7)[1]. Và Thiên Chúa quyết định: “Nên Ta xuống giựt chúng thoát tay Ai cập và dẫn chúng ra khỏi xứ ấy, lên xứ vừa đẹp vừa rộng, lên xứ chan ḥa sữa mật. Vậy bây giờ ngươi hăy đi. Ta sai ngươi đến với Pharaô; ngươi hăy đem dân của Ta, con cái Israel ra khỏi Ai cập” (Xh. 3, 8. 10).

            Thiên Chúa giải phóng con dân Israel ra khỏi Ai cập, bởi v́ “Thiên Chúa đă nhớ lại giao ước của Người với Abraham, với Ysaac, với Yacob” (Xh. 3, 7. 10; 5, 1. 7; 7, 16. 26). Thiên Chúa đă thương yêu và tuyển chọn Abraham cùng ḍng dơi ông, chính v́ vậy Ngài đă hướng dẫn cuộc đời của các tổ phụ, đă ở với các ngài, đă cho các ngài gặp may mắn trên đời, và bây giờ Ngài quyết định giải phóng con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Không phải v́ con dân Israel luôn vâng theo lời Chúa mà Chúa giải phóng họ[2], nhưng v́ Ngài yêu thương và tuyển chọn họ. Môsê được chọn làm người đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập, v́ Thiên Chúa yêu thương dân Người, chứ không phải v́ Môsê[3].

b. Giải phóng dân

            Yahweh phán với Môsê ở Madian: Đi đi! Hăy trở về Ai cập[4]...

            Môsê đă cho dân biết cuộc gặp gỡ của ông với Thiên Chúa và những điều Ngài nói với ông về tương lai dân Ngài, nhưng không phải tất cả đều tin và nghe (Xh. 4, 31; 5, 21; 6, 9. 12).

            Thái độ của Pharaô đối với việc con dân Israel ra đi:

Thiên Chúa biết Pharaô không để dân đi[5] (Xh. 3, 19-20; 4, 21b; Xh. 5, 2; 6, 1; 7, 13). Môsê cũng đoán được điều này: “Này con cái Israel đă chẳng nghe tôi! Th́ làm sao Pharaô lại sẽ nghe tôi, một kẻ cứng môi cứng miệng” (Xh. 6, 12). Do vậy Yahweh Thiên Chúa đă cho Môsê có thể làm những dấu lạ như gậy biến thành rắn (Xh. 7, 10tt), nước hóa thành máu (Xh. 7, 17tt), ếch nhái (Xh.7, 26tt), ruồi muỗi (Xh. 8, 12tt), ruồi ṃng (Xh. 8, 16tt), ôn dịch (Xh. 9, 1tt), ung nhọt (Xh. 9, 8tt), mưa đá (Xh. 9, 13tt), châu chấu (Xh. 10, 1tt), tối tăm (Xh. 10, 21); thế nhưng Pharaô vẫn cứng ḷng (Xh. 7, 13.14; 8, 11. 15. 28; 9, 7. 12. 35; 10, 20. 27). Dấu lạ cuối cùng là các con trưởng của Ai cập bị chết (Xh. 11).

            Các dấu lạ gây thiệt hại tài sản dân Ai cập, là do tại sự cứng ḷng của vua Pharaô; kể cả cái chết các con đầu ḷng của người Ai cập cũng là do tội của Pharaô và toàn dân Ai cập không chịu vâng phục ư Chúa, không “để dân Ngài ra đi thờ phượng Ngài”. Mạng sống con người là tuyệt đối đối với con người, con người không được phép xúc phạm mạng sống của ḿnh và của anh em ḿnh; nhưng mệnh lệnh của Thiên Chúa là tuyệt đối đối với mọi sự: ai bất tuân th́ phải chết[6]. Và không phải chỉ các con đầu ḷng phải chết, mà những ai cứng ḷng muốn bất tuân lệnh Chúa, sẽ phải chết do chính lỗi của ḿnh, khi đuổi theo dân Israel qua biển đỏ (Xh.14).

            Trong biến cố xuất hành khỏi Ai cập, Yahweh Thiên Chúa là Đấng quyết định giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai Cập; chính Ngài đă tuyển chọn Môsê làm người dẫn dân Ngài ra khỏi Ai cập, và cũng chính Ngài đưa ra lư lẽ để nói với Pharaô: “Yahweh, Thiên Chúa của dân Hipri đă cho chúng tôi gặp Người. Vậy bây giờ, xin cho chúng tôi đi ba ngày đàng vào sa mạc tế lễ cho Yahweh Thiên Chúa của chúng tôi” (Xh. 3, 18). Thiên Chúa Yahweh là lá cờ giương cao của dân Israel trong biến cố giải phóng dân khỏi Ai cập: “Yahweh Thiên Chúa của Israel phán thế này: Hăy thả cho dân Ta đi, để chúng trẩy lễ mừng Ta trong sa mạc” (Xh. 5, 1. 3; 7, 16. 26; 8, 4. 16; 9, 1. 13; 10, 3; 12, 31).

            Thiên Chúa đă giải phóng con dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập bằng nhiều điềm thiêng dấu lạ, thế nhưng con dân Israel vẫn chưa tin tưởng phó thác tương lai và cuộc sống trong tay Yahweh Thiên Chúa. Họ vẫn nói những lời tỏ vẻ vô ơn và bất cần Thiên Chúa: “Phải chi chúng tôi chết đi bởi tay Yahweh trong đất Ai cập, khi c̣n ngồi bên niêu thịt và được ăn bánh thỏa thuê. Thật các ông đă đem chúng tôi ra sa mạc này để làm cả lũ chết đói ở đây” (Xh. 16, 28).

            Những ǵ Yahweh truyền dạy dân qua Môsê, con dân Israel cũng không tuân lệnh. Yahweh đă phán với Môsê: “Cho đến bao giờ nữa, các ngươi sẽ từ khước, không giữ lệnh truyền và luật điều của Ta?” (Xh. 16, 28). Ở Massah và Mêribah, họ c̣n thử thách Yahweh: “Có Yahweh ở giữa chúng ta hay không?” (Xh. 17,7).

            Dầu tất cả những điều ấy, Yahweh Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín, Ngài trung thành với chính Ngài, với điều Ngài đă hứa dù khi con người phản bội Ngài. Ngài vẫn kư kết với dân một giao ước, theo điều Ngài đă hứa với Abraham, với Ysaac và với Yacob: “Ta sẽ lấy các ngươi làm một dân thờ Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ biết Ta là Yahweh, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đem các ngươi ra từ dưới ách khổ dịch của Ai cập” (Xh. 6, 7).

c. Giao ước Sinai

            Giao ước là một lời hứa có điều kiện kèm theo lời thề! Lời hứa có thể đến từ một bên, tức đơn phương; thế nhưng giao ước luôn luôn phải được sự ưng thuận của cả đôi bên, tức song phương. Trước khi có chữ viết, giao ước là sự đồng ư của hai bên được tuyên bố bằng lời trước mặt những nhân chứng, với lời thề và lời nguyền rủa theo nghi thức tế tự. Sau này khi có chữ viết, bản văn thay thế người chứng.

Người thề hứa phải trung thành với những ǵ ḿnh giao ước, không phải v́ người chứng nhưng v́ thần linh, họ sợ thần linh và sợ năng lực lời họ đă thề theo công thức nguyền rủa[7].

            Tŕnh thuật trong sách Xuất hành, chương 19-24 cho thấy giao ước giữa Thiên Chúa và con dân Israel được kư kết:

·        Giới thiệu ngày tháng nơi kư kết giao ước (Xh. 19,1-2);

·        Cuộc đàm phán trao đổi giữa dân và Thiên Chúa qua Môsê (Xh. 19, 3-15)

                  về nội dung giao ước (điều kiện bảo đảm) (Xh. 19, 3-8)

            về việc chuẩn bị và thời gian kư kết (Xh. 19, 9-15).

·        Kư kết giao ước (Xh. 19, 16-24, 8).

                        Toàn dân nghinh đón Thiên Chúa và Thiên Chúa hiện diện (Xh. 19, 16tt);

                        Điều kiện giao ước: thập giới (Xh. 20, 1-21. 22tt).

                        Toàn dân ưng thuận (Xh. 24, 3).

                        Kư kết: “Này là máu của giao ước đă kư kết với các ngươi, thể theo mọi lời ấy” (Xh. 24, 8.4-8).

            Đây là bảo đảm của Thiên Chúa đối với con dân Israel, trong giao ước Người kư kết với dân: “Vậy, bây giờ, nếu các ngươi quyết nghe tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, th́ các ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa các dân hết thảy, v́ toàn cơi đất đều là của Ta. C̣n các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho Ta, một dân thánh” (Xh. 19, 5-6).

            Theo một số học giả, giao ước là nguyên lư thống nhất quy tụ dân Israel xét như là một dân; v́ vào thời quan án và quân chủ tiên khởi của Israel, có nhiều nhóm dân với những nguồn gốc khác nhau đă không chia sẻ kinh nghiệm xuất hành; v́ thế, họ tháp nhập vào dân Israel qua việc chấp nhận giao ước với Yahweh của Israel. Truyền thống về những hành vi cứu độ dân Israel trở nên truyền thống của cả nhóm, và những điều khoản giao ước trở thành quy luật, đặc biệt điều khoản chỉ thờ Yahweh thôi. M. Noth giải thích Jos. 24 như là một lễ nghi tôn giáo, trong đó các nhóm khác nhau kư kết hiệp ước chung quanh thánh tích. Các bộ lạc là những chư hầu của Yahweh, và phải giữ ḥa b́nh với nhau; họ không được giao ước với bất cứ dân tộc hay thần linh nào khác[8].

            Thập giới là điều khoản của giao ước Sinai giữa Yahweh và toàn dân Israel. Thập giới không là luật theo nghĩa b́nh thường đối với người thời xưa hoặc ngay cả với người thời nay: thập giới tỏ lộ ư định của Thiên Chúa cho con người, và là nền tảng của mọi luật lệ[9]. Luật thập giới tỏ lộ ư định của Yahweh cho toàn dân Israel, là điều khoản căn bản của giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài; như vậy, giữ thập giới là giữ giao ước giữa Thiên Chúa và Israel, không giữ thập giới là hủy bỏ giao ước giữa Thiên Chúa và Israel[10].

            Với biến cố xuất hành khỏi Ai Cập và giao ước trên núi Sinai, Thiên Chúa mặc khải Ngài yêu thương và tuyển chọn dân Israel giữa các dân:

·        Ngài đă can thiệp vào ḍng lịch sử, Ngài điều khiển ḍng lịch sử: Ngài đă giải phóng dân Israel khỏi Ai cập! Qua lịch sử, con dân Israel và mọi dân tộc khác có thể nhận ra bàn tay của Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn dân Israel;

·        Ngài là Đấng bảo trợ dân, kư giao ước với dân Israel, để biến dân Israel thành dân riêng của Ngài, thành dân thánh và dân tư tế. Israel được chọn làm dân riêng và được Thiên Chúa kết ước với, không phải v́ dân Israel tài đức hơn các dân tộc khác, nhưng v́ Thiên Chúa yêu thương[11] và tuyển chọn dân, v́ Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn Abraham, Ysaac, và Yacob;

·        Thiên Chúa là Đấng ban luật cho Israel; Luật Yahweh Thiên Chúa ban cho dân, nếu dân tuân giữ, sẽ là bảo đảm dân là sở hữu của Thiên Chúa; và hơn như vậy nữa, luật Yahweh ban cho dân Israel trong giao ước, sẽ giúp dân trở nên giống Thiên Chúa là Đấng Thánh, làm cho dân trở thành dân thánh của Thiên Chúa.

            Thiên Chúa đă mặc khải tên Ngài cho Môsê, và việc mặc khải này là khởi đầu cho việc mặc khải Ngài là Đấng tuyển chọn và giải phóng dân Israel khỏi Ai cập.

            Thiên Chúa đă nói với dân qua Môsê, và qua trung gian Môsê Thiên Chúa cũng nói với Pharaô và triều đ́nh Ai cập (Xh. 19,19, 21-25; 20, 18-21). C̣n với chính Môsê, Thiên Chúa đă nói với ông qua trung gian bụi gai gốc cháy nhưng không tàn (Xh. 3). Sau đó, Môsê sống rất thân mật với Thiên Chúa và thường được Thiên Chúa phán bảo ông, nhưng Kinh Thánh không cho biết Thiên Chúa phán bảo với ông qua trung gian nào.

            Qua tŕnh thuật Xh. 33, 18-23; 34, 6-7, con người và ngay cả Môsê, không thể nh́n thấy Yahweh Thiên Chúa được; cũng trong lần tỏ hiện này, Yahweh Thiên Chúa mặc khải Ngài là “Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa, tín thành. Ngài giữ nghĩa cho đến ngàn đời, chịu đựng lỗi lầm quá phạm, nhưng không coi tội như thể vô can. Ngài trị tội cha trên con cháu ba bốn đời” (Xh. 34, 6-7). Thiên Chúa Yahweh là Thiên Chúa t́nh yêu, kiên nhẫn và tha thứ.

4. Thiên Chúa thành tín

            Thời kỳ thẩm phán kéo dài khoảng trên 200 năm, từ sau khi Yosua đưa dân vào đất hứa cho tới thời Israel có vua (khoảng từ 1210 đến 1000 trước công nguyên). Những thẩm phán được sách thẩm phán đề cập tới, là những vị được Thiên Chúa ở với họ cách đặc biệt (Tp. 3, 10); họ là cứu tinh của dân tộc (Tp. 3, 9.15) chứ không phải là những người được đặt để theo thói thường (Xh. 18, 13-26).

            Sách thẩm phán tŕnh bày tương quan giữa Thiên Chúa và Israel vào thời dân Israel đă được vào đất hứa. Dân Israel liên tục phản bội Chúa, thờ các thần ngoại; V́ vậy, Ngài đă phó nộp họ vào tay các dân tộc khác! Khổ cực, họ quay trở về với Chúa, và kêu xin Người; Thiên Chúa đă thương, và sai các thẩm phán đến cứu họ thoát khỏi tay những dân tộc khác.

a. Ơn gọi thẩm phán

            Sách thẩm phán cho cái nh́n rất đa dạng về ơn gọi thẩm phán.

            Với những thẩm phán Otniel (Tp. 3, 7-11), Êhud (Tp.3, 12-30) và Shamgar (Tp. 3, 31), sách không cho biết quá tŕnh h́nh thành ơn gọi làm thẩm phán; với Baraq, Thiên Chúa đă nói với ông qua tiên tri Đêbôrah (Tp. 4, 1-10); c̣n với Ghêđêô, thần sứ Yahweh đă hiện ra cho ông (Tp. 6, 11-12) và Yahweh đă trao sứ mạng cho ông (Tp. 6, 16tt); với Samson, ơn gọi đă h́nh thành từ lúc được thụ thai, ông là người được hiến thánh cho Thiên Chúa từ trong dạ mẹ “chính trẻ ấy sẽ khởi công cứu thoát Israel khỏi tay Philitin” (Tp. 13, 5).

            Sau thời thẩm phán, là thời kỳ vương quyền. Có thể nói vị thẩm phán cuối cùng là Samuel (1Sm. 7, 2-17); Samuel c̣n được coi là tiên tri, v́ Yahweh Thiên Chúa đă nói với ông, và nói với dân qua ông (1Sm. 3, 1-21); Samuel cũng là người đă xức dầu phong vương cho Saul (1Sm.10, 1tt) và cho David (1Sm.16).

b. Cách biết Ư Thiên Chúa

            Tŕnh thuật 1Sm.3 cho thấy Yahweh Thiên Chúa gọi Samuel, nhưng lúc đó ông không nhận ra tiếng Chúa. Theo tŕnh thuật này, Samuel nghe tiếng nhưng không thấy ǵ, chính v́ vậy cậu mới chạy lại chỗ thầy Êli, v́ tưởng thầy gọi. Trong tŕnh thuật này, tưởng có thể nghĩ rằng Chúa gọi Samuel lúc cậu c̣n thức. Nghe thấy tiếng Chúa, đó là điều thường thấy nơi các tiên tri: “Chúa phán...”, “lời Chúa đến với...”.

            Vào thời trước và sau Samuel, người Israel cũng vẫn có thói quen thỉnh ư Yahweh Thiên Chúa mỗi khi gặp những chuyện khó khăn hoặc những điều cần giải quyết (1Sm. 9, 1-10; Jos. 7, 6tt; 1Sm. 10, 20-21). Thế nhưng vào thời Samuel, Kinh Thánh nói “Lời Yahweh hiếm, thị kiến khan” (1Sm. 2, 1), nên người ta thường gieo quẻ bốc thăm; chẳng hạn việc t́m người lỗi luật thần tru bằng bốc thăm (Jos. 7, 6tt), hoặc việc chọn vua (1Sm. 10, 20-21).

            Để thấy rơ hơn việc thỉnh ư Yahweh bằng gieo quẻ bốc thăm, hăy xem tŕnh thuật sau: “Saul nói: Lạy Yahweh, Thiên Chúa của Israel, làm sao Người lại không trả lời cho tôi tớ Người hôm nay? Nếu tội ấy có ở về phía tôi hay Yônathan con tôi, th́ lạy Yahweh, Thiên Chúa của Israel, xin ban Urim; c̣n nếu tội ấy có ở về phía dân của Người là Israel th́ xin ban Tummin. Và đă bốc thăm trúng Yônathan và Saul, c̣n dân th́ đă thoát. Saul lại nói: hăy gieo thăm giữa tôi và Yonathan, con tôi: Yahweh để ai trúng thăm, th́ người đó phải chết” (1Sm. 14, 41-42).

            Những dân tộc đông phương lân cận của dân Israel cũng dùng những cách như bói toán gieo quẻ để biết ư định của Thần Linh. Nhưng có sự khác nhau rơ rệt: các thầy chiêm nơi dân lân cận bó buộc thần linh của họ phải tỏ ư kiến qua việc tuân giữ các nghi thức; c̣n nơi dân Israel, Thiên Chúa hoàn toàn tự do; con dân Israel phải chờ đợi câu trả lời của Thiên Chúa do ḷng nhân lành và ư định tự do của Ngài. Việc hỏi ư kiến này thường thuộc về nhiệm vụ của các nhà chiêm thị, và của các tư tế (1Sm. 1, 36; 22, 15).

            Nhiều lần dân Israel phản bội Thiên Chúa, không tuân giữ giao ước, thờ các thần khác ngoài Yahweh; nhưng Yahweh Thiên Chúa vẫn đáp cứu dân mỗi khi dân quay trở về với Thiên Chúa. Những tŕnh thuật này cho thấy Thiên Chúa là Đấng thành tín, kiên nhẫn và tha thứ; c̣n Israel là dân cứng cổ, bất trung, luôn phản bội.

5. Ngôn sứ

            Không phải chỉ có dân Israel mới có các tiên tri, nhưng những dân lân cận, các tôn giáo ngoài Do Thái giáo cũng có các tiên tri (1V.18, 19). Ở Israel, phong trào tiên tri xuất hiện mạnh từ thế kỷ XI đến thế kỷ V trước công nguyên. Không kể những người được Yahweh Thiên Chúa gọi cách đặc biệt để làm tiên tri, những tiên tri chuyên nghiệp (những người hành nghề tiên tri để kiếm sống) thường sống thành từng nhóm, và có nhóm trưởng (1Sm. 10, 5tt; 19, 20tt).

a. Tiên tri

            Tiên tri, người biết trước; nhưng đúng hơn, tiên tri là người nói nhân danh Thiên Chúa (ngôn sứ).

            Tiên tri là người của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa chiếm đoạt, người có kinh nghiệm về Thiên Chúa đến độ các vị suy nghĩ, nói và hành động như Thiên Chúa muốn, như thể các vị đó thấy hay nghe được Thiên Chúa nói (Yer. 20, 7.9; Am. 3, 3-8). Tuy nhiên cũng có người cho rằng các ngài là những người bị bệnh “sùi bọt mép” (Mik. 2, 6; Am. 7, 16), những người điên (Hos.9, 7), những người thiếu sự khôn ngoan tối thiểu (không biết nói dối dù phải chết (Yer. 26, 12); không sợ thế lực người đời dù thế lực đó là quan quyền hay vua chúa (2V.1, 5tt; 18, 1tt; 21, 20tt)).

            Nói tới tiên tri, không thể không đề cập đến lời, sấm ngôn.

i. Lời

            Lời, tiếng Dothái là DABAR. DABAR có hai gốc song song: một có nghĩa là nói, và một có nghĩa là cái ở đàng sau; như vậy, DABAR vừa có nghĩa làm cho hiểu biết, vừa có nghĩa cái ǵ mang sức mạnh.

            DABAR là cái ǵ ở đàng sau, và cũng là cái ǵ được phóng đẩy ra trước; là cái chuyển-thành-hành-vi điều đầu tiên ở trong trái tim, trong ḷng. DABAR là cái nền tảng của một sự vật, là cái nghĩa riêng của sự vật; và nghĩa này được diễn tả bằng ngôn từ. Như vậy, mỗi lời chứa đựng không chỉ ư nghĩa mà c̣n chứa đựng một năng lực nữa. Theo Kinh Thánh, DABAR là cái ra khỏi môi miệng (Ds. 30, 13; Yer. 17,16) và là cái có nguồn gốc trong ḷng con người (St. 17, 17; Tv. 14,1; Yer.3,16). Dabar không chỉ diễn tả một tư tưởng trừu tượng, nhưng c̣n diễn tả t́nh trạng một tâm hồn.

            Lời là diễn tả “thân xác” của nội dung “linh hồn”; đằng sau lời, có một hồn. Nếu một người có tâm hồn cương nghị phát biểu lời, th́ lời đó sẽ diễn tả nhiều thực tại hơn lời của một người có tâm hồn yếu nhược. Một người nói với một người khác, là tạo một cái ǵ thuộc tâm hồn họ nơi tâm hồn của người khác nghe họ[12].

            Trong ngôn ngữ hiện tại, Karl Buehler cho thấy:

·        Lời có một nội dung; nó diễn tả hay tiêu biểu cho một vật nào đó; nó đặt tên cho một vật, diễn tả một tư tưởng, một phán đoán, kể lại một câu chuyện.

·        Lời c̣n là một lời mời gọi; lời được ngỏ với ai, th́ có khuynh hướng gợi lên nơi người đó một lời đáp hay phản ứng.

·        Lời mặc khải, bày tỏ một ngôi vị, bày tỏ tâm t́nh bên trong của người nói, bày tỏ lập trường của họ.

Như vậy, ba khía cạnh này của lời tương hợp với ba ngôi của một động từ: lời diễn tả ngôi thứ nhất, lời kêu gọi ngôi thứ hai, và lời tường thuật ngôi thứ ba.

            Tóm lại, người ta có thể định nghĩa: lời là một hành vi bởi đó một ngôi vị ngỏ lời và diễn tả ḿnh với một người khác, nhằm truyền thông và thông cảm lẫn nhau[13].

ii. Năng lực của lời

            Ở Ai cập và Lưỡng Hà Địa, lời là một thực thể quyền uy. Lời thần linh, chính là sức lực của thần linh mà con người không thể chống cưỡng lại được. Lời của con người cũng có năng lực, đặc biệt trong những lời chúc lành hoặc chúc dữ, trong lời hứa, lời thề! Lời của vua chúa có năng lực hơn lời của người thường.

            Trong Cựu Ước, t́m thấy nhiều đoạn văn cho thấy năng lực của lời:

·        Ysaac chúc lành cho Yacob. Sự lầm lẫn không làm cho lời đă nói mất giá trị, Ysaac không thể rút lời đă chúc phúc cho Yacob (St. 27).

·        Bà mẹ của Mikayohu phải chúc phúc để hóa giải lời nguyền rủa bà đă thốt ra hướng về người ăn cắp, mà bà không biết người ăn cắp lại là chính con bà (Tp. 17, 1tt).

·        Lời nói của David hướng về một người bất kỳ nào đó được áp dụng cho chính ông (2 Sm. 12, 1-8).

·        Lời thề đi kèm theo h́nh phạt, nếu một người thề gian, lời thề độc sẽ ứng nghiệm trên người thề gian đó (Ds. 5, 12-31).

            Năng lực của lời bắt nguồn từ năng lực của chính ngôi vị nói. Ư muốn của ngôi vị nói được chuyển tới thế giới bên ngoài cùng với tất cả năng lực và tính chất của lời được nói ra!

            Lời của Yahweh là nhân tố tác tạo trong suốt lịch sử dân Israel, từ việc sáng tạo (St. 1, 3) đến việc dựng lại đền thờ Yêrusalem (Ys. 44, 28). Lời của Yahweh kêu gọi Abraham, kêu gọi Môsê, đưa dân Israel ra khỏi Ai cập, dẫn dân vào đất hứa, gọi Samuel, tuyển chọn David. Lời của Yahweh là nhân tố chính trong lịch sử dân Israel theo Cựu Ước.

            Lời của Yahweh là một từ ngữ rất thông dụng trong các sách tiên tri. Lời là đặc sủng của tiên tri, cũng như Luật (Torah) là đặc sủng của tư tế, và lời khuyên (khôn ngoan) là đặc sủng của hiền nhân (Yer. 18, 18). Lời Yahweh không do tiên tri nhưng do tự Thiên Chúa Yahweh, chính Ngài bắt tiên tri phải nói (Am. 3, 8).

            Lời của Yahweh đối với tiên tri, khi th́ ngọt ngào (Yer. 15, 16), khi th́ như ngọn lửa đốt trong xương tủy (Yer. 20, 7-9), khi th́ trở nên lời giận giữ phải nói ra (Yer. 6, 11). Lời của Yahweh là chính Yahweh. Lời Yahweh mà tiên tri nói có sức lật đổ và phá hủy... (Yer. 1, 9-10). Lời của Yahweh không thể không thành tựu (Ys. 45, 23; 55, 10-11; 31, 2); hơn nữa, Lời của Yahweh là lời vĩnh cửu và ứng nghiệm (Ys. 40, 8; Cf. Ys.9, 8).

            Lời của tiên tri đặt nền tảng trên mặc khải qua biến cố, và mặc khải qua biến cố dẫn tới lời. Lời của Thiên Chúa được ban cho con người như một sứ mạng, như một lời giáo huấn, như một người hướng dẫn. Lời của Thiên Chúa là chủ lịch sử, kiến tạo lịch sử, và vang vọng trong lịch sử[14]. Phác họa một lịch sử về Lời Thiên Chúa, là đồng thời phác họa lịch sử mặc khải[15].

iii. Lời- phương tiện mặc khải

            Tất cả các tiên tri đều có cảm thức đặc biệt về Lời Chúa. Nhiều tiên tri diễn tả tương quan với Thiên Chúa bằng thị kiến; các ngài được Thiên Chúa nói với “trong thị kiến và trong giấc mơ” (Ds. 12, 6tt; 1V. 22, 13-17; Am. 1, 1; Ez. 1, 1; Nah. 1, 1; Hab. 1, 1). Một số khác cho rằng ḿnh được Thiên Chúa nói với, c̣n bằng cách nào th́ không đề cập tới. Có những vị diễn tả việc ḿnh có Lời Chúa bằng những h́nh ảnh biểu trưng, chẳng hạn với tiên tri Yêrêmya, Thiên Chúa đặt Lời Ngài vào miệng tiên tri (Yer. 1, 9); c̣n với Ezekiel, tiên tri đă ăn sách viết Lời của Yahweh, sách vừa đắng vừa ngọt đối với ông (Ez. 2, 9- 3, 3).

b. Tiêu chuẩn nhận biết tiên tri thật

            Xét về phương diện chủ quan, tiên tri thật là người xác tín ơn gọi tiên tri của ḿnh, ơn gọi hiển nhiên đến mức độ không thể nghi ngờ được, họ cảm thấy bị bó buộc phải nói và hành động nhân danh Thiên Chúa; sự bó buộc này thường chống lại khả năng và khuynh hướng b́nh thường của họ, nó đ̣i buộc như bị bắt buộc phải nói hoặc làm. C̣n nơi tiên tri giả, họ cho những điều họ mơ tưởng và mong ước là mặc khải, và họ cho ư họ là ư Thiên Chúa (Yer.23, 23tt).

            Xét về phương diện khách quan, những điều tiên tri thật nói phải ứng nghiệm (Đnl. 18, 21), và có sự tương hợp giữa lời giảng dạy và cuộc sống của vị tiên tri (như vâng phục Thiên Chúa, từ bỏ ḿnh và những ǵ làm thoải mái cho ḿnh).

            Chính v́ lấy ư ḿnh làm ư Chúa, cho nên tiên tri giả thường có câu trả lời liền; c̣n tiên tri thật, đôi khi và thường, phải chờ câu trả lời từ Thiên Chúa (Yer. 27-28).

c. Sứ điệp tiên tri

            Tiên tri luôn luôn và chính yếu là người của thời hiện tại đoù, tức là cho những người đương thời với các tiên tri, chứ không phải là người cho thời quá khứ hoặc tương lai[16]. Tiên tri, người nói nhân danh Thiên Chúa cho dân, về những điều Thiên Chúa muốn nói với dân.

            Là người của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chiếm đoạt, tiên tri có cái nh́n của Thiên Chúa. Tiên tri nói cho dân biết tương quan giữa Thiên Chúa và dân, tương quan giữa Thiên Chúa và vua, giữa Thiên Chúa và tư tế v.v.

            Tiên tri thấy rơ chứ không mù quáng. Ngay khi bên ngoài tất cả dường như rất trật tự và tốt đẹp, tiên tri vẫn phân biệt được, nhận định và thấy sự trống vắng đức tin và t́nh yêu đằng sau những cái bên ngoài có vẻ tốt đẹp. Tiên tri nhận ra sự bất hạnh nơi những cái có vẻ hạnh phúc bên ngoài mà các tiên tri giả nơi triều đ́nh loan báo. Tiên tri cũng là người loan báo sự an ủi, và an ủi dân trong những cơn cùng quẫn, khi bị lưu đày và những khi như thể tuyệt vọng[17].

            Tiên tri nỗ lực duy tŕ và củng cố chân lư giao ước, chống lại mọi cám dỗ trao đổi giao ước của Thiên Chúa lấy giao ước chính trị[18]. Tiên tri lưu ư và cảnh cáo vua và các tư tế, để họ đừng bất trung với giao ước, và đừng an tâm với những yên ổn giả tạo. Các tiên tri giải thích các tai ương và các thử thách, không cho rằng chúng do những nguyên nhân bên ngoài t́nh cờ; nhưng chúng là h́nh phạt Thiên Chúa trừng trị tội lỗi của dân; những biến cố đó là những biến cố mặc khải.

i. Giao ước

            Có thể nói, các tiên tri là những người nh́n lịch sử dân Israel dưới cái nh́n giao ước; các ngài lấy giao ước làm tiêu chuẩn phán đoán xem hành vi cư xử của một người, của một triều đại, có tốt hay không? xem họ có để cho ư Thiên Chúa thể hiện nơi cuộc đời họ, nơi quốc gia họ hay không?

            Nói vậy không có nghĩa là không biết các tiên tri thế kỷ thứ VIII như Amos, Hôsêa, Ysaya và Mica, đă không nhắc đến chữ giao ước. Tuy các vị đó không nhắc đến chữ giao ước, nhưng các vị đă khai triển nền thần học giao ước: tính ưu việt của Yahweh, hành vi cứu độ của Yahweh, chỗ đứng duy nhất của Israel xét như dân Thiên Chúa và những đ̣i buộc đối với Yahweh.

            Một số học giả cho rằng, các tiên tri thế kỷ VIII tránh dùng chữ giao ước, v́ người thời đó dễ hiểu lầm rằng giao ước đ̣i Yahweh phải làm tất cả những ǵ dân Israel thích[19]. C̣n Mendenhall lại cho rằng, các tiên tri thế kỷ VIII không nhắc đến chữ giao ước v́ trong vương quốc Yuda, giao ước với Israel đă được thay thế bởi giao ước với nhà David; mà các tiên tri không muốn đồng hóa giao ước của Yahweh với Israel, với giao ước của Yahweh với David; tiên tri sợ rằng nếu các ngài dùng chữ giao ước, dễ dẫn tới hiểu lầm rằng sự tồn tại của dân lệ thuộc vào sự tồn tại của vương triều David[20].

            Với tiên tri Yêrêmya, chữ giao ước xuất hiện lại. Yêrêmya c̣n nói tới một giao ước mới, và coi tương lai của Israel như lệ thuộc vào giao ước này (Yer. 31, 31-34). Giao ước này đề cao tương quan của Yahweh với từng người. Giao ước giữa Yahweh với dân Israel, đặt dân Israel thành dân Yahweh; cũng vậy giao ước giữa Yahweh với từng người, đặt mỗi người thành người của Yahweh.

            Cùng thời với Yêrêmya, sách Đệ Nhị Luật nhấn mạnh nhiều đến giao ước: người ta được chúc lành hay chúc dữ là tùy người ta có giữ luật hay không.

            Trong truyền thống P nơi Ngũ Kinh, giao ước được đồng hóa với luật; trước đó, truyền thống P đă tŕnh bày giao ước dưới dấu hiệu cắt b́ (St. 17, 10). Truyền thống P tŕnh bày toàn bộ lịch sử cứu độ như một chuỗi giao ước, kể cả giao ước với Nôe.

            Các tiên tri nhớ lại thời Xuất Hành, và coi đó là lư tưởng của xă hội hiện tại. Tiên tri muốn xây dựng một xă hội xứng với phẩm giá con dân Thiên Chúa: các quyền của con người phải được tôn trọng (1V. 21), tất cả đều b́nh đẳng và sống trong t́nh huynh đệ. Ḷng nhiệt thành với công b́nh là một biểu lộ của ḷng tin vào Thiên Chúa; chính Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và xây dựng xă hội này (Ys. 11, 6-9; 19, 23-25; Zac. 8)[21].

            Các tiên tri cảnh cáo mọi tầng lớp dân chúng (vua, tư tế, dân chúng), để họ trở về với Yahweh, đừng vi phạm giao ước của Yahweh với Israel nữa. Các tội vi giao ước quy về hai điều: thờ thần ngoại lai bỏ Yahweh, bất công phạm đến anh em!

            Êlia tố cáo Akhab đă là nguyên nhân của nạn hạn hán. “Akhab nói với Êlia: phải chăng chính là ngươi, con người giá họa cho Israel? Êlia nói: không phải tôi đă giá họa cho Israel, nhưng là ông và nhà cha ông, bởi đă lỗi bỏ lịnh truyền của Yahweh, và ông đă đi theo các Baal” (1V. 18, 18tt).

Không phải dân đă bỏ hoàn toàn Yahweh để đi theo Baal, nhưng dân đă baal hóa Yahweh, coi Yahweh như đồng hội đồng thuyền với Baal, đến độ họ đă đặt nữ thần Anat, vợ của Baal bên cạnh Yahweh[22]. Êlia đă nói thẳng với họ: Nếu Yahweh là Thiên Chúa, hăy theo Ngài, c̣n như nếu là Baal, th́ các ngươi hăy theo nó đi” (1V. 18, 21).

            Tiên tri Yêrêmya cũng tố cáo dân đă bỏ Yahweh để đi theo các thần ngoại: “Há có dân nào tráo đổi thần linh- mà nào chúng đâu phải thần linh, nhưng dân Ta đă tráo đổi vinh quang của ḿnh với đồ vô dụng[23]. Trời ơi, hăy rụng rời trước sự này, hăy rởn tóc, rất mực kinh hoàng- sấm của Yahweh, v́ dân Ta đă làm hai điều bất hảo: chúng đă bỏ Ta mạch nước hằng sống, để đào cho ḿnh bể nước, nhưng các bể ṛ không chứa được nước” (Yer. 2, 11-13).

            Tội thờ quấy, được tiên tri Hôsêa ví như tội ngoại t́nh, và tiên tri Mikê coi như hành vi làm điếm tế thần ngoại lai (Mik. 1, 4-7; Am.3, 14tt; 4, 4; 5, 4.21; Ys. 1, 10.21tt; Hos. 4, 15tt; 8, 5tt; 9, 15; 11). Bất công cũng được các tiên tri phản đối mạnh (Mik. 2,1tt; 2, 8; 6, 11tt; 3, 1- 4, 9; Am. 4, 1tt; 5, 11; 8, 4tt; Ys.10, 1tt; Hos. 4, 1tt; 7, 1-7; 6, 7).

            Thiên Chúa đă mặc khải qua biến cố xuất hành và giao ước Sinai, Ngài là Thiên Chúa quyền năng, là Đấng can thiệp vào ḍng lịch sử, Đấng giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, Đấng bảo trợ dân, là Thiên Chúa của dân Israel, Đấng làm dân Israel thành dân tư tế của Thiên Chúa, Đấng kư kết giao ước với dân Israel, Đấng biến dân Israel thành sở hữu của Ngài.

            Thiên Chúa, trong thời đại các thẩm phán, các vua và các tiên tri, tỏ cho thấy Ngài là Thiên Chúa trung thành với giao ước. Dù dân không giữ giao ước, dù dân phản bội bất trung, th́ Thiên Chúa vẫn trung thành; Ngài không bỏ giao ước dù dân đă không tuân giữ. Hơn nữa, Ngài là người bảo vệ giao ước, giúp dân tuân giữ giao ước; Ngài đă dùng những phương tiện khác nhau để giúp dân trung thành với giao ước, trung thành với Ngài, chẳng hạn như cơ cấu vương quyền, cơ cấu tư tế và các tiên tri; và nếu dân vẫn cứng ḷng, Ngài cho những tai hoạ đến để cảnh cáo dân, nhất là bằng biến cố lưu đày. Khi những cơ cấu vương quyền và tư tế, làm dân bê trễ không giữ giao ước, th́ Ngài băi bỏ những cơ cấu đó, thậm chí cả ḥm bia, đền thờ.

            Thiên Chúa được thấy trong giai đoạn này, là Đấng yêu thương dân Israel vô cùng, và Người không bao giờ nở bỏ dân:

“Mẹ nào lại quên con đẻ của ḿnh? cạn ḷng thương đối với con dạ nó không? cho dù chúng quên được nữa, th́ phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi (Ys. 49, 15)”.

“Làm sao Ta nỡ bỏ ngươi hỡi Ephraim, hay thí hẳn ngươi đi, hỡi Israel! làm sao ta nỡ bỏ ngươi như Adma, cho ngươi hóa tựa Xơboim? ḷng ta đảo lộn trong Ta, và mối chạnh thương sôi réo cả lên” (Hos. 11, 8).

Thiên Chúa là Thiên Chúa siêu việt, Ngài không suy nghĩ và hành động như người phàm, Ngài không cư xử với Ta như Ta đáng tội: “Như trời cao hơn đất thế nào, th́ tư tưởng Ta cũng vượt quá tư tưởng các ngươi” (Ys. 55, 9), “V́ Ta là Chúa, chứ không phải người phàm” (Hos. 11, 9).

ii. Tương quan giữa con người và Thiên Chúa

            Israel được gọi được chọn, được yêu thương cưng chiều, là để thành bí tích cho mọi dân mọi nước, nhằm giúp con người nhận biết Yahweh là Thiên Chúa, là Đấng yêu thương tất cả mọi người.

            Con người chỉ là tạo vật; đối với Thiên Chúa, con người như đất sét với người thợ gốm (Ys. 45, 9tt). Con người, là tạo vật được Yahweh Thiên Chúa yêu thương rất mực, đặc biệt con người đây lại là dân Israel. Nhưng con người, và đại biểu là con dân Israel, thật cứng ḷng cứng cổ, luôn bất trung cùng Thiên Chúa, luôn phản bội Ngài, phản bội giao ước.

            Tương quan giữa con người và Thiên Chúa cũng là tương quan giữa dân Israel và Yahweh. Tương quan này được diễn tả qua một số h́nh ảnh!

·        Tương quan “cha con”! Đây không phải là tương quan tự nhiên theo nghĩa b́nh thường. Israel không là con “theo bản tính” (phusis) nhưng là con “được thừa nhận”. Đây là tương quan t́nh yêu, ḷng sủng mộ, vâng phục.

·        Tương quan “chồng vợ”! Tương quan này nhấn mạnh tính nhưng không khởi đầu của Yahweh, v́ trong Cựu Ước, chồng thường chọn vợ. Tương quan giữa Yahweh và Israel là tương quan t́nh yêu; bất trung là phản bội chống lại Yahweh. Tương quan này được Hôsêa và Yêrêmia diễn tả cách đặc biệt.

·        Tương quan “chủ chiên đàn cừu”. Tương quan này cho thấy Yahweh là người bảo vệ. Đàn cừu tín thác vào người chăn, đi theo người chăn và sẽ được no thỏa! Tiên tri Ezekiel dùng h́nh ảnh này.

·        Tương quan “họ hàng”. Yahweh được gọi là người báo thù, người chuộc (Gôel) của Israel. Trong phong tục Do Thái, người thân phải trả thù máu hoặc phải bảo vệ tài sản người thân ḿnh. Yahweh không chỉ xuất hiện như người bảo vệ, nhưng c̣n như người thân của Israel.

·        Tương quan “vua tôi”. Tương quan này hàm chứa trong quan niệm Thiên Chúa cai trị dân Ngài, trong kiểu gọi Yahweh là Chúa (Adonai, Kurios) trong giao ước[24]. Theo truyền thống chấp nhận Israel có vương quyền, vua cai trị dân thay Thiên Chúa[25].

iii. Mặc khải chưa hoàn tất

            Một nét đặc trưng của mặc khải thời các tiên tri, cho thấy mặc khải chưa hoàn tất.

            Mọi tầng lớp dân đều ngóng chờ một vị thiên sai. Vị này có thể là một tiên tri lớn như Môsê (Đnl. 18, 18), hoặc một vị vua công chính mà trong nước của Ngài sẽ có b́nh an hạnh phúc (Ys. 7; 9; 11), hoặc một mục tử (tư tế) luôn đi t́m con chiên bị lạc, băng bó con chiên bị thương, dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong lành (Ez. 34), hoặc là người tôi tớ Yahweh chịu khổ nạn để công chính hóa nhiều người, để chuộc tội cho dân (Ys. 42, 1-9; 49, 1-6; 50, 4-9; 52, 13- 53, 12), hoặc con người từ trời xuống (Dn. 7).

            Yêrêmya cũng loan báo một giao ước mới: “Sẽ tới ngày Ta sẽ lập một giao ước mới với nhà Israel và nhà Yuđa, không phải như giao ước ta đă kư kết với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay chúng để đem chúng ra khỏi Ai cập... Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng, và Ta sẽ viết trên trái tim chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, c̣n chúng, chúng sẽ là dân của Ta ...” (Yer. 31, 32-33; 32, 39-40).

            Cũng vào thời lưu đày, tiên tri Ezekiel đề cập đến thần khí mới, thần khí mà Thiên Chúa ban cho, sẽ làm con người được sống. “Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trên các ngươi. Và các ngươi sẽ được sống” (Ez. 37, 14.5-6). “Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm ḷng mới. Bên trong các ngươi, ta sẽ ban một thần khí mới, Ta sẽ cất tấm ḷng đá khỏi thịt ḿnh các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm ḷng thịt. Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống Thần Khí của Ta. Và các ngươi sẽ giữ các phán quyết của Ta, và sẽ thi hành. Các ngươi sẽ lập cư trên đất Ta đă ban cho cha ông các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. C̣n Ta, ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Ez. 36, 26-28).

6. Khôn Ngoan

            Như luật, tiên tri, là hiện tượng chung của cả vùng lân cận của Dothái, văn chương khôn ngoan và hiền nhân cũng vậy[26]. Văn chương khôn ngoan xuất hiện vào thiên niên kỷ thứ hai nơi những dân tộc lân cận của Dothái; c̣n với dân tộc Do Thái, văn chương khôn ngoan chỉ thịnh hành sau thời lưu đày và là phương tiện mặc khải[27].

a. Khôn ngoan- nguồn hạnh phúc

            Khôn ngoan đem lại cho con người trường sinh bất tử, và cho con người t́m thấy niềm vui. “Nhờ khôn ngoan, tôi được trường sinh bất tử, để lại cho hậu thế lưu niệm muôn đời không phai... v́ với khôn ngoan, không có ǵ là cay đắng khó chịu, chung sống với khôn ngoan, không có đau phiền, trái lại chỉ có hoan lạc mừng vui” (Kng. 8, 13.16).

            Khổ đau, cực nhọc, là do con người bỏ đường khôn ngoan. “Bởi đâu, hỡi Israel, bởi đâu hỡi Israel, bởi đâu mà ngươi lại ở trên đất kẻ thù, già đi trên đất xa lạ? là v́ ngươi bỏ mạch khôn ngoan” (Bar. 3, 10.12).

            Khôn ngoan được nhân cách hóa như một người đi rao giảng ở ngă ba đường hoặc nơi phố chợ (Cn. 1, 20tt; 8-9), và ai nghe khôn ngoan sẽ được chúc phúc, ai t́m khôn ngoan sẽ được sự sống (Cn. 8, 34.35a), v́ khôn ngoan sẽ hướng dẫn họ trong mọi hành vi, và ǵn giữ họ (Kng. 9, 11).

b. Học biết khôn ngoan

            Người ta có thể học biết khôn ngoan[28].

            Đầu mối của khôn ngoan (Hc. 1, 14), gốc rễ của khôn ngoan (Hc.1, 20), khôn ngoan viên măn (Hc.1, 16), là kính sợ Chúa.

            Để được khôn ngoan, phải kính sợ Chúa, và phải sống như người con thảo (Tb. 4, 3-4; Cn. 6, 20; 23, 20; 28, 24;19, 26; 20, 20), như người chồng tốt (Cn. 5, 1-23; 6, 20-7, 27; 23, 27-28), như người cha tốt (Cn. 29, 13-21), như một công dân tốt (Cn. 25, 8-10; 24, 21-22). Phải biết vâng theo lẽ phải (Cn. 25, 6-7), phải biết nghe lời giáo huấn (Cn. 1, 8-9; 3, 1; 4,1 3.20; 5, 1; 12, 1; 13, 1v.v.) phải biết nhận sự sửa phạt (Cn. 13, 24; 22, 15; 23, 13.14), phải có tư cách đúng đắn (Cn. 23, 29-35), phải sống công b́nh (Cn. 16, 8-11; 23, 10.11; 22, 23.28).

            Con người có thể trở nên khôn ngoan, có thể trở thành hiền nhân; nhưng con người không làm chủ khôn ngoan; con người không sở hữu khôn ngoan như một vật tự nhiên.

c. Nguồn gốc khôn ngoan

            Khôn ngoan không phát sinh do con người, nhưng từ Thiên Chúa. “Khôn ngoan nhất nhất đều do tự Chúa, và từ đời đời hằng ở với Người”(Hc. 1, 1).

            “Ta (khôn ngoan) đă xuất tự miệng Đấng tối cao, như áng mây Ta đă bao trùm trái đất” (Hc. 24, 3). “Yahweh đă dựng nên Ta, tiên thường của công tŕnh Người. “Từ trước mọi thời, ngay lúc khởi nguyên, Người đă dựng nên Ta, và cho đến đời đời, Danh Ta sẽ không phai (Hc. 24, 9). Từ đời đời, Ta đă được tấn phong, ngay từ đầu, trước khi đất khai sinh” (Cn. 8, 22-23).

            Khôn ngoan có những phẩm tính của Thiên Chúa: là phản ánh của ánh sáng, là hào quang phát tự vinh quang Thiên Chúa, là Thần Khí thông minh thánh thiện. “Khôn ngoan là phản ánh sự sáng hằng có, là gương không t́ ố rọi lại hoạt động của Thiên Chúa, là h́nh ảnh của Thiên Chúa toàn thiện” (Kng. 7, 26); “Khôn ngoan là khí thiêng xuất từ quyền phép Thiên Chúa, là hào quang tinh ṛng tự vinh quang Đấng toàn năng phát hiện, v́ thế không ǵ nhơ uế lọt vào được trong” (Kng. 7, 25). “Có trong khôn ngoan, Thần Khí thông minh thánh thiện, đơn độc, đa phức, tinh tế, linh động, tinh ṛng, vô t́ tích, trong suốt, bất khả xâm phạm.” (Kng. 7, 22). V́ vậy, con người phải nài xin Thiên Chúa ban khôn ngoan của Ngài cho con người (Cn. 2, 6; Hc.1, 8-10; Kng. 9, 4; Job. 28, 12-27).

            Luật qua tư tế, lời qua tiên tri, khôn ngoan qua hiền nhân, đều có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Tất cả là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, giúp con người nhận ra t́nh yêu củaThiên Chúa, giúp con người sống tốt để trở nên con Thiên Chúa. Các tác giả sách thánh vào thời văn chương khôn ngoan, đă dung ḥa được thao thức t́m kiếm khôn ngoan của người thời đại, với truyền thống lề luật và lời Thiên Chúa. Sách Huấn Ca đă đồng nhất ba thực tại trên với nhau: “Nguồn mạch khôn ngoan chính là lời Thiên Chúa trên cao, và đường lối của khôn ngoan là lịnh truyền hằng có” (Hc. 1, 5). Sự khôn ngoan đích thực đối với người Do Thái, và sự khôn ngoan này vượt trên các khôn ngoan của những dân tộc lân cận, là kính sợ Thiên Chúa và giữ lệnh truyền (lề luật, lời) của Ngài. Chính điều này làm cho họ trở thành người khôn ngoan thực sự, và được trường sinh bất tử. Luật Thiên Chúa ban trên núi Sinai vẫn là điều cốt cán với người Do Thái.

            Luật, tiên tri và khôn ngoan, là những thực tại xuất hiện không chỉ riêng với người Do Thái, nhưng cũng chung cho các dân tộc vùng cận đông. Điểm đặc biệt của người Do Thái, là nhận ra luật Torah như hồng ân Thiên Chúa ban cho những người Ngài thương yêu tuyển chọn; tiếp đến với đặc sủng tiên tri, dân Do Thái xác tín rằng Lời Thiên Chúa được ban cho con người, để dẫn dắt con người đi trên đường công chính; và bây giờ với văn chương khôn ngoan đang thịnh hành ở phương đông, người Do Thái nhận ra rằng khôn ngoan là hồng ân Thiên Chúa trao ban cho con người.

            Trước khi bước sang t́m hiểu mặc khải trong Tân Ước, tóm lại sơ qua cái nh́n của Cựu Ước xét như mặc khải của Thiên Chúa cho con người:

Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật và con người;

đau khổ và sự chết là hậu quả của tội chống lại Thiên Chúa; hạnh phúc đích thực của con người tùy thuộc tương giao của con người đối với Thiên Chúa;

Thiên Chúa đă yêu thương và tuyển chọn Abraham: chính Ngài đă kêu gọi và lập giao ước với Abraham, trở thành Thiên Chúa của Abraham, Ysaac, Yacob;

Thiên Chúa đă giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, Ngài trở thành Đấng giải phóng, Đấng bảo trợ, Đấng cứu chuộc dân;

Thiên Chúa đă lập giao ước với dân Israel trên núi Sinai, đă ban lề luật cho dân, đă làm dân Israel thành dân riêng của Ngài, đă cho dân Israel thành dân tư tế, trở thành dân trung gian giữa Thiên Chúa và các dân khác, đă làm dân Israel thành dân qua đó các dân tộc khác được chúc phúc;

Thiên Chúa muôn đời thành tín. Cho dù dân Israel có phản bội, th́ Ngài vẫn là Thiên Chúa trung thành; Ngài ban các thẩm phán để cứu dân, Ngài ban các tiên tri để giúp dân trở lại với Ngài, để dân tuân giữ giao ước của Ngài với dân;

Con người và dân Israel luôn luôn phản bội, nhưng qua đó Thiên Chúa cho thấy Ngài là Thiên Chúa giàu ḷng thương xót và nhân từ, Ngài luôn tha thứ cho con người;

Thiên Chúa là Đấng ban khôn ngoan đích thực cho con người; sự khôn ngoan đích thực không chỉ nằm trên b́nh diện tri thức ngọn nguồn sự vật, nhưng chủ yếu hệ tại cuộc sống; sự khôn ngoan đích thực là kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ lề luật giao ước.


 

B. TÂN ƯỚC

            Tất cả Tân Ước đều xây nền trên biến cố tử nạn phục sinh của Đức Yêsu Nazareth. Đức tin của mọi kitô hữu cũng đặt nền tảng trên biến cố tử nạn phục sinh của đức Yêsu.

1. Tin Mừng nhất lăm

            Chính nhờ biến cố tử nạn phục sinh, mà các tông đồ nhận ra đức Yêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Các tông đồ là những chứng nhân về biến cố tử nạn phục sinh của đức Yêsu; các ngài đă đi rao giảng tin mừng Đức Yêsu Phục Sinh: đức Yêsu đă phục sinh từ cơi chết, Ngài là Kitô và là Chúa.

            Các tông đồ đă thấy đức Yêsu Phục Sinh. Các ngài đă làm chứng về những điều tai nghe mắt thấy “đức Yêsu Phục Sinh”. Các kitô hữu đă tin vào Đức Yêsu Phục Sinh qua lời rao giảng, qua lời chứng của các tông đồ. Đức tin của các tông đồ và của các kitô hữu là một, thời xưa cũng như thời nay.

            Bốn Tin Mừng mang tên các tông đồ, là đức tin của các tông đồ, và cũng là đức tin của cộng đoàn kitô hữu tiên khởi. Các tín hữu tin vào đức Yêsu Phục Sinh qua lời rao giảng của các tông đồ. Họ tụ họp nhau để nghe các tông đồ kể về đức Yêsu, về cuộc đời và những điều Ngài giảng dạy. Một số tín hữu có học thức ghi lại những ǵ các tông đồ rao giảng hoặc kể về Đức Yêsu. Khi phần lớn các tông đồ chết[29], các tín hữu tiên khởi sợ rằng những điều các tông đồ rao giảng và làm chứng bị mai một theo thời gian, nên một số người đă thâu lượm những lời kể của các tông đồ về Đức Yêsu, cũng như những lời giáo huấn của đức Yêsu mà các tông đồ đă thuật lại, và san định thành sách. Đó là lịch sử h́nh thành các tin mừng, phản ánh đức tin của các kitô hữu sơ khai cũng như đức tin của các tông đồ.

a. Đức Yêsu Nazareth phục sinh

            Biến cố tử nạn phục sinh của Đức Yêsu Nazareth đều được bốn tin mừng ghi lại qua tŕnh thuật thương khó, mồ trống và những lần hiện ra.

i. Đức Yêsu đă chết

            Đức Yêsu đă bị bắt vào ban đêm tại vườn dầu (Mc. 14, 32-52; Mt. 26, 36-56; Lc. 22, 40-53; Ga. 18, 1-11). Ngài được dẫn tới dinh Hanna, là nhạc phụ của thượng tế Caipha (Ga. 18, 13); sau đó Ngài được điệu tới dinh thượng tế Caipha (Ga. 18, 24) và bị kết án tử ở ṭa Công Nghị Do Thái (Mc. 14, 53-65; Mt. 26, 57-68; Lc. 22, 54tt). Sáng đến, Ngài được điệu đến dinh tổng trấn Philatô (Ga. 18, 28; Mc.15, 1; Lc. 22, 66; Mt. 27, 1-2); sau đó Ngài được chuyển đến ṭa của Hêrôđê (Lc. 23, 8-12); rồi Ngài lại được chuyển về cho Philatô (Ga. 18, 38tt; Mc. 15, 6-15; Mt. 27, 15-26; Lc. 23, 13-25). Ngài bị kết án tử ở ṭa án Roma bằng sự ưng thuận của Philatô, v́ ṭa công nghị Do Thái không có quyền kết án tử h́nh.

            Ở trước ṭa công nghị người Do Thái, Đức Yêsu bị kết án tử h́nh v́ tội phạm thượng (Mc. 14, 62-64 và //); nhưng ở trước ṭa án Roma, Đức Yêsu bị cáo với tội phản loạn xưng vua (Ga. 18, 12 và //) và bị kết án tử với tội danh này. Đức Yêsu vác thập giá (Ga. 19, 17-24; Mc. 15, 21-32; Mt. 27, 32-44), bị đóng đinh thập giá. Ngài đă chết trên thập giá và được mai táng bởi Yuse Arimathia (Mc. 15, 42tt và //).

ii. Mồ trống và những lần hiện ra

            Đức Yêsu đă chết và được mai táng vào ngày thứ sáu; ngày thứ bảy là ngày sabat của người Do Thái nên không có ai ra thăm mộ Ngài; vào sớm ngày thứ nhất trong tuần[30], các chị phụ nữ ra thăm mộ và thấy mồ trống, không thấy xác Đức Yêsu đâu (Mc. 16, 1-8; Mt. 28, 1-8; Lc. 24, 1-12; Ga. 20, 1-10).

            Đức Yêsu Nazareth chết trên thập tự và mộ trống, là sự kiện đă được nhiều người xác nhận, nghĩa là, đây là những sự kiện đă được kiểm chứng.

            Đức Yêsu Phục Sinh không hiện ra cho tất cả mọi người, nhưng Ngài chỉ hiện ra cho một số người. Ngài đă hiện ra cho các tông đồ ngay chiều ngày thứ nhất trong tuần, nhưng lần này vắng mặt Thomas (Ga. 20, 19-25). Không thể tin được chuyện người chết sống lại, tông đồ Thomas đă nói: “Nếu nơi tay Ngài, tôi không thấy các dấu đinh, và tra tay tôi vào lỗ đanh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin” (Ga. 20, 25). Tám ngày sau, tức cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu lại hiện ra cho các tông đồ, và lần này có cả Thomas nữa, Đức Yêsu Phục Sinh đă mời Thomas làm điều ông muốn để kiểm chứng rằng Ngài đă sống lại, nhưng Thomas đă thốt lên lời tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi” (Ga. 20, 28).

            Theo tin mừng Yoan, Đức Yêsu Phục Sinh c̣n hiện ra và chuẩn bị bữa sáng cho các tông đồ sau khi các ngài đi đánh cá ở hồ Tibêria (Ga. 21, 1 tt). Theo tin mừng Luca, Đức Yêsu Phục Sinh đă hiện ra cho hai môn đệ trên đường Emmau, Ngài cũng hiện ra trước đó cho Simôn, và cho các tông đồ, cùng ăn trước mặt họ (Lc. 24, 1 tt). Theo tin mừng Matthêu, Đức Yêsu đă hiện ra cho nhóm phụ nữ (Mt. 28, 9tt và //); và Ngài cũng đă hiện ra cho các tông đồ, cùng dạy họ đi rao giảng và làm phép rửa nhân danh Ngài (Mt. 28, 16-20). Với mệnh lệnh đi rao giảng thâu nạp môn đồ khắp muôn dân này, các tông đồ đă trở thành nhân chứng của đức Yêsu Phục Sinh, và tin mừng “Đức Yêsu phục sinh” đă loan truyền khắp thiên hạ.

iii. Lời chứng

            Tử nạn phục sinh của Đức Yêsu là sự kiện, nhưng là sự kiện đức tin, biến cố đức tin. Đức Yêsu Phục Sinh không hiện ra cho tất cả mọi người, thế nên để tin Đức Yêsu phục sinh, người ta cần ân sủng của Thiên Chúa, cần tác động của Chúa Thánh Thần để tin vào lời rao giảng của các tông đồ và những người kế vị các ngài. Mầu nhiệm cứu độ được thực hiện qua trung gian con người với ân sủng của Thánh Thần.

            Đức tin của kitô hữu hiện thời, cũng là đức tin của các kitô hữu tiên khởi, và cũng là đức tin của các tông đồ. Có thể nói, đức tin của các tông đồ được diễn tả qua năm bài giảng được ghi lại trong sách Công Vụ các tông đồ:

·        Lời rao giảng của Phêrô sau khi nhận lănh Thánh Thần trong ngày lễ ngũ tuần (Cv. 2, 14-39);

·        Lời rao giảng của Phêrô ở đền thờ sau khi chữa lành người què ở đền thờ (Cv. 3,12-26);

·        Lời rao giảng của Phêrô trước công nghị Do Thái sau khi Ngài chữa lành người què và bị bắt (Cv. 4, 9-12);

·        Lời giảng của Phêrô trước công nghị sau khi được thiên thần giải phóng khỏi tù để tiếp tục rao giảng trong đền thờ (Cv. 5, 29-32);

·        Lời rao giảng của Phêrô tại nhà Côrnêliô (Cv.10, 34-43).

            Trong sách Công vụ tông đồ, và đặc biệt trong năm bài giảng, luôn luôn thấy lặp đi lặp lại khẳng định: các tông đồ là những chứng nhân phục sinh của Đức Yêsu Kitô (Cv. 1, 8. 22; 2, 32; 3, 15; 5, 32;10, 39. 41; 13, 31 v.v.):

·        Cv. 1, 8: Các ngươi là chứng nhân cho Ta ở Yêrusalem và mút cùng bờ cơi trái đất.

·        Cv. 2, 32: Thiên Chúa đă phục sinh Đức Yêsu. Chúng tôi là chứng nhân của những điều này, chúng tôi và Thánh Thần.

·        Cv. 4, 20: Chúng tôi không thể không nói về những điều đă thấy và đă nghe.

·        Cv. 10, 39: chúng tôi là chứng nhân về những điều Ngài đă làm trong vùng người Do Thái và ở Giêrusalem.

Là tông đồ, nghĩa là, chứng nhân của Đức Yêsu Phục Sinh; v́ vậy tiêu chuẩn để chọn một người thay thế Yuđa Iscariot, phải là người đă đồng hành với các tông đồ suốt thời gian mà Đức Yêsu đă ra vào giữa các Ngài (Cv. 1, 21-22).

            Bây giờ xét kỹ một bài rao giảng của Phêrô để thấy rơ trọng tâm lời rao giảng của các tông đồ, chẳng hạn Cv.2, 14-40:

·        Cv.2, 14-21: lời kêu gọi dân chúng, lư do;

·        Cv.2, 22-24: nội dung chính của lời rao giảng “Đức Yêsu, Đấng anh em đă nộp và giết đi, Thiên Chúa đă làm cho Ngài sống lại”;

·        Cv.2, 25-28: trích dẫn Tv.16 để minh chứng;

·        Cv.2, 29-31: chú giải thánh vịnh hướng về đức Yêsu;

·        Cv.2, 32-33: trở lại lời rao giảng và làm rơ hơn;

·        Cv.2, 34-35: trích dẫn Tv.110 để minh chứng khẳng định;

·        Cv.2, 36: trở lại lời rao giảng, kêu gọi dân chúng tin vào sự kiện phục sinh của Đức Yêsu “Thiên Chúa đă đặt làm Chúa và làm Kitô, Đức Yêsu mà các người đă đóng đinh kia” (Cv. 2, 32).

            Không phải chỉ một ḿnh Phêrô làm chứng, nhưng tất cả các tông đồ, tập thể những người đă đi theo Đức Yêsu, những người đă sống với Ngài, đă chứng kiến Ngài chịu khổ h́nh, và cũng là những người đă thấy và sống với Đức Yêsu Phục Sinh.

            Đức Yêsu Phục Sinh đó, “Thiên Chúa đă đặt làm Chúa và làm Kitô”, Người mà các ông đă đóng đinh (Cv. 2, 36), Ngài “được nhắc lên bên hữu Thiên Chúa” (Cv. 2, 33). Đây là cách diễn tả hữu h́nh một thực tại vô h́nh: “ngồi bên hữu Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng! Ngồi bên hữu ai, là ngang hàng với người ấy. Đức Yêsu Phục Sinh được siêu tôn trên tất cả, để được ngồi bên hữu Thiên Chúa.

b. Đức Yêsu là Thiên Chúa

            Khi Đức Yêsu Nazarét c̣n sống, Ngài đă được coi là một tiên tri, là đấng Thiên Sai[31], là con Thiên Chúa[32]; c̣n với biến cố phục sinh, các tông đồ đă nhận ra Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.

i. Đức Yêsu là tiên tri

            Đức Yêsu bắt đầu sứ mạng của Ngài với cách thức của một tiên tri. Như Yona rao giảng thống hối, và như Yoan tẩy giả, Đức Yêsu bắt đầu rao giảng: “hăy thống hối và tin vào tin mừng, v́ Nước Trời đă gần đến” (Mc.1, 14-15; Mt. 4, 17).

            Trong hội đường tại Nazarét, Đức Yêsu đă dùng bản văn trong sách đệ nhị Ysaya nói về vị thiên sai tiên tri để áp dụng cho chính ḿnh: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đă sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó” (Lc.4, 18-19 cf. Ys. 61, 1 tt). Dân thành Naim, sau khi thấy Đức Yêsu làm cho con trai bà góa sống lại, đă đồng thanh nói “một tiên tri cao cả đă xuất hiện giữa chúng ta” (Lc.7, 16). Các tông đồ cũng xác nhận sự kiện dân chúng cho rằng Đức Yêsu là một tiên tri (Mt. 16, 14). Biệt phái và tư tế không dám bắt Ngài khi Ngài đang rao giảng, v́ dân chúng coi Ngài là một tiên tri (Mt. 21, 46). Hai môn đệ Emmau cho rằng Đức Yêsu là vị tiên tri quyền năng trong lời nói và hành động (Lc. 24, 19). Dân chúng cũng cho rằng Đức Yêsu là vị tiên tri phải đến mà mọi người đợi trông (Mt. 21, 10-11 cf. Đnl. 18, 18).

            Tuy Đức Yêsu không tự nhận ḿnh là một tiên tri, nhưng Ngài tiên đoán số phận của Ngài là số phận của một tiên tri: bị khinh khi nơi quê hương xứ sở (Mt. 13, 57) và bị chết ở Yêrusalem (Lc. 13, 33).

            Xét như người mặc khải, Ngài lớn hơn Yona (Mt. 12, 40), lớn hơn Môsê và Êlia (cf. Mc. 9, 2-10; Mt. 17, 1-13; Lc. 9, 28-36), lớn hơn David (Mc. 12, 35-37 và //), và lớn hơn Yoan tiền hô[33] (Lc. 7, 18-23 và //). Đức Yêsu là Đấng kiện toàn lề luật và các tiên tri (Mt. 5, 17); Ngài không nói “Yahweh phán...” như các tiên tri đă thường nói, nhưng Ngài lại nói: “c̣n ta, Ta bảo các ngươi” (Mt. 5, 22. 28. 32); “Ngài giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (Mc.1, 27).

ii. Đức Yêsu là Kitô

            Kitô (CristoV) hay Massiah[34], có nghĩa là “được xức dầu”. Trong truyền thống Do Thái, người “được xức dầu” là:

·        vua, được Thiên Chúa trao ban sứ mạng (1S. 10, 1tt; 16, 1tt; 1V. 1, 39; 2V. 9, 6; 11, 12),

·        thượng tế (Xh. 29, 7. 29; Lv. 4, 3. 5. 16; 8, 12 cf. Za. 4, 14) hoặc các tư tế (Xh. 30, 30; 28, 41; 40, 15; Lv. 7, 36; 10, 7; Ds. 3, 3),

·        các tiên tri (Ys. 61, 1tt).

Các vị vua thường được các tư tế hay tiên tri xức dầu (cf. 1S. 16, 13; 1V. 1, 39; 2V. 9, 6). Aharon và các con ông, được Môsê xức dầu tấn phong làm tư tế (Xh. 30, 30). Các tiên tri, những người của Thần Khí (Hos. 9, 7), nên việc xức dầu của tiên tri cũng là việc của Thần Khí (Ys. 61, 1tt).

            Thời đức Yêsu, người Do Thái sống dưới ách đô hộ của người Roma, nên họ vẫn mong Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai Vua tới để giải phóng họ khỏi ách thống trị của người Roma. Niềm khao khát mong muốn có Đấng Thiên Sai Vua rất mạnh đối với người Do Thái trong thời điểm này. Điều này có thể được thấy qua việc Yoan tẩy giả sai người thỉnh vấn xem Đức Yêsu có phải là Đấng phải đến không (Lc. 7, 19-20), và qua biến cố dân chúng muốn tôn đức Yêsu làm vua sau khi Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Ga. 6, 15).

            Các tông đồ cũng cho rằng Đức Yêsu là Kitô[35]. Đức Yêsu chấp nhận đúng là như vậy, nhưng Ngài không muốn cho dân chúng biết (Mt. 16, 20), v́ họ thường hiểu Kitô theo nghĩa Kitô Vua chính trị, Đấng đến để giải phóng họ khỏi bị người Roma đô hộ.

            Dân chúng khi rước đức Yêsu vào thành Yêrusalem long trọng, là tiếp đón Ngài như một vị vua thiên sai (Mt. 21, 1-11). Ngài ngồi trên lưng lừa, theo như tiên tri Zacharia loan báo (Zac. 9, 9), để khẳng định tính vua thiên sai của Ngài, nhưng không như người ta mong đợi. Trước ṭa Philatô, chính đức Yêsu đă nhận “tôi là vua, chính v́ lẽ này mà tôi sinh ra... nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga. 18, 37. 36).

            Đức Yêsu là Kitô, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Giải Phóng; Ngài đến không phải để giải phóng con người khỏi ách nô lệ chính trị, nhưng để giải phóng con người khỏi tội, khỏi làm nô lệ ma quỷ; Ngài là vua, nhưng là vua trong ḷng mọi người.

iii. Đức Yêsu là Thiên Chúa

            Với biến cố phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ có cái nh́n mới về Đức Yêsu. Trước các ngài thấy Đức Yêsu là một tiên tri, là đấng Kitô; nhưng với biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, và những lần tiếp xúc với Ngài sau khi Ngài phục sinh, các tông đồ c̣n thấy cái ǵ hơn nữa. Các tông đồ đă nhớ lại những lời nói của Ngài, những việc Ngài đă làm, và đă nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo nghĩa rất đặc biệt.

            Từ ngữ “một Thiên Chúa ba ngôi vị” cũng như từ ngữ “Đức Yêsu đồng bản tính với Thiên Chúa”, là những phạm trù thần học có sau này; nhưng nội dung đức tin “Đức Yêsu là Thiên Chúa”, đă có nơi các tông đồ với kinh nghiệm gặp gỡ Đức Yêsu Phục Sinh.

            Chỉ có một ḿnh Thiên Chúa có thể tha tội; thế mà Đức Yêsu đă tha tội! Đức Yêsu phạm thượng hay Đức Yêsu là Thiên Chúa? Khi chữa lành người bất toại, Đức Yêsu nói “tội lỗi của con đă được tha” (Mc. 2, 5); và khi bị phản đối, Ngài nói “để các ông biết con người có quyền tha tội dưới đất- Ngài nói với người bất toại- Ta bảo ngươi, hăy chỗi dậy vác chơng mà về nhà” (Mc. 2, 9-11). Nếu Đức Yêsu phạm thượng, chắc chắn Ngài không thể làm phép lạ chữa lành người bất toại được. Đây cũng là lư luận của người mù từ thuở mới sinh (Ga. 9, 1tt); anh ta đă trả lời tương tự như thế khi người biệt phái và kư lục muốn anh ta nói rằng Đức Yêsu là người tội lỗi: “Điều này quả cũng lạ! Các ông lại không biết ông ấy tự đâu ra! ông ấy đă mở mắt cho tôi! chúng tôi biết Thiên Chúa không nhậm lời những hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa và làm theo ư Người, th́ Người nhậm lời kẻ ấy. Không đời nào thiên hạ đă nghe ai mở mắt đứa mù từ thuở mới sinh. Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến, th́ đă chẳng làm được ǵ” (Ga. 9, 30-33).

            Đức Yêsu, khi sinh thời, Ngài đă nói: “Ta và Cha là một”. “Người Do Thái lại vác đá ném Ngài v́... một lời phạm thượng! ông là người phàm mà dám cho ḿnh là Thiên Chúa” (Ga. 10, 30. 31. 33).

            Khi thẩm vấn Đức Yêsu trước công nghị Do Thái, vị Thượng Tế hỏi Đức Yêsu: “Ông là Đức Kitô Con Đấng đáng chúc tụng ư? Đức Yêsu đáp lại: Chính là tôi! và các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu quyền năng và đến với mây trời. Thượng tế mới xé toạc phẩm phục của ḿnh ra và nói: Nào c̣n cần ǵ đến nhân chứng nữa! Các người vừa nghe lời phạm thượng! Các ngài thấy sao? Họ đều quyết nghị Ngài can án chết” (Mc. 14, 61-64).

            “Con người ngự bên hữu quyền năng”, đây là lời nói cho thấy Đức Yêsu ư thức thân phận ḿnh, cao hơn mọi tạo vật, ngang hàng với Thiên Chúa quyền năng. Chính v́ vậy mà các người trong công nghị mới cho rằng Đức Yêsu phạm thượng, và đáng bị kết án tử h́nh.

            Với biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, lời Đức Yêsu đă nói khi sinh thời được bảo đảm là lời chân thực, được Thiên Chúa bảo đảm. V́ nếu Ngài nói lời gian dối, th́ Thiên Chúa đă chẳng phục sinh Ngài từ cơi chết; chính biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, làm các tông đồ nhận ra rằng, Đức Yêsu là Kitô, là Chúa, là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa theo nghĩa rất đặc biệt (tử hệ thần linh), là Thiên Chúa.

iv. Đức Yêsu là Con Thiên Chúa

            Tước hiệu “con Thiên Chúa” đă được dùng nhiều trong Cựu Ước. Nó không thiết yếu diễn tả tử hệ bản tính (nguồn gốc thần linh của người hay ngôi vị được gọi); nó có thể chỉ là tử hệ thừa nhận, là kết quả của việc tuyển chọn của Thiên Chúa đối với tạo vật trong một tương quan đặc biệt. Trong nghĩa này, tước hiệu “con Thiên Chúa” đă được gán cho các thiên thần (Job. 1, 6; Đnl. 32, 8), cho dân được tuyển chọn (Xh. 4, 22; Kng.18, 13; Đnl. 1, 31; 7, 6), cho các người Israel và những người công chính (Đnl. 14, 1; Hos. 2, 1 cf. Mt. 5, 9. 45), cho các vị thủ lănh (Tv. 82, 6), cho vị vua thiên sai (1 Ks. 17, 13; Tv. 2, 7; 89, 27).

            Như vậy, tước hiệu này không hàm chứa người được gọi mang thần tính. Trường hợp Đức Yêsu được gọi là “con Thiên Chúa”, cũng được hiểu như vậy. Không thể đ̣i hỏi từ ngữ “con Thiên Chúa” mà Satan gọi Đức Yêsu (Mt. 4, 3. 6), hay các thần ô uế (Mc. 3, 11; 5,7; Lc. 4, 41), hay của viên bách quản (Mc. 15, 39; Lc. 23, 47), hàm chứa chỉ Đức Yêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Và câu hỏi của thượng tế trước ṭa công nghị (Mt. 26, 3), cũng không vượt qua ư nghĩa thiên sai.

            Tuy vậy, tước hiệu “con Thiên Chúa” có thể được hiểu theo một nghĩa rất đặc biệt, như tử hệ theo bản chất. Đức Yêsu trong dụ ngôn những người làm vườn nho giết người, đă tự nhận ḿnh như người con thừa tự duy nhất (Mc. 12, 6; Mt. 21, 37); Đức Yêsu có Thiên Chúa là Cha cách rất đặc biệt (Ga. 20, 17; Mt. 7, 21; 10, 32-33; 11, 27; 12, 50); Ngài là con cưng, con chí ái (Mc. 1, 11 và //; Mt. 3,17; 17, 5); Ngài là người con duy nhất có chỗ đứng đặc biệt và có trách nhiệm đặc biệt: “không ai biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt. 11, 25-27). Động từ ginoskeinepiginoskein chỉ sự biết bằng kinh nghiệm và bằng đời sống thân thiết. Những lời trên, cộng thêm với những lời khác về phẩm tính thiên sai thần linh của Ngài, và tất cả được xác chuẩn bởi biến cố phục sinh, làm cho từ ngữ “con Thiên Chúa” nơi Đức Yêsu mang ư nghĩa chỉ tử hệ theo bản tính thần linh[36].

            Chỉ với ánh sáng của biến cố phục sinh, các tông đồ mới nhận ra ư nghĩa thâm sâu của tước hiệu “Con Thiên Chúa” nơi Đức Yêsu.

c. Đức Yêsu- Đấng mặc khải

            V́ là Lời nhập thể, Đức Yêsu đă mặc khải Thiên Chúa cách tuyệt vời. Không có Đức Yêsu, con người không thể biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.

i. Chúa Cha

            Với ánh sáng phục sinh, tông đồ Yoan đă nhớ lại lời Đức Yêsu đă nói với Nicôđêmô vào ban đêm: “Thiên Chúa đă yêu mến thế gian, đến đỗi đă ban Con Một của Ngài, ngỏ hầu mọi kẻ tin vào Ngài th́ không phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga. 3, 16).

            Trong lời cầu nguyện trước khi chịu khổ h́nh, Đức Yêsu đă nói: “sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa đích thực và độc nhất, và Đấng Cha sai đến, Yêsu Kitô” (Ga. 17, 3).

            Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa cứu độ con người. Ngài mặc khải Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga. 14, 9), “Không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt. 11, 25-27; Ga. 14, 6-7). Con người biết ǵ về Thiên Chúa, là biết qua đức Yêsu Kitô, và biết trong Đức Yêsu Kitô. Không có tri thức đích thực về Thiên Chúa nếu không qua Lời Thiên Chúa, và cụ thể là qua Đức Yêsu Kitô. Biết Thiên Chúa, là biết Ngài yêu thương con người vô cùng.

ii. Thánh Thần

            Đức Yêsu đă mặc khải Thánh Thần. Ngài nói về Thần Khí như một ngôi vị: “Và ai có nói lời nghịch đến Con Người, điều đó có thể tha thứ được cho người ấy; nhưng nếu ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ không tha thứ cho người đó, đời này cũng như đời sau” (Mt. 12, 32).

            Theo tin mừng Yoan, Đức Yêsu cho thấy chân tướng của Thánh Thần. Thánh Thần đến từ Cha, Ngài được gọi là Đấng Bầu Chữa khác (Ga. 14, 16). Đấng Bầu Chữa, là Thần Khí Sự Thật, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, cũng như Con Một của Thiên Chúa cũng được ban tặng con người (Ga. 14, 16; 3, 16), để ở với con người luôn măi. Thánh Thần, Đấng Bầu Chữa, được Cha sai đến nhân danh Đức Yêsu, với sứ mạng dạy và nhắc nhớ: “Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sẽ sai nhân danh Ta, Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc lại cho các ngươi mọi điều chính Ta đă nói” (Ga. 14, 26).

            Thánh Thần, được Đức Yêsu gởi tới, để làm chứng cho Đức Yêsu:

“Đấng Bầu chữa, khi Ngài đến, Ngài mà Ta sẽ từ nơi Cha gởi đến, Thần Khí Sự Thật, Đấng tự Cha mà xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta” (Ga. 15, 26);

“C̣n nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến cùng các ngươi” (Ga. 16, 7);

sứ mạng của Thánh Thần là “biện bác thế gian về tội, về sự công chính, về án xử” (Ga. 16, 8).

“Ngài sẽ dẫn các ngươi vào tất cả sự thật... Ngài sẽ làm Ta được vinh hiển... Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi” (Ga. 16, 13.14).

            Thánh Thần có cùng nguồn gốc với Đức Yêsu, cùng được Cha sai (Ga. 14, 26; 17, 3). Cả hai cùng được trao ban sứ mạng. Đức Yêsu luôn lấy ư Cha làm ư ḿnh, làm của ăn, và Ngài chu toàn công việc Cha giao phó (Mt. 26, 39 //; Mc. 14, 36; Ga. 4, 34; Ga. 17, 4). Thánh Thần được sai đến để ở với con người, để làm chứng cho Đức Yêsu (Ga. 14, 16; 15, 26).

            Sau biến cố phục sinh, Đức Yêsu Phục Sinh đă ban Thánh Thần cho các tông đồ (Ga. 20, 22), và khi tới thời đă định, Thánh Thần tỏ hiện quyền năng của Người trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv. 2, 1tt).

iii. Hội Thánh tiếp tục công tŕnh của Ngài

            Thiên Chúa là Đấng yêu mến thế gian, yêu mến con người đến cùng cực, Ngài muốn con người được sống đời đời. Chính để cứu độ con người, mà ngôi Lời đă nhập thể làm người, và để tiếp tục công tŕnh cứu độ, Ngài đă thiết lập Hội Thánh và Thánh Thần của Ngài vẫn luôn hoạt động nơi Hội Thánh trên trần gian. Đức Yêsu đă tuyển chọn nhóm mười hai, để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi rao giảng (Mc. 3,14). Giữa nhóm mười hai này, Phêrô được chọn như người đại diện: “C̣n tôi, tôi bảo ông: ông là Đá (Phêrô) và trên đá ấy tôi sẽ xây Hội Thánh của tôi, và cửa âm phủ sẽ không thắng được. Tôi sẽ trao cho ông ch́a khóa Nước Trời” (Mt. 16, 18-19).

            Simon Phêrô cũng được Đức Yêsu trao nhiệm vụ củng cố đức tin của anh em ḿnh: “Simon, Simon, này Satan đă đ̣i được các ông, để quày cho một trận như sàng lúa, nhưng tôi đă cầu xin cho ông, để ḷng tin của ông không bị sờn núng. Phần ông, khi trở lại rồi th́ lo cho anh em ông được vững mạnh” (Lc. 22, 31-32); và hơn nữa, Phêrô c̣n được trao trọng trách chăn cả chiên con lẫn chiên mẹ (Ga. 21, 15. 16.17).

            Về phần các tông đồ, Đức Yêsu nói: “Các ông là những người hằng bền đỗ ở với tôi giữa các cơn thử thách tôi phải chịu; và tôi cho các ông thông chia quyền Nước tôi, như Cha tôi đă thông ban cho tôi, các ông sẽ được ăn uống nơi bàn tiệc tôi, trong Nước của tôi, và các ông sẽ được ngự trên ngai mà đoán xét mười hai chi tộc Israel” (Lc. 22, 28-30).

            Sứ mạng của các tông đồ cũng được Đức Yêsu lập lại rơ ràng sau khi Ngài phục sinh: “Cũng như Cha đă sai Ta, Ta cũng sai các ngươi” (Ga. 20, 21). Theo tin mừng Matthêu, lần cuối cùng hiện ra với các tông đồ, Đức Yêsu cũng nói: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đă được trao ban cho Ta. Vậy các ngươi hăy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đă truyền cho các ngươi” (Mt. 28, 18-20).

            Theo tin mừng Yoan, trong những lời tâm huyết cuối cùng, Đức Yêsu đă nói về Đấng Bầu chữa, Thánh Thần sự thật. Đức Yêsu hứa sẽ sai Đấng Bầu Chữa đến khi Ngài ở bên Cha, và Thần Khí sự thật sẽ làm chứng cho Ngài (Ga. 15, 26). Đức Yêsu c̣n nói thêm: “Và các ngươi cũng sẽ làm chứng, v́ từ ban đầu các ngươi hằng ở với Ta” (Ga. 15, 27).

            Chỉ với biến cố Thánh Thần tỏ hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ và đại diện là Phêrô, mới can đảm đứng lên rao giảng làm chứng cho Đức Yêsu Phục Sinh (Cv. 2, 1tt). Phải chăng nếu Thánh Thần không được ban cho các tông đồ, các tông đồ đă không đủ can đảm và khôn ngoan làm chứng cho Đức Yêsu Phục Sinh; cũng có thể nói: chính Thánh Thần đă làm chứng về Đức Yêsu Phục sinh qua các tông đồ, qua những người kế vị các Ngài, và qua những kẻ tin vào Đức Yêsu Phục Sinh. Chính các tông đồ là những người ư thức về sứ mạng làm chứng của Thánh Thần ngang qua các ngài, nên Phêrô đă nói: “và chúng tôi đây xin làm chứng về các điều ấy cùng với Thánh Thần...(Cv. 5, 32)”.

            Lịch sử Hội Thánh, là lịch sử Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh nơi mỗi kẻ tin. Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy những tác động của Thánh Thần:

·        Chính Thần Khí tác động khiến các tông đồ rao giảng làm chứng cho Đức Yêsu Phục Sinh, cũng chính Thần Khí sai Barnaba và Saolô đi rao giảng (Cv. 13, 2. 4).

·        “Không ai có thể nói: Yêsu là Chúa, mà lại không bởi sức Thánh Thần” (1Cor. 12, 3).

            Thiên Chúa đă làm tất cả cho con người! Điều con người ngày xưa ao ước như sống lâu, tồn tại qua con cháu, hạnh phúc như sung túc về của cải và có đất sinh nhai[37], th́ ngày nay, tất cả những điều đó được hoàn tất nơi Đức Yêsu như bảo đảm để được sống đời đời, được sống hạnh phúc v́ có Thiên Chúa làm gia nghiệp, có Nước Trời là sở hữu vĩnh cửu (x. Mt. 5, 2. 4). Có Thiên Chúa là có tất cả, tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Yêsu Kitô là được sự sống đời đời, là được chính Thiên Chúa là gia nghiệp.

            Được yêu thương như vậy, con người phải có thái độ sống tương hợp: tin tưởng vào Thiên Chúa quan pḥng yêu thương (Mt. 6, 25-34). Tâm t́nh phải có đối với Thiên Chúa là tâm t́nh cha con, tâm t́nh của những người được yêu (Mt. 6, 5-15 và //). Thái độ đối với anh em: phải yêu thương nhau như Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta (Mt. 5, 38-48), đừng thù hận, hăy ăn chay và bố thí (Mt. 6, 1-4; 6, 16-21), đừng xét đoán (Mt. 7, 1-5). Thái độ đối với của cải: xem nó chỉ là phương tiện, không được coi tiền của như ông chủ (Mt. 6, 24. 19-21).


 

2. Theo Phaolô

 

HOME    THẦN HỌC    MẶC KHẢI        MK1       MK2       MK3       MK4       MK5       MK6       MK7

 

Chúc bạn an vui hạnh phúc.

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

[email protected]

 



[1] Về các nổi khổ đau của dân con Israel, xem thêm Xh. 1; 2, 23-25; 3, 9

[2] Như thấy trong những tŕnh thuật tiếp theo, dân con Israel liên tục bất tuân lệnh Chúa và luôn càm ràm than trách Yahweh.

[3] Có lần Thiên Chúa nổi nóng với Môsê (Xh. 4, 14); và nhiều lần Môsê t́m cách thoái thác sứ mạng (Xh. 3, 11; 4, 1. 10; 4, 13; 5, 22tt)

[4] Yahweh phán với Môsê: Khi ngươi trẩy đi để về Ai cập, ngươi hăy nh́n tỏ là các điềm thiêng Ta sẽ đặt tay ngươi th́ ngươi sẽ làm trước mặt Pharaô.

[5] Nhưng Ta sẽ làm cho nó cứng ḷng và nó sẽ không buông thả dân đâu. Bấy giờ ngươi sẽ nói với Pharaô “Yahweh phán rằng: con đầu ḷng của Ta là Israel nên Ta đă nói với ngươi: Hăy buông thả cho con Ta đi để nó phụng thờ Ta! Nhưng ngươi đă khước từ không chịu thả ra, th́ này phần Ta, Ta sẽ giết chết con đầu ḷng của ngươi” (Xh. 4, 19. 21-23).

[6] Cái chết thể xác của các con đầu ḷng người Ai Cập có thể là điều gây cái tốt nơi Pharaô và con dân Ai cập: v́ họ có thể nhận ra Yahweh và thống hối, quay trở về với Người, không c̣n bất tuân lệnh Người nữa. Trong cái nh́n của chúng ta, cái chết thể xác không là điều ác tuyệt đối khi nó giúp chúng ta trở về với Chúa, được sống đời đời trong tương lai.

[7] J. E. McKENZIE, art. “Aspects of Old Testament Thought”, trong Jerome Biblical Commentary, p. 749

[8] Art. cit., p. 750

[9] Nơi Israel cũng có những bộ sưu tập luật, chẳng hạn, tập luật trong sách giao ước (Xh. 20, 22- 23, 19), sách luật (Đnl. 12-26), bộ luật thánh (Lv. 17-26).

[10] Art. cit., p. 751

[11] Yêu thương là hành vi tự do và nhưng không.

[12] R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB-PARIS 1966, p. 28

trích dẫn J. PEDERSON, Israel: life and culture, LONDON 1946, p. 107

[13] Ibid., p. 388

[14] H. FRIES, Art. “La Révélation”, trong MYSTERIUM SALUTIS, t. I, vol. I, CERF-PARIS 1969, p. 262 trích dẫn E. BRUNNER, Offenbarung und Vernunft, p. 103

[15] R. LATOURELLE, op. cit., p. 18

[16] không chủ yếu cho người thời tương lai, dù rằng có thể giúp cho người thời tương lai.

[17] H. FRIES, art. cit., p. 262

[18] J. L. McKENZIE, art. cit., p. 750

[19] Ibidem

[20] Ibidem

[21] H. CAZELLES, Introduction à la Bible (Introduction critique à l'ancient Testtament), t. II, DDB. 1973, p. 359

[22] H. FRIES, art. cit., p. 225; trích dẫn F. STIER, Die Geschichte Gottes mit den Menschen, DUESSELDORF 1962, pp. 40tt

[23] thần ngoại, hebel.

[24] trong giao ước, vua được dân công nhận.

[25] J. L. McKENZIE, art. cit., p. 749

[26] Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhắc đến khôn ngoan của Ai cập (Ys. 19, 3-15; Kng. 17, 7), khôn ngoan của Babylon (Ys. 47, 10-13; Yer. 10, 7; 50, 35), khôn ngoan của Ả rập (1V. 5, 10; Yer. 49, 7; Bar. 3, 22); nhưng khôn ngoan của Salomon vượt trên các khôn ngoan của Ai cập và phương đông (1V. 5, 10) và trên các khôn ngoan của người bản xứ Canaan, tức là của Etan và Hêman (Tv. 88-89).

[27] R. LATOURELLE, op. cit., p. 26 trích dẫn R. W. ROBINSON, Inspiration and Revelation in the Old Testament, p. 235-237

[28] Nơi các dân tộc lân cận, có những trung tâm để dạy khôn ngoan và khoa học như ở Mari, Ugarit, Ai cập, và Lưỡng Hà Địa. Những địa danh vừa kể là những trung tâm văn hóa.

[29] v́ niềm tin mà bị giết.

[30] bây giờ chúng ta gọi là ngày Chúa Nhật.

[31] Massiah, Christos, Đức Kitô, đấng được xức dầu.

[32] Chúng ta cũng được gọi là con Thiên Chúa, nhưng là con v́ chúng ta được nhận ; con Thiên Chúa như người ta hiểu Đức Yêsu trước biến cố phục sinh, cũng là con thừa nhận, không phải là con đồng bản tính như các tông đồ biết sau biến cố tử nạn và phục sinh.

[33] Yoan tiền sai môn đệ đến thỉnh vấn; Đức Yêsu cho ḿnh vượt trên các tiên tri như người con vượt trên các đầy tớ (Mc. 12, 1-12).

[34] chữ Do Thái đă được viết bằng mẫu tự latinh.

[35] Đấng thiên sai, Đấng được xức dầu.

[36] như thấy trong Rm. 9, 5; Ga. 1, 1. 18; 20, 28; 1Ga.5, 20; Tit. 2, 13

[37] ơn gọi Abraham.