HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC
LỤC:
3. Thiên Chúa can thiệp vào ḍng lịch sử
Yahweh Thiên Chúa
đă hiện ra cho Môsê nơi bụi gai bốc cháy nhưng
không tàn, và Người phán: “khi ngươi dẫn dân ra
khỏi Ai cập... các ngươi sẽ thờ Thiên Chúa
trên núi này” (Xh. 3, 12). Biến cố Xuất Hành đi
liền với giao ước trên núi Sinai, biến cố
xuất hành hướng về giao ước tại Sinai.
Ở đây t́m hiểu khía cạnh mặc khải trong
biến cố xuất hành- giao ước này.
Trong tŕnh thuật
ơn gọi Môsê ở Xh. 3, Thiên Chúa tự giới
thiệu Ngài là “Thiên Chúa của Cha ngươi, Thiên Chúa
của Abraham, Thiên Chúa của Ysaac, Thiên Chúa của Yacob” (Xh.
3, 6).
Thiên Chúa là
Đấng thương cảm dân Người: “Ta thấy
rơ nổi khổ của dân Ta bên Ai cập, và Ta đă nghe
tiếng than chúng kêu lên trước mặt đốc công,
quả Ta đă biết các khổ đau của chúng” (Xh. 3,
7)[1].
Và Thiên Chúa quyết định: “Nên Ta xuống giựt chúng
thoát tay Ai cập và dẫn chúng ra khỏi xứ ấy, lên
xứ vừa đẹp vừa rộng, lên xứ chan ḥa
sữa mật. Vậy bây giờ ngươi hăy đi. Ta
sai ngươi đến với Pharaô; ngươi hăy
đem dân của Ta, con cái Israel ra khỏi Ai cập” (Xh. 3,
8. 10).
Thiên Chúa giải
phóng con dân Israel ra khỏi Ai cập, bởi v́ “Thiên Chúa
đă nhớ lại giao ước của Người
với Abraham, với Ysaac, với Yacob” (Xh. 3, 7. 10; 5, 1. 7; 7,
16. 26). Thiên Chúa đă thương yêu và tuyển chọn
Abraham cùng ḍng dơi ông, chính v́ vậy Ngài đă hướng
dẫn cuộc đời của các tổ phụ, đă
ở với các ngài, đă cho các ngài gặp may mắn trên
đời, và bây giờ Ngài quyết định giải
phóng con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Không phải v́ con dân
Israel luôn vâng theo lời Chúa mà Chúa giải phóng họ[2],
nhưng v́ Ngài yêu thương và tuyển chọn họ.
Môsê được chọn làm người đưa dân
Israel ra khỏi Ai Cập, v́ Thiên Chúa yêu thương dân
Người, chứ không phải v́ Môsê[3].
Yahweh phán với
Môsê ở Madian: Đi đi! Hăy trở về Ai cập[4]...
Môsê đă cho dân
biết cuộc gặp gỡ của ông với Thiên Chúa và
những điều Ngài nói với ông về tương lai
dân Ngài, nhưng không phải tất cả đều tin và
nghe (Xh. 4, 31; 5, 21; 6, 9. 12).
Thái độ
của Pharaô đối với việc con dân Israel ra đi:
Thiên Chúa biết Pharaô không để dân đi[5]
(Xh. 3, 19-20; 4, 21b; Xh. 5, 2; 6, 1; 7, 13). Môsê cũng đoán
được điều này: “Này con cái Israel đă
chẳng nghe tôi! Th́ làm sao Pharaô lại sẽ nghe tôi, một
kẻ cứng môi cứng miệng” (Xh. 6, 12). Do vậy
Yahweh Thiên Chúa đă cho Môsê có thể làm những dấu
lạ như gậy biến thành rắn (Xh. 7, 10tt),
nước hóa thành máu (Xh. 7, 17tt), ếch nhái (Xh.7, 26tt),
ruồi muỗi (Xh. 8, 12tt), ruồi ṃng (Xh. 8, 16tt), ôn
dịch (Xh. 9, 1tt), ung nhọt (Xh. 9, 8tt), mưa đá (Xh. 9,
13tt), châu chấu (Xh. 10, 1tt), tối tăm (Xh. 10, 21);
thế nhưng Pharaô vẫn cứng ḷng (Xh. 7, 13.14; 8, 11. 15.
28; 9, 7. 12. 35; 10, 20. 27). Dấu lạ cuối cùng là các con
trưởng của Ai cập bị chết (Xh. 11).
Các dấu lạ
gây thiệt hại tài sản dân Ai cập, là do tại
sự cứng ḷng của vua Pharaô; kể cả cái chết
các con đầu ḷng của người Ai cập cũng
là do tội của Pharaô và toàn dân Ai cập không chịu vâng
phục ư Chúa, không “để dân Ngài ra đi thờ
phượng Ngài”. Mạng sống con người là
tuyệt đối đối với con người, con
người không được phép xúc phạm mạng
sống của ḿnh và của anh em ḿnh; nhưng mệnh
lệnh của Thiên Chúa là tuyệt đối đối
với mọi sự: ai bất tuân th́ phải chết[6].
Và không phải chỉ các con đầu ḷng phải
chết, mà những ai cứng ḷng muốn bất tuân
lệnh Chúa, sẽ phải chết do chính lỗi của
ḿnh, khi đuổi theo dân Israel qua biển đỏ (Xh.14).
Trong biến
cố xuất hành khỏi Ai cập, Yahweh Thiên Chúa là
Đấng quyết định giải phóng dân Ngài
khỏi ách nô lệ Ai Cập; chính Ngài đă tuyển
chọn Môsê làm người dẫn dân Ngài ra khỏi Ai
cập, và cũng chính Ngài đưa ra lư lẽ để
nói với Pharaô: “Yahweh, Thiên Chúa của dân Hipri đă cho chúng
tôi gặp Người. Vậy bây giờ, xin cho chúng tôi
đi ba ngày đàng vào sa mạc tế lễ cho Yahweh Thiên
Chúa của chúng tôi” (Xh. 3, 18). Thiên Chúa Yahweh là lá cờ
giương cao của dân Israel trong biến cố giải
phóng dân khỏi Ai cập: “Yahweh Thiên Chúa của Israel phán
thế này: Hăy thả cho dân Ta đi, để chúng trẩy
lễ mừng Ta trong sa mạc” (Xh. 5, 1. 3; 7, 16. 26; 8, 4. 16;
9, 1. 13; 10, 3; 12, 31).
Thiên Chúa đă
giải phóng con dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập
bằng nhiều điềm thiêng dấu lạ, thế
nhưng con dân Israel vẫn chưa tin tưởng phó thác
tương lai và cuộc sống trong tay Yahweh Thiên Chúa.
Họ vẫn nói những lời tỏ vẻ vô ơn và
bất cần Thiên Chúa: “Phải chi chúng tôi chết đi
bởi tay Yahweh trong đất Ai cập, khi c̣n ngồi bên
niêu thịt và được ăn bánh thỏa thuê.
Thật các ông đă đem chúng tôi ra sa mạc này để
làm cả lũ chết đói ở đây” (Xh. 16, 28).
Những ǵ Yahweh
truyền dạy dân qua Môsê, con dân Israel cũng không tuân
lệnh. Yahweh đă phán với Môsê: “Cho đến bao
giờ nữa, các ngươi sẽ từ khước,
không giữ lệnh truyền và luật điều của
Ta?” (Xh. 16, 28). Ở Massah và Mêribah, họ c̣n thử thách
Yahweh: “Có Yahweh ở giữa chúng ta hay không?” (Xh. 17,7).
Dầu tất
cả những điều ấy, Yahweh Thiên Chúa vẫn muôn
ngàn đời thành tín, Ngài trung thành với chính Ngài, với
điều Ngài đă hứa dù khi con người phản
bội Ngài. Ngài vẫn kư kết với dân một giao ước,
theo điều Ngài đă hứa với Abraham, với Ysaac
và với Yacob: “Ta sẽ lấy các ngươi làm một
dân thờ Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các
ngươi sẽ biết Ta là Yahweh, Thiên Chúa của các
ngươi, Đấng đem các ngươi ra từ
dưới ách khổ dịch của Ai cập” (Xh. 6, 7).
Giao ước là
một lời hứa có điều kiện kèm theo lời
thề! Lời hứa có thể đến từ một
bên, tức đơn phương; thế nhưng giao
ước luôn luôn phải được sự ưng
thuận của cả đôi bên, tức song phương.
Trước khi có chữ viết, giao ước là sự
đồng ư của hai bên được tuyên bố
bằng lời trước mặt những nhân chứng,
với lời thề và lời nguyền rủa theo nghi
thức tế tự. Sau này khi có chữ viết, bản
văn thay thế người chứng.
Người thề hứa phải trung thành với
những ǵ ḿnh giao ước, không phải v́ người
chứng nhưng v́ thần linh, họ sợ thần linh và
sợ năng lực lời họ đă thề theo công
thức nguyền rủa[7].
Tŕnh thuật trong
sách Xuất hành, chương 19-24 cho thấy giao ước
giữa Thiên Chúa và con dân Israel được kư kết:
·
Giới
thiệu ngày tháng nơi kư kết giao ước (Xh. 19,1-2);
·
Cuộc
đàm phán trao đổi giữa dân và Thiên Chúa qua Môsê (Xh.
19, 3-15)
về nội dung giao ước
(điều kiện bảo đảm) (Xh. 19, 3-8)
về
việc chuẩn bị và thời gian kư kết (Xh. 19, 9-15).
·
Kư kết
giao ước (Xh. 19, 16-24, 8).
Toàn dân nghinh đón Thiên Chúa và Thiên
Chúa hiện diện (Xh. 19, 16tt);
Điều kiện giao
ước: thập giới (Xh. 20, 1-21. 22tt).
Toàn dân
ưng thuận (Xh. 24, 3).
Kư kết: “Này là máu của giao
ước đă kư kết với các ngươi, thể
theo mọi lời ấy” (Xh. 24, 8.4-8).
Đây là bảo
đảm của Thiên Chúa đối với con dân Israel,
trong giao ước Người kư kết với dân:
“Vậy, bây giờ, nếu các ngươi quyết nghe
tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, th́ các
ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa các dân
hết thảy, v́ toàn cơi đất đều là của
Ta. C̣n các ngươi, các ngươi sẽ là một
vương quốc tư tế cho Ta, một dân thánh” (Xh.
19, 5-6).
Theo một số
học giả, giao ước là nguyên lư thống nhất
quy tụ dân Israel xét như là một dân; v́ vào thời quan
án và quân chủ tiên khởi của Israel, có nhiều nhóm dân
với những nguồn gốc khác nhau đă không chia
sẻ kinh nghiệm xuất hành; v́ thế, họ tháp
nhập vào dân Israel qua việc chấp nhận giao
ước với Yahweh của Israel. Truyền thống
về những hành vi cứu độ dân Israel trở nên
truyền thống của cả nhóm, và những
điều khoản giao ước trở thành quy luật,
đặc biệt điều khoản chỉ thờ
Yahweh thôi. M. Noth giải thích Jos. 24 như là một lễ
nghi tôn giáo, trong đó các nhóm khác nhau kư kết hiệp
ước chung quanh thánh tích. Các bộ lạc là những
chư hầu của Yahweh, và phải giữ ḥa b́nh với
nhau; họ không được giao ước với
bất cứ dân tộc hay thần linh nào khác[8].
Thập giới
là điều khoản của giao ước Sinai giữa
Yahweh và toàn dân Israel. Thập giới không là luật theo
nghĩa b́nh thường đối với người
thời xưa hoặc ngay cả với người
thời nay: thập giới tỏ lộ ư định
của Thiên Chúa cho con người, và là nền tảng
của mọi luật lệ[9].
Luật thập giới tỏ lộ ư định của Yahweh
cho toàn dân Israel, là điều khoản căn bản
của giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài; như
vậy, giữ thập giới là giữ giao ước
giữa Thiên Chúa và Israel, không giữ thập giới là
hủy bỏ giao ước giữa Thiên Chúa và Israel[10].
Với biến
cố xuất hành khỏi Ai Cập và giao ước trên
núi Sinai, Thiên Chúa mặc khải Ngài yêu thương và
tuyển chọn dân Israel giữa các dân:
·
Ngài đă
can thiệp vào ḍng lịch sử, Ngài điều khiển
ḍng lịch sử: Ngài đă giải phóng dân Israel khỏi
Ai cập! Qua lịch sử, con dân Israel và mọi dân tộc
khác có thể nhận ra bàn tay của Thiên Chúa yêu
thương và tuyển chọn dân Israel;
·
Ngài là
Đấng bảo trợ dân, kư giao ước với dân
Israel, để biến dân Israel thành dân riêng của Ngài,
thành dân thánh và dân tư tế. Israel được chọn
làm dân riêng và được Thiên Chúa kết ước
với, không phải v́ dân Israel tài đức hơn các dân
tộc khác, nhưng v́ Thiên Chúa yêu thương[11]
và tuyển chọn dân, v́ Thiên Chúa yêu thương và
tuyển chọn Abraham, Ysaac, và Yacob;
·
Thiên Chúa là
Đấng ban luật cho Israel; Luật Yahweh Thiên Chúa ban cho
dân, nếu dân tuân giữ, sẽ là bảo đảm dân là
sở hữu của Thiên Chúa; và hơn như vậy
nữa, luật Yahweh ban cho dân Israel trong giao ước,
sẽ giúp dân trở nên giống Thiên Chúa là Đấng
Thánh, làm cho dân trở thành dân thánh của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đă
mặc khải tên Ngài cho Môsê, và việc mặc khải này
là khởi đầu cho việc mặc khải Ngài là
Đấng tuyển chọn và giải phóng dân Israel
khỏi Ai cập.
Thiên Chúa đă nói
với dân qua Môsê, và qua trung gian Môsê Thiên Chúa cũng nói
với Pharaô và triều đ́nh Ai cập (Xh. 19,19, 21-25; 20,
18-21). C̣n với chính Môsê, Thiên Chúa đă nói với ông qua
trung gian bụi gai gốc cháy nhưng không tàn (Xh. 3). Sau
đó, Môsê sống rất thân mật với Thiên Chúa và
thường được Thiên Chúa phán bảo ông,
nhưng Kinh Thánh không cho biết Thiên Chúa phán bảo với
ông qua trung gian nào.
Qua tŕnh thuật
Xh. 33, 18-23; 34, 6-7, con người và ngay cả Môsê, không
thể nh́n thấy Yahweh Thiên Chúa được; cũng
trong lần tỏ hiện này, Yahweh Thiên Chúa mặc khải
Ngài là “Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và
đầy nhân nghĩa, tín thành. Ngài giữ nghĩa cho
đến ngàn đời, chịu đựng lỗi
lầm quá phạm, nhưng không coi tội như thể vô
can. Ngài trị tội cha trên con cháu ba bốn đời”
(Xh. 34, 6-7). Thiên Chúa Yahweh là Thiên Chúa t́nh yêu, kiên nhẫn và tha
thứ.
Thời kỳ
thẩm phán kéo dài khoảng trên 200 năm, từ sau khi Yosua
đưa dân vào đất hứa cho tới thời Israel
có vua (khoảng từ 1210 đến 1000 trước công
nguyên). Những thẩm phán được sách thẩm phán
đề cập tới, là những vị được
Thiên Chúa ở với họ cách đặc biệt (Tp. 3,
10); họ là cứu tinh của dân tộc (Tp. 3, 9.15) chứ
không phải là những người được
đặt để theo thói thường (Xh. 18, 13-26).
Sách thẩm phán
tŕnh bày tương quan giữa Thiên Chúa và Israel vào thời
dân Israel đă được vào đất hứa. Dân Israel
liên tục phản bội Chúa, thờ các thần ngoại;
V́ vậy, Ngài đă phó nộp họ vào tay các dân tộc
khác! Khổ cực, họ quay trở về với Chúa, và
kêu xin Người; Thiên Chúa đă thương, và sai các
thẩm phán đến cứu họ thoát khỏi tay
những dân tộc khác.
Sách thẩm phán
cho cái nh́n rất đa dạng về ơn gọi thẩm
phán.
Với những
thẩm phán Otniel (Tp. 3, 7-11), Êhud (Tp.3, 12-30) và Shamgar (Tp. 3,
31), sách không cho biết quá tŕnh h́nh thành ơn gọi làm
thẩm phán; với Baraq, Thiên Chúa đă nói với ông qua tiên
tri Đêbôrah (Tp. 4, 1-10); c̣n với Ghêđêô, thần sứ
Yahweh đă hiện ra cho ông (Tp. 6, 11-12) và Yahweh đă trao
sứ mạng cho ông (Tp. 6, 16tt); với Samson, ơn gọi
đă h́nh thành từ lúc được thụ thai, ông là
người được hiến thánh cho Thiên Chúa từ
trong dạ mẹ “chính trẻ ấy sẽ khởi công
cứu thoát Israel khỏi tay Philitin” (Tp. 13, 5).
Sau thời
thẩm phán, là thời kỳ vương quyền. Có
thể nói vị thẩm phán cuối cùng là Samuel (1Sm. 7,
2-17); Samuel c̣n được coi là tiên tri, v́ Yahweh Thiên Chúa
đă nói với ông, và nói với dân qua ông (1Sm. 3, 1-21); Samuel
cũng là người đă xức dầu phong vương
cho Saul (1Sm.10, 1tt) và cho David (1Sm.16).
Tŕnh thuật 1Sm.3
cho thấy Yahweh Thiên Chúa gọi Samuel, nhưng lúc đó ông
không nhận ra tiếng Chúa. Theo tŕnh thuật này, Samuel nghe
tiếng nhưng không thấy ǵ, chính v́ vậy cậu
mới chạy lại chỗ thầy Êli, v́ tưởng
thầy gọi. Trong tŕnh thuật này, tưởng có
thể nghĩ rằng Chúa gọi Samuel lúc cậu c̣n
thức. Nghe thấy tiếng Chúa, đó là điều
thường thấy nơi các tiên tri: “Chúa phán...”, “lời
Chúa đến với...”.
Vào thời
trước và sau Samuel, người Israel cũng vẫn có
thói quen thỉnh ư Yahweh Thiên Chúa mỗi khi gặp những
chuyện khó khăn hoặc những điều cần giải
quyết (1Sm. 9, 1-10; Jos. 7, 6tt; 1Sm. 10, 20-21). Thế nhưng
vào thời Samuel, Kinh Thánh nói “Lời Yahweh hiếm, thị
kiến khan” (1Sm. 2, 1), nên người ta thường gieo
quẻ bốc thăm; chẳng hạn việc t́m người
lỗi luật thần tru bằng bốc thăm (Jos. 7,
6tt), hoặc việc chọn vua (1Sm. 10, 20-21).
Để
thấy rơ hơn việc thỉnh ư Yahweh bằng gieo
quẻ bốc thăm, hăy xem tŕnh thuật sau: “Saul nói:
Lạy Yahweh, Thiên Chúa của Israel, làm sao Người
lại không trả lời cho tôi tớ Người hôm nay?
Nếu tội ấy có ở về phía tôi hay Yônathan con tôi,
th́ lạy Yahweh, Thiên Chúa của Israel, xin ban Urim; c̣n nếu
tội ấy có ở về phía dân của Người là
Israel th́ xin ban Tummin. Và đă bốc thăm trúng Yônathan và
Saul, c̣n dân th́ đă thoát. Saul lại nói: hăy gieo thăm
giữa tôi và Yonathan, con tôi: Yahweh để ai trúng thăm,
th́ người đó phải chết” (1Sm. 14, 41-42).
Những dân
tộc đông phương lân cận của dân Israel
cũng dùng những cách như bói toán gieo quẻ để
biết ư định của Thần Linh. Nhưng có sự
khác nhau rơ rệt: các thầy chiêm nơi dân lân cận bó
buộc thần linh của họ phải tỏ ư kiến
qua việc tuân giữ các nghi thức; c̣n nơi dân Israel,
Thiên Chúa hoàn toàn tự do; con dân Israel phải chờ
đợi câu trả lời của Thiên Chúa do ḷng nhân lành
và ư định tự do của Ngài. Việc hỏi ư
kiến này thường thuộc về nhiệm vụ
của các nhà chiêm thị, và của các tư tế (1Sm. 1,
36; 22, 15).
Nhiều lần
dân Israel phản bội Thiên Chúa, không tuân giữ giao
ước, thờ các thần khác ngoài Yahweh; nhưng Yahweh
Thiên Chúa vẫn đáp cứu dân mỗi khi dân quay trở về
với Thiên Chúa. Những tŕnh thuật này cho thấy Thiên
Chúa là Đấng thành tín, kiên nhẫn và tha thứ; c̣n Israel
là dân cứng cổ, bất trung, luôn phản bội.
Không phải
chỉ có dân Israel mới có các tiên tri, nhưng những dân
lân cận, các tôn giáo ngoài Do Thái giáo cũng có các tiên tri
(1V.18, 19). Ở Israel, phong trào tiên tri xuất hiện
mạnh từ thế kỷ XI đến thế kỷ V
trước công nguyên. Không kể những người
được Yahweh Thiên Chúa gọi cách đặc biệt
để làm tiên tri, những tiên tri chuyên nghiệp
(những người hành nghề tiên tri để kiếm
sống) thường sống thành từng nhóm, và có nhóm
trưởng (1Sm. 10, 5tt; 19, 20tt).
Tiên tri,
người biết trước; nhưng đúng hơn,
tiên tri là người nói nhân danh Thiên Chúa (ngôn sứ).
Tiên tri là
người của Thiên Chúa, người được
Thiên Chúa chiếm đoạt, người có kinh nghiệm
về Thiên Chúa đến độ các vị suy nghĩ,
nói và hành động như Thiên Chúa muốn, như thể
các vị đó thấy hay nghe được Thiên Chúa nói
(Yer. 20, 7.9; Am. 3, 3-8). Tuy nhiên cũng có người cho
rằng các ngài là những người bị bệnh “sùi
bọt mép” (Mik. 2, 6; Am. 7, 16), những người điên
(Hos.9, 7), những người thiếu sự khôn ngoan
tối thiểu (không biết nói dối dù phải chết
(Yer. 26, 12); không sợ thế lực người
đời dù thế lực đó là quan quyền hay vua chúa
(2V.1, 5tt; 18, 1tt; 21, 20tt)).
Nói tới tiên tri,
không thể không đề cập đến lời,
sấm ngôn.
Lời, tiếng
Dothái là DABAR. DABAR có hai gốc song song: một có nghĩa là
nói, và một có nghĩa là cái ở đàng sau; như
vậy, DABAR vừa có nghĩa làm cho hiểu biết,
vừa có nghĩa cái ǵ mang sức mạnh.
DABAR là cái ǵ ở
đàng sau, và cũng là cái ǵ được phóng đẩy
ra trước; là cái chuyển-thành-hành-vi điều
đầu tiên ở trong trái tim, trong ḷng. DABAR là cái nền
tảng của một sự vật, là cái nghĩa riêng
của sự vật; và nghĩa này được diễn
tả bằng ngôn từ. Như vậy, mỗi lời
chứa đựng không chỉ ư nghĩa mà c̣n chứa
đựng một năng lực nữa. Theo Kinh Thánh, DABAR
là cái ra khỏi môi miệng (Ds. 30, 13; Yer. 17,16) và là cái có
nguồn gốc trong ḷng con người (St. 17, 17; Tv. 14,1;
Yer.3,16). Dabar không chỉ diễn tả một tư
tưởng trừu tượng, nhưng c̣n diễn
tả t́nh trạng một tâm hồn.
Lời là diễn
tả “thân xác” của nội dung “linh hồn”; đằng
sau lời, có một hồn. Nếu một người có
tâm hồn cương nghị phát biểu lời, th́ lời
đó sẽ diễn tả nhiều thực tại hơn
lời của một người có tâm hồn yếu
nhược. Một người nói với một
người khác, là tạo một cái ǵ thuộc tâm hồn
họ nơi tâm hồn của người khác nghe họ[12].
Trong ngôn ngữ
hiện tại, Karl Buehler cho thấy:
·
Lời có
một nội dung; nó diễn tả hay tiêu biểu cho
một vật nào đó; nó đặt tên cho một vật,
diễn tả một tư tưởng, một phán đoán,
kể lại một câu chuyện.
·
Lời c̣n
là một lời mời gọi; lời được
ngỏ với ai, th́ có khuynh hướng gợi lên nơi
người đó một lời đáp hay phản ứng.
·
Lời
mặc khải, bày tỏ một ngôi vị, bày tỏ tâm
t́nh bên trong của người nói, bày tỏ lập
trường của họ.
Như vậy, ba khía cạnh này của lời
tương hợp với ba ngôi của một động
từ: lời diễn tả ngôi thứ nhất, lời
kêu gọi ngôi thứ hai, và lời tường thuật
ngôi thứ ba.
Tóm lại,
người ta có thể định nghĩa: lời là
một hành vi bởi đó một ngôi vị ngỏ lời
và diễn tả ḿnh với một người khác,
nhằm truyền thông và thông cảm lẫn nhau[13].
Ở Ai cập và
Lưỡng Hà Địa, lời là một thực thể
quyền uy. Lời thần linh, chính là sức lực
của thần linh mà con người không thể chống cưỡng
lại được. Lời của con người
cũng có năng lực, đặc biệt trong những
lời chúc lành hoặc chúc dữ, trong lời hứa,
lời thề! Lời của vua chúa có năng lực
hơn lời của người thường.
Trong Cựu
Ước, t́m thấy nhiều đoạn văn cho
thấy năng lực của lời:
·
Ysaac chúc
lành cho Yacob. Sự lầm lẫn không làm cho lời đă
nói mất giá trị, Ysaac không thể rút lời đă chúc
phúc cho Yacob (St. 27).
·
Bà mẹ
của Mikayohu phải chúc phúc để hóa giải lời
nguyền rủa bà đă thốt ra hướng về
người ăn cắp, mà bà không biết người
ăn cắp lại là chính con bà (Tp. 17, 1tt).
·
Lời nói
của David hướng về một người bất
kỳ nào đó được áp dụng cho chính ông (2 Sm.
12, 1-8).
·
Lời
thề đi kèm theo h́nh phạt, nếu một
người thề gian, lời thề độc sẽ
ứng nghiệm trên người thề gian đó (Ds. 5,
12-31).
Năng lực
của lời bắt nguồn từ năng lực
của chính ngôi vị nói. Ư muốn của ngôi vị nói
được chuyển tới thế giới bên ngoài cùng
với tất cả năng lực và tính chất của
lời được nói ra!
Lời của
Yahweh là nhân tố tác tạo trong suốt lịch sử dân
Israel, từ việc sáng tạo (St. 1, 3) đến việc
dựng lại đền thờ Yêrusalem (Ys. 44, 28). Lời
của Yahweh kêu gọi Abraham, kêu gọi Môsê, đưa dân
Israel ra khỏi Ai cập, dẫn dân vào đất hứa,
gọi Samuel, tuyển chọn David. Lời của Yahweh là
nhân tố chính trong lịch sử dân Israel theo Cựu
Ước.
Lời của
Yahweh là một từ ngữ rất thông dụng trong các
sách tiên tri. Lời là đặc sủng của tiên tri,
cũng như Luật (Torah) là đặc sủng của
tư tế, và lời khuyên (khôn ngoan) là đặc sủng
của hiền nhân (Yer. 18, 18). Lời Yahweh không do tiên tri
nhưng do tự Thiên Chúa Yahweh, chính Ngài bắt tiên tri
phải nói (Am. 3, 8).
Lời của
Yahweh đối với tiên tri, khi th́ ngọt ngào (Yer. 15,
16), khi th́ như ngọn lửa đốt trong xương
tủy (Yer. 20, 7-9), khi th́ trở nên lời giận giữ
phải nói ra (Yer. 6, 11). Lời của Yahweh là chính Yahweh.
Lời Yahweh mà tiên tri nói có sức lật đổ và phá
hủy... (Yer. 1, 9-10). Lời của Yahweh không thể không
thành tựu (Ys. 45, 23; 55, 10-11; 31, 2); hơn nữa, Lời
của Yahweh là lời vĩnh cửu và ứng nghiệm
(Ys. 40, 8; Cf. Ys.9, 8).
Lời của
tiên tri đặt nền tảng trên mặc khải qua
biến cố, và mặc khải qua biến cố dẫn
tới lời. Lời của Thiên Chúa được ban
cho con người như một sứ mạng, như
một lời giáo huấn, như một người
hướng dẫn. Lời của Thiên Chúa là chủ
lịch sử, kiến tạo lịch sử, và vang
vọng trong lịch sử[14].
Phác họa một lịch sử về Lời Thiên Chúa, là
đồng thời phác họa lịch sử mặc
khải[15].
iii.
Lời- phương tiện mặc khải
Tất cả các
tiên tri đều có cảm thức đặc biệt
về Lời Chúa. Nhiều tiên tri diễn tả
tương quan với Thiên Chúa bằng thị kiến; các
ngài được Thiên Chúa nói với “trong thị kiến
và trong giấc mơ” (Ds. 12, 6tt; 1V. 22, 13-17; Am. 1, 1; Ez. 1, 1;
Nah. 1, 1; Hab. 1, 1). Một số khác cho rằng ḿnh
được Thiên Chúa nói với, c̣n bằng cách nào th́
không đề cập tới. Có những vị diễn
tả việc ḿnh có Lời Chúa bằng những h́nh
ảnh biểu trưng, chẳng hạn với tiên tri
Yêrêmya, Thiên Chúa đặt Lời Ngài vào miệng tiên tri
(Yer. 1, 9); c̣n với Ezekiel, tiên tri đă ăn sách viết
Lời của Yahweh, sách vừa đắng vừa ngọt
đối với ông (Ez. 2, 9- 3, 3).
b. Tiêu chuẩn nhận biết tiên tri thật
Xét về
phương diện chủ quan, tiên tri thật là
người xác tín ơn gọi tiên tri của ḿnh, ơn
gọi hiển nhiên đến mức độ không
thể nghi ngờ được, họ cảm thấy
bị bó buộc phải nói và hành động nhân danh Thiên
Chúa; sự bó buộc này thường chống lại
khả năng và khuynh hướng b́nh thường của
họ, nó đ̣i buộc như bị bắt buộc
phải nói hoặc làm. C̣n nơi tiên tri giả, họ cho
những điều họ mơ tưởng và mong
ước là mặc khải, và họ cho ư họ là ư Thiên
Chúa (Yer.23, 23tt).
Xét về
phương diện khách quan, những điều tiên tri
thật nói phải ứng nghiệm (Đnl. 18, 21), và có
sự tương hợp giữa lời giảng dạy
và cuộc sống của vị tiên tri (như vâng phục
Thiên Chúa, từ bỏ ḿnh và những ǵ làm thoải mái cho
ḿnh).
Chính v́ lấy ư
ḿnh làm ư Chúa, cho nên tiên tri giả thường có câu trả
lời liền; c̣n tiên tri thật, đôi khi và
thường, phải chờ câu trả lời từ Thiên
Chúa (Yer. 27-28).
Tiên tri luôn luôn và
chính yếu là người của thời hiện tại
đoù, tức là cho những
người đương thời với các tiên tri,
chứ không phải là người cho thời quá khứ
hoặc tương lai[16].
Tiên tri, người nói nhân danh Thiên Chúa cho dân, về
những điều Thiên Chúa muốn nói với dân.
Là người
của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chiếm
đoạt, tiên tri có cái nh́n của Thiên Chúa. Tiên tri nói cho
dân biết tương quan giữa Thiên Chúa và dân,
tương quan giữa Thiên Chúa và vua, giữa Thiên Chúa và
tư tế v.v.
Tiên tri thấy rơ
chứ không mù quáng. Ngay khi bên ngoài tất cả
dường như rất trật tự và tốt
đẹp, tiên tri vẫn phân biệt được,
nhận định và thấy sự trống vắng
đức tin và t́nh yêu đằng sau những cái bên ngoài có
vẻ tốt đẹp. Tiên tri nhận ra sự bất
hạnh nơi những cái có vẻ hạnh phúc bên ngoài mà
các tiên tri giả nơi triều đ́nh loan báo. Tiên tri cũng
là người loan báo sự an ủi, và an ủi dân trong
những cơn cùng quẫn, khi bị lưu đày và
những khi như thể tuyệt vọng[17].
Tiên tri nỗ
lực duy tŕ và củng cố chân lư giao ước,
chống lại mọi cám dỗ trao đổi giao
ước của Thiên Chúa lấy giao ước chính
trị[18]. Tiên tri
lưu ư và cảnh cáo vua và các tư tế, để
họ đừng bất trung với giao ước, và
đừng an tâm với những yên ổn giả tạo.
Các tiên tri giải thích các tai ương và các thử thách,
không cho rằng chúng do những nguyên nhân bên ngoài t́nh cờ;
nhưng chúng là h́nh phạt Thiên Chúa trừng trị tội
lỗi của dân; những biến cố đó là những
biến cố mặc khải.
Có thể nói, các
tiên tri là những người nh́n lịch sử dân Israel
dưới cái nh́n giao ước; các ngài lấy giao
ước làm tiêu chuẩn phán đoán xem hành vi cư xử
của một người, của một triều
đại, có tốt hay không? xem họ có để cho ư
Thiên Chúa thể hiện nơi cuộc đời họ,
nơi quốc gia họ hay không?
Nói vậy không có
nghĩa là không biết các tiên tri thế kỷ thứ VIII
như Amos, Hôsêa, Ysaya và Mica, đă không nhắc đến
chữ giao ước. Tuy các vị đó không nhắc đến
chữ giao ước, nhưng các vị đă khai triển
nền thần học giao ước: tính ưu việt
của Yahweh, hành vi cứu độ của Yahweh, chỗ
đứng duy nhất của Israel xét như dân Thiên Chúa và
những đ̣i buộc đối với Yahweh.
Một số
học giả cho rằng, các tiên tri thế kỷ VIII tránh
dùng chữ giao ước, v́ người thời đó
dễ hiểu lầm rằng giao ước đ̣i Yahweh
phải làm tất cả những ǵ dân Israel thích[19].
C̣n Mendenhall lại cho rằng, các tiên tri thế kỷ VIII
không nhắc đến chữ giao ước v́ trong
vương quốc Yuda, giao ước với Israel đă
được thay thế bởi giao ước với nhà
David; mà các tiên tri không muốn đồng hóa giao ước
của Yahweh với Israel, với giao ước của
Yahweh với David; tiên tri sợ rằng nếu các ngài dùng
chữ giao ước, dễ dẫn tới hiểu
lầm rằng sự tồn tại của dân lệ
thuộc vào sự tồn tại của vương
triều David[20].
Với tiên tri
Yêrêmya, chữ giao ước xuất hiện lại. Yêrêmya
c̣n nói tới một giao ước mới, và coi
tương lai của Israel như lệ thuộc vào giao
ước này (Yer. 31, 31-34). Giao ước này đề cao
tương quan của Yahweh với từng người.
Giao ước giữa Yahweh với dân Israel, đặt dân
Israel thành dân Yahweh; cũng vậy giao ước giữa
Yahweh với từng người, đặt mỗi
người thành người của Yahweh.
Cùng thời
với Yêrêmya, sách Đệ Nhị Luật nhấn
mạnh nhiều đến giao ước: người ta
được chúc lành hay chúc dữ là tùy người ta có
giữ luật hay không.
Trong truyền
thống P nơi Ngũ Kinh, giao ước được
đồng hóa với luật; trước đó,
truyền thống P đă tŕnh bày giao ước
dưới dấu hiệu cắt b́ (St. 17, 10). Truyền
thống P tŕnh bày toàn bộ lịch sử cứu
độ như một chuỗi giao ước, kể
cả giao ước với Nôe.
Các tiên tri nhớ
lại thời Xuất Hành, và coi đó là lư tưởng
của xă hội hiện tại. Tiên tri muốn xây dựng
một xă hội xứng với phẩm giá con dân Thiên Chúa:
các quyền của con người phải được
tôn trọng (1V. 21), tất cả đều b́nh
đẳng và sống trong t́nh huynh đệ. Ḷng nhiệt
thành với công b́nh là một biểu lộ của ḷng tin
vào Thiên Chúa; chính Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và xây dựng
xă hội này (Ys. 11, 6-9; 19, 23-25; Zac. 8)[21].
Các tiên tri cảnh
cáo mọi tầng lớp dân chúng (vua, tư tế, dân
chúng), để họ trở về với Yahweh,
đừng vi phạm giao ước của Yahweh với
Israel nữa. Các tội vi giao ước quy về hai
điều: thờ thần ngoại lai bỏ Yahweh,
bất công phạm đến anh em!
Êlia tố cáo Akhab
đă là nguyên nhân của nạn hạn hán. “Akhab nói với
Êlia: phải chăng chính là ngươi, con người giá
họa cho Israel? Êlia nói: không phải tôi đă giá họa cho
Israel, nhưng là ông và nhà cha ông, bởi đă lỗi bỏ lịnh truyền của Yahweh, và
ông đă đi theo các Baal” (1V. 18, 18tt).
Không phải dân đă bỏ hoàn toàn Yahweh để
đi theo Baal, nhưng dân đă baal hóa Yahweh, coi Yahweh như
đồng hội đồng thuyền với Baal,
đến độ họ đă đặt nữ
thần Anat, vợ của Baal bên cạnh Yahweh[22].
Êlia đă nói thẳng với họ: Nếu Yahweh là Thiên
Chúa, hăy theo Ngài, c̣n như nếu là Baal, th́ các ngươi
hăy theo nó đi” (1V. 18, 21).
Tiên tri Yêrêmya
cũng tố cáo dân đă bỏ Yahweh để đi theo
các thần ngoại: “Há có dân nào tráo đổi thần linh-
mà nào chúng đâu phải thần linh, nhưng dân Ta đă
tráo đổi vinh quang của ḿnh với đồ vô
dụng[23]. Trời
ơi, hăy rụng rời trước sự này, hăy rởn
tóc, rất mực kinh hoàng- sấm của Yahweh, v́ dân Ta
đă làm hai điều bất hảo: chúng đă bỏ Ta
mạch nước hằng sống, để đào cho
ḿnh bể nước, nhưng các bể ṛ không chứa
được nước” (Yer. 2, 11-13).
Tội thờ
quấy, được tiên tri Hôsêa ví như tội
ngoại t́nh, và tiên tri Mikê coi như hành vi làm điếm
tế thần ngoại lai (Mik. 1, 4-7; Am.3, 14tt; 4, 4; 5, 4.21;
Ys. 1, 10.21tt; Hos. 4, 15tt; 8, 5tt; 9, 15; 11). Bất công cũng
được các tiên tri phản đối mạnh (Mik.
2,1tt; 2, 8; 6, 11tt; 3, 1- 4, 9; Am. 4, 1tt; 5, 11; 8, 4tt; Ys.10, 1tt; Hos.
4, 1tt; 7, 1-7; 6, 7).
Thiên Chúa đă
mặc khải qua biến cố xuất hành và giao
ước Sinai, Ngài là Thiên Chúa quyền năng, là
Đấng can thiệp vào ḍng lịch sử, Đấng
giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập,
Đấng bảo trợ dân, là Thiên Chúa của dân Israel,
Đấng làm dân Israel thành dân tư tế của Thiên Chúa,
Đấng kư kết giao ước với dân Israel,
Đấng biến dân Israel thành sở hữu của Ngài.
Thiên Chúa, trong
thời đại các thẩm phán, các vua và các tiên tri,
tỏ cho thấy Ngài là Thiên Chúa trung thành với giao
ước. Dù dân không giữ giao ước, dù dân phản
bội bất trung, th́ Thiên Chúa vẫn trung thành; Ngài không
bỏ giao ước dù dân đă không tuân giữ. Hơn
nữa, Ngài là người bảo vệ giao ước,
giúp dân tuân giữ giao ước; Ngài đă dùng những
phương tiện khác nhau để giúp dân trung thành
với giao ước, trung thành với Ngài, chẳng
hạn như cơ cấu vương quyền, cơ
cấu tư tế và các tiên tri; và nếu dân vẫn
cứng ḷng, Ngài cho những tai hoạ đến để
cảnh cáo dân, nhất là bằng biến cố lưu
đày. Khi những cơ cấu vương quyền và
tư tế, làm dân bê trễ không giữ giao ước, th́
Ngài băi bỏ những cơ cấu đó, thậm chí
cả ḥm bia, đền thờ.
Thiên Chúa
được thấy trong giai đoạn này, là
Đấng yêu thương dân Israel vô cùng, và Người
không bao giờ nở bỏ dân:
“Mẹ nào lại quên con đẻ của ḿnh? cạn
ḷng thương đối với con dạ nó không? cho dù
chúng quên được nữa, th́ phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi (Ys.
49, 15)”.
“Làm sao Ta nỡ bỏ ngươi hỡi Ephraim, hay thí
hẳn ngươi đi, hỡi Israel! làm sao ta nỡ
bỏ ngươi như Adma, cho ngươi hóa tựa
Xơboim? ḷng ta đảo lộn trong Ta, và mối
chạnh thương sôi réo cả lên” (Hos. 11, 8).
Thiên Chúa là Thiên Chúa siêu việt, Ngài không suy nghĩ và
hành động như người phàm, Ngài không cư
xử với Ta như Ta đáng tội: “Như trời cao
hơn đất thế nào, th́ tư tưởng Ta
cũng vượt quá tư tưởng các ngươi”
(Ys. 55, 9), “V́ Ta là Chúa, chứ không phải người phàm”
(Hos. 11, 9).
ii.
Tương quan giữa con người và Thiên Chúa
Israel
được gọi được chọn,
được yêu thương cưng chiều, là
để thành bí tích cho mọi dân mọi nước,
nhằm giúp con người nhận biết Yahweh là Thiên
Chúa, là Đấng yêu thương tất cả mọi
người.
Con người
chỉ là tạo vật; đối với Thiên Chúa, con
người như đất sét với người
thợ gốm (Ys. 45, 9tt). Con người, là tạo vật
được Yahweh Thiên Chúa yêu thương rất
mực, đặc biệt con người đây lại là
dân Israel. Nhưng con người, và đại biểu là
con dân Israel, thật cứng ḷng cứng cổ, luôn bất
trung cùng Thiên Chúa, luôn phản bội Ngài, phản bội
giao ước.
Tương quan
giữa con người và Thiên Chúa cũng là tương quan
giữa dân Israel và Yahweh. Tương quan này được
diễn tả qua một số h́nh ảnh!
·
Tương
quan “cha con”! Đây không phải là tương quan tự
nhiên theo nghĩa b́nh thường. Israel không là con “theo
bản tính” (phusis) nhưng là con “được thừa
nhận”. Đây là tương quan t́nh yêu, ḷng sủng
mộ, vâng phục.
·
Tương
quan “chồng vợ”! Tương quan này nhấn mạnh
tính nhưng không khởi đầu của Yahweh, v́ trong
Cựu Ước, chồng thường chọn vợ.
Tương quan giữa Yahweh và Israel là tương quan t́nh
yêu; bất trung là phản bội chống lại Yahweh.
Tương quan này được Hôsêa và Yêrêmia diễn
tả cách đặc biệt.
·
Tương
quan “chủ chiên đàn cừu”. Tương quan này cho
thấy Yahweh là người bảo vệ. Đàn cừu
tín thác vào người chăn, đi theo người
chăn và sẽ được no thỏa! Tiên tri Ezekiel dùng
h́nh ảnh này.
·
Tương
quan “họ hàng”. Yahweh được gọi là người
báo thù, người chuộc (Gôel) của Israel. Trong phong
tục Do Thái, người thân phải trả thù máu
hoặc phải bảo vệ tài sản người thân
ḿnh. Yahweh không chỉ xuất hiện như người
bảo vệ, nhưng c̣n như người thân của
Israel.
·
Tương
quan “vua tôi”. Tương quan này hàm chứa trong quan niệm
Thiên Chúa cai trị dân Ngài, trong kiểu gọi Yahweh là Chúa
(Adonai, Kurios) trong giao ước[24].
Theo truyền thống chấp nhận Israel có vương
quyền, vua cai trị dân thay Thiên Chúa[25].
Một nét
đặc trưng của mặc khải thời các tiên
tri, cho thấy mặc khải chưa hoàn tất.
Mọi tầng
lớp dân đều ngóng chờ một vị thiên sai.
Vị này có thể là một tiên tri lớn như Môsê
(Đnl. 18, 18), hoặc một vị vua công chính mà trong
nước của Ngài sẽ có b́nh an hạnh phúc (Ys. 7; 9;
11), hoặc một mục tử (tư tế) luôn đi
t́m con chiên bị lạc, băng bó con chiên bị
thương, dẫn đàn chiên đến đồng
cỏ xanh tươi, đến suối nước trong
lành (Ez. 34), hoặc là người tôi tớ Yahweh chịu
khổ nạn để công chính hóa nhiều người,
để chuộc tội cho dân (Ys. 42, 1-9; 49, 1-6; 50, 4-9; 52,
13- 53, 12), hoặc con người từ trời xuống
(Dn. 7).
Yêrêmya cũng loan
báo một giao ước mới: “Sẽ tới ngày Ta
sẽ lập một giao ước mới với nhà Israel
và nhà Yuđa, không phải như giao ước ta đă kư kết
với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay chúng để đem
chúng ra khỏi Ai cập... Ta sẽ đặt luật
của Ta vào bên trong chúng, và Ta sẽ viết trên trái tim
chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, c̣n chúng, chúng sẽ
là dân của Ta ...” (Yer. 31, 32-33; 32, 39-40).
Cũng vào
thời lưu đày, tiên tri Ezekiel đề cập
đến thần khí mới, thần khí mà Thiên Chúa ban cho,
sẽ làm con người được sống. “Ta sẽ
ban Thần Khí của Ta xuống trên các ngươi. Và các
ngươi sẽ được sống” (Ez. 37, 14.5-6). “Ta
sẽ ban cho các ngươi một tấm ḷng mới. Bên
trong các ngươi, ta sẽ ban một thần khí mới,
Ta sẽ cất tấm ḷng đá khỏi thịt ḿnh các
ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm
ḷng thịt. Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống
Thần Khí của Ta. Và các ngươi sẽ giữ các phán
quyết của Ta, và sẽ thi hành. Các ngươi sẽ
lập cư trên đất Ta đă ban cho cha ông các
ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. C̣n Ta, ta
sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Ez. 36, 26-28).
Như luật,
tiên tri, là hiện tượng chung của cả vùng lân
cận của Dothái, văn chương khôn ngoan và hiền
nhân cũng vậy[26].
Văn chương khôn ngoan xuất hiện vào thiên niên
kỷ thứ hai nơi những dân tộc lân cận
của Dothái; c̣n với dân tộc Do Thái, văn
chương khôn ngoan chỉ thịnh hành sau thời lưu
đày và là phương tiện mặc khải[27].
a. Khôn ngoan- nguồn hạnh phúc
Khôn ngoan đem
lại cho con người trường sinh bất tử,
và cho con người t́m thấy niềm vui. “Nhờ khôn
ngoan, tôi được trường sinh bất tử,
để lại cho hậu thế lưu niệm muôn
đời không phai... v́ với khôn ngoan, không có ǵ là cay
đắng khó chịu, chung sống với khôn ngoan, không có
đau phiền, trái lại chỉ có hoan lạc mừng
vui” (Kng. 8, 13.16).
Khổ đau,
cực nhọc, là do con người bỏ đường
khôn ngoan. “Bởi đâu, hỡi Israel, bởi đâu hỡi
Israel, bởi đâu mà ngươi lại ở trên đất
kẻ thù, già đi trên đất xa lạ? là v́
ngươi bỏ mạch khôn ngoan” (Bar. 3, 10.12).
Khôn ngoan
được nhân cách hóa như một người đi
rao giảng ở ngă ba đường hoặc nơi
phố chợ (Cn. 1, 20tt; 8-9), và ai nghe khôn ngoan sẽ
được chúc phúc, ai t́m khôn ngoan sẽ được
sự sống (Cn. 8, 34.35a), v́ khôn ngoan sẽ hướng
dẫn họ trong mọi hành vi, và ǵn giữ họ (Kng. 9,
11).
Người ta có
thể học biết khôn ngoan[28].
Đầu
mối của khôn ngoan (Hc. 1, 14), gốc rễ của khôn
ngoan (Hc.1, 20), khôn ngoan viên măn (Hc.1, 16), là kính sợ Chúa.
Để
được khôn ngoan, phải kính sợ Chúa, và phải
sống như người con thảo (Tb. 4, 3-4; Cn. 6, 20; 23,
20; 28, 24;19, 26; 20, 20), như người chồng tốt
(Cn. 5, 1-23; 6, 20-7, 27; 23, 27-28), như người cha tốt
(Cn. 29, 13-21), như một công dân tốt (Cn. 25, 8-10; 24,
21-22). Phải biết vâng theo lẽ phải (Cn. 25, 6-7),
phải biết nghe lời giáo huấn (Cn. 1, 8-9; 3, 1; 4,1
3.20; 5, 1; 12, 1; 13, 1v.v.) phải biết nhận sự
sửa phạt (Cn. 13, 24; 22, 15; 23, 13.14), phải có tư
cách đúng đắn (Cn. 23, 29-35), phải sống công b́nh
(Cn. 16, 8-11; 23, 10.11; 22, 23.28).
Con người có
thể trở nên khôn ngoan, có thể trở thành hiền
nhân; nhưng con người không làm chủ khôn ngoan; con
người không sở hữu khôn ngoan như một
vật tự nhiên.
Khôn ngoan không phát
sinh do con người, nhưng từ Thiên Chúa. “Khôn ngoan
nhất nhất đều do tự Chúa, và từ
đời đời hằng ở với
Người”(Hc. 1, 1).
“Ta (khôn ngoan)
đă xuất tự miệng Đấng tối cao, như
áng mây Ta đă bao trùm trái đất” (Hc. 24, 3). “Yahweh đă
dựng nên Ta, tiên thường của công tŕnh Người.
“Từ trước mọi thời, ngay lúc khởi nguyên,
Người đă dựng nên Ta, và cho đến
đời đời, Danh Ta sẽ không phai (Hc. 24, 9).
Từ đời đời, Ta đă được
tấn phong, ngay từ đầu, trước khi đất
khai sinh” (Cn. 8, 22-23).
Khôn ngoan có
những phẩm tính của Thiên Chúa: là phản ánh của
ánh sáng, là hào quang phát tự vinh quang Thiên Chúa, là Thần Khí
thông minh thánh thiện. “Khôn ngoan là phản ánh sự sáng
hằng có, là gương không t́ ố rọi lại
hoạt động của Thiên Chúa, là h́nh ảnh của
Thiên Chúa toàn thiện” (Kng. 7, 26); “Khôn ngoan là khí thiêng xuất
từ quyền phép Thiên Chúa, là hào quang tinh ṛng tự vinh
quang Đấng toàn năng phát hiện, v́ thế không ǵ
nhơ uế lọt vào được trong” (Kng. 7, 25). “Có
trong khôn ngoan, Thần Khí thông minh thánh thiện, đơn
độc, đa phức, tinh tế, linh động, tinh
ṛng, vô t́ tích, trong suốt, bất khả xâm phạm.” (Kng.
7, 22). V́ vậy, con người phải nài xin Thiên Chúa ban
khôn ngoan của Ngài cho con người (Cn. 2, 6; Hc.1, 8-10; Kng.
9, 4; Job. 28, 12-27).
Luật qua tư
tế, lời qua tiên tri, khôn ngoan qua hiền nhân,
đều có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Tất cả
là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, giúp con
người nhận ra t́nh yêu củaThiên Chúa, giúp con
người sống tốt để trở nên con Thiên
Chúa. Các tác giả sách thánh vào thời văn chương
khôn ngoan, đă dung ḥa được thao thức t́m
kiếm khôn ngoan của người thời đại,
với truyền thống lề luật và lời Thiên Chúa.
Sách Huấn Ca đă đồng nhất ba thực tại
trên với nhau: “Nguồn mạch khôn ngoan chính là lời
Thiên Chúa trên cao, và đường lối của khôn
ngoan là lịnh truyền hằng
có” (Hc. 1, 5). Sự khôn ngoan đích thực đối với
người Do Thái, và sự khôn ngoan này vượt trên các
khôn ngoan của những dân tộc lân cận, là kính sợ
Thiên Chúa và giữ lệnh truyền (lề luật,
lời) của Ngài. Chính điều này làm cho họ trở
thành người khôn ngoan thực sự, và được
trường sinh bất tử. Luật Thiên Chúa ban trên núi
Sinai vẫn là điều cốt cán với người Do
Thái.
Luật, tiên tri và
khôn ngoan, là những thực tại xuất hiện không
chỉ riêng với người Do Thái, nhưng cũng chung
cho các dân tộc vùng cận đông. Điểm đặc
biệt của người Do Thái, là nhận ra luật Torah
như hồng ân Thiên Chúa ban cho những người Ngài
thương yêu tuyển chọn; tiếp đến
với đặc sủng tiên tri, dân Do Thái xác tín rằng
Lời Thiên Chúa được ban cho con người,
để dẫn dắt con người đi trên
đường công chính; và bây giờ với văn
chương khôn ngoan đang thịnh hành ở phương
đông, người Do Thái nhận ra rằng khôn ngoan là
hồng ân Thiên Chúa trao ban cho con người.
Trước khi
bước sang t́m hiểu mặc khải trong Tân
Ước, tóm lại sơ qua cái nh́n của Cựu
Ước xét như mặc khải của Thiên Chúa cho con
người:
Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật và con
người;
đau khổ và sự chết là hậu quả
của tội chống lại Thiên Chúa; hạnh phúc đích
thực của con người tùy thuộc tương giao
của con người đối với Thiên Chúa;
Thiên Chúa đă yêu thương và tuyển chọn
Abraham: chính Ngài đă kêu gọi và lập giao ước
với Abraham, trở thành Thiên Chúa của Abraham, Ysaac, Yacob;
Thiên Chúa đă giải phóng dân Israel khỏi ách nô
lệ Ai cập, Ngài trở thành Đấng giải phóng,
Đấng bảo trợ, Đấng cứu chuộc dân;
Thiên Chúa đă lập giao ước với dân Israel
trên núi Sinai, đă ban lề luật cho dân, đă làm dân Israel
thành dân riêng của Ngài, đă cho dân Israel thành dân tư
tế, trở thành dân trung gian giữa Thiên Chúa và các dân khác,
đă làm dân Israel thành dân qua đó các dân tộc khác
được chúc phúc;
Thiên Chúa muôn đời thành tín. Cho dù dân Israel có
phản bội, th́ Ngài vẫn là Thiên Chúa trung thành; Ngài ban
các thẩm phán để cứu dân, Ngài ban các tiên tri
để giúp dân trở lại với Ngài, để dân
tuân giữ giao ước của Ngài với dân;
Con người và dân Israel luôn luôn phản bội,
nhưng qua đó Thiên Chúa cho thấy Ngài là Thiên Chúa giàu ḷng
thương xót và nhân từ, Ngài luôn tha thứ cho con
người;
Thiên Chúa là Đấng ban khôn ngoan đích thực cho
con người; sự khôn ngoan đích thực không chỉ
nằm trên b́nh diện tri thức ngọn nguồn sự
vật, nhưng chủ yếu hệ tại cuộc
sống; sự khôn ngoan đích thực là kính sợ Thiên
Chúa và tuân giữ lề luật giao ước.
Tất cả Tân
Ước đều xây nền trên biến cố tử
nạn phục sinh của Đức Yêsu Nazareth.
Đức tin của mọi kitô hữu cũng đặt
nền tảng trên biến cố tử nạn phục
sinh của đức Yêsu.
Chính nhờ
biến cố tử nạn phục sinh, mà các tông
đồ nhận ra đức Yêsu là Con Thiên Chúa theo
bản tính. Các tông đồ là những chứng nhân về
biến cố tử nạn phục sinh của đức
Yêsu; các ngài đă đi rao giảng tin mừng Đức
Yêsu Phục Sinh: đức Yêsu đă phục sinh từ cơi
chết, Ngài là Kitô và là Chúa.
Các tông đồ
đă thấy đức Yêsu Phục Sinh. Các ngài đă làm
chứng về những điều tai nghe mắt thấy
“đức Yêsu Phục Sinh”. Các kitô hữu đă tin vào Đức
Yêsu Phục Sinh qua lời rao giảng, qua lời chứng
của các tông đồ. Đức tin của các tông
đồ và của các kitô hữu là một, thời xưa
cũng như thời nay.
Bốn Tin
Mừng mang tên các tông đồ, là đức tin của các
tông đồ, và cũng là đức tin của cộng
đoàn kitô hữu tiên khởi. Các tín hữu tin vào
đức Yêsu Phục Sinh qua lời rao giảng của các
tông đồ. Họ tụ họp nhau để nghe các
tông đồ kể về đức Yêsu, về cuộc
đời và những điều Ngài giảng dạy.
Một số tín hữu có học thức ghi lại
những ǵ các tông đồ rao giảng hoặc kể
về Đức Yêsu. Khi phần lớn các tông đồ
chết[29], các tín
hữu tiên khởi sợ rằng những điều các
tông đồ rao giảng và làm chứng bị mai một
theo thời gian, nên một số người đă thâu
lượm những lời kể của các tông đồ
về Đức Yêsu, cũng như những lời giáo
huấn của đức Yêsu mà các tông đồ đă
thuật lại, và san định thành sách. Đó là lịch
sử h́nh thành các tin mừng, phản ánh đức tin
của các kitô hữu sơ khai cũng như đức tin
của các tông đồ.
a. Đức Yêsu Nazareth phục sinh
Biến cố
tử nạn phục sinh của Đức Yêsu Nazareth
đều được bốn tin mừng ghi lại qua
tŕnh thuật thương khó, mồ trống và những
lần hiện ra.
Đức Yêsu
đă bị bắt vào ban đêm tại vườn dầu
(Mc. 14, 32-52; Mt. 26, 36-56; Lc. 22, 40-53; Ga. 18, 1-11). Ngài
được dẫn tới dinh Hanna, là nhạc phụ
của thượng tế Caipha (Ga. 18, 13); sau đó Ngài
được điệu tới dinh thượng tế
Caipha (Ga. 18, 24) và bị kết án tử ở ṭa Công
Nghị Do Thái (Mc. 14, 53-65; Mt. 26, 57-68; Lc. 22, 54tt). Sáng đến,
Ngài được điệu đến dinh tổng
trấn Philatô (Ga. 18, 28; Mc.15, 1; Lc. 22, 66; Mt. 27, 1-2); sau đó
Ngài được chuyển đến ṭa của Hêrôđê
(Lc. 23, 8-12); rồi Ngài lại được chuyển
về cho Philatô (Ga. 18, 38tt; Mc. 15, 6-15; Mt. 27, 15-26; Lc. 23, 13-25).
Ngài bị kết án tử ở ṭa án Roma bằng sự
ưng thuận của Philatô, v́ ṭa công nghị Do Thái không có
quyền kết án tử h́nh.
Ở
trước ṭa công nghị người Do Thái, Đức
Yêsu bị kết án tử h́nh v́ tội phạm
thượng (Mc. 14, 62-64 và //); nhưng ở trước
ṭa án Roma, Đức Yêsu bị cáo với tội phản
loạn xưng vua (Ga. 18, 12 và //) và bị kết án tử
với tội danh này. Đức Yêsu vác thập giá (Ga. 19,
17-24; Mc. 15, 21-32; Mt. 27, 32-44), bị đóng đinh thập
giá. Ngài đă chết trên thập giá và được mai
táng bởi Yuse Arimathia (Mc. 15, 42tt và //).
ii.
Mồ trống và những lần hiện ra
Đức Yêsu
đă chết và được mai táng vào ngày thứ sáu;
ngày thứ bảy là ngày sabat của người Do Thái nên
không có ai ra thăm mộ Ngài; vào sớm ngày thứ nhất
trong tuần[30], các
chị phụ nữ ra thăm mộ và thấy mồ
trống, không thấy xác Đức Yêsu đâu (Mc. 16, 1-8;
Mt. 28, 1-8; Lc. 24, 1-12; Ga. 20, 1-10).
Đức Yêsu Nazareth chết trên thập tự và
mộ trống, là sự kiện đă được
nhiều người xác nhận, nghĩa là, đây là những sự kiện đă
được kiểm chứng.
Đức Yêsu
Phục Sinh không hiện ra cho tất cả mọi
người, nhưng Ngài chỉ hiện ra cho một
số người. Ngài đă hiện ra cho các tông
đồ ngay chiều ngày thứ nhất trong tuần,
nhưng lần này vắng mặt Thomas (Ga. 20, 19-25). Không
thể tin được chuyện người chết
sống lại, tông đồ Thomas đă nói: “Nếu
nơi tay Ngài, tôi không thấy các dấu đinh, và tra tay tôi
vào lỗ đanh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn
Ngài, tôi sẽ không tin” (Ga. 20, 25). Tám ngày sau, tức cũng
vào ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu lại
hiện ra cho các tông đồ, và lần này có cả Thomas
nữa, Đức Yêsu Phục Sinh đă mời Thomas làm
điều ông muốn để kiểm chứng rằng
Ngài đă sống lại, nhưng Thomas đă thốt lên
lời tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”
(Ga. 20, 28).
Theo tin mừng
Yoan, Đức Yêsu Phục Sinh c̣n hiện ra và chuẩn
bị bữa sáng cho các tông đồ sau khi các ngài đi
đánh cá ở hồ Tibêria (Ga. 21, 1 tt). Theo tin mừng Luca,
Đức Yêsu Phục Sinh đă hiện ra cho hai môn
đệ trên đường Emmau, Ngài cũng hiện ra
trước đó cho Simôn, và cho các tông đồ, cùng ăn
trước mặt họ (Lc. 24, 1 tt). Theo tin mừng
Matthêu, Đức Yêsu đă hiện ra cho nhóm phụ nữ
(Mt. 28, 9tt và //); và Ngài cũng đă hiện ra cho các tông
đồ, cùng dạy họ đi rao giảng và làm phép
rửa nhân danh Ngài (Mt. 28, 16-20). Với mệnh lệnh
đi rao giảng thâu nạp môn đồ khắp muôn dân
này, các tông đồ đă trở thành nhân chứng của
đức Yêsu Phục Sinh, và tin mừng “Đức Yêsu
phục sinh” đă loan truyền khắp thiên hạ.
Tử nạn
phục sinh của Đức Yêsu là sự kiện,
nhưng là sự kiện đức tin, biến cố
đức tin. Đức Yêsu Phục Sinh không hiện ra cho
tất cả mọi người, thế nên để tin
Đức Yêsu phục sinh, người ta cần ân
sủng của Thiên Chúa, cần tác động của Chúa
Thánh Thần để tin vào lời rao giảng của các
tông đồ và những người kế vị các ngài.
Mầu nhiệm cứu độ được thực
hiện qua trung gian con người với ân sủng
của Thánh Thần.
Đức tin
của kitô hữu hiện thời, cũng là đức tin
của các kitô hữu tiên khởi, và cũng là đức
tin của các tông đồ. Có thể nói, đức tin
của các tông đồ được diễn tả qua
năm bài giảng được ghi lại trong sách Công
Vụ các tông đồ:
·
Lời rao
giảng của Phêrô sau khi nhận lănh Thánh Thần trong ngày
lễ ngũ tuần (Cv. 2, 14-39);
·
Lời rao
giảng của Phêrô ở đền thờ sau khi chữa
lành người què ở đền thờ (Cv. 3,12-26);
·
Lời rao
giảng của Phêrô trước công nghị Do Thái sau khi
Ngài chữa lành người què và bị bắt (Cv. 4, 9-12);
·
Lời
giảng của Phêrô trước công nghị sau khi
được thiên thần giải phóng khỏi tù
để tiếp tục rao giảng trong đền
thờ (Cv. 5, 29-32);
·
Lời rao
giảng của Phêrô tại nhà Côrnêliô (Cv.10, 34-43).
Trong sách Công
vụ tông đồ, và đặc biệt trong năm bài
giảng, luôn luôn thấy lặp đi lặp lại
khẳng định: các tông đồ là những chứng
nhân phục sinh của Đức Yêsu Kitô (Cv. 1, 8. 22; 2, 32;
3, 15; 5, 32;10, 39. 41; 13, 31 v.v.):
·
Cv. 1, 8: Các
ngươi là chứng nhân cho Ta ở Yêrusalem và mút cùng
bờ cơi trái đất.
·
Cv. 2, 32:
Thiên Chúa đă phục sinh Đức Yêsu. Chúng tôi là chứng
nhân của những điều này, chúng tôi và Thánh Thần.
·
Cv. 4, 20:
Chúng tôi không thể không nói về những điều
đă thấy và đă nghe.
·
Cv. 10, 39:
chúng tôi là chứng nhân về những điều Ngài đă
làm trong vùng người Do Thái và ở Giêrusalem.
Là tông đồ, nghĩa là, chứng nhân của
Đức Yêsu Phục Sinh; v́ vậy tiêu chuẩn
để chọn một người thay thế Yuđa
Iscariot, phải là người đă đồng hành với
các tông đồ suốt thời gian mà Đức Yêsu
đă ra vào giữa các Ngài (Cv. 1, 21-22).
Bây giờ xét
kỹ một bài rao giảng của Phêrô để thấy
rơ trọng tâm lời rao giảng của các tông đồ,
chẳng hạn Cv.2, 14-40:
·
Cv.2, 14-21:
lời kêu gọi dân chúng, lư do;
·
Cv.2, 22-24:
nội dung chính của lời rao giảng “Đức Yêsu,
Đấng anh em đă nộp và giết đi, Thiên Chúa
đă làm cho Ngài sống lại”;
·
Cv.2, 25-28: trích
dẫn Tv.16 để minh chứng;
·
Cv.2, 29-31:
chú giải thánh vịnh hướng về đức Yêsu;
·
Cv.2, 32-33:
trở lại lời rao giảng và làm rơ hơn;
·
Cv.2, 34-35:
trích dẫn Tv.110 để minh chứng khẳng
định;
·
Cv.2, 36:
trở lại lời rao giảng, kêu gọi dân chúng tin vào
sự kiện phục sinh của Đức Yêsu “Thiên Chúa
đă đặt làm Chúa và làm Kitô, Đức Yêsu mà các
người đă đóng đinh kia” (Cv. 2, 32).
Không phải
chỉ một ḿnh Phêrô làm chứng, nhưng tất cả
các tông đồ, tập thể những người
đă đi theo Đức Yêsu, những người đă
sống với Ngài, đă chứng kiến Ngài chịu
khổ h́nh, và cũng là những người đă thấy
và sống với Đức Yêsu Phục Sinh.
Đức Yêsu
Phục Sinh đó, “Thiên Chúa đă đặt làm Chúa và làm
Kitô”, Người mà các ông đă đóng đinh (Cv. 2, 36),
Ngài “được nhắc lên bên hữu Thiên Chúa” (Cv. 2, 33).
Đây là cách diễn tả hữu h́nh một thực
tại vô h́nh: “ngồi bên hữu Thiên Chúa”. Thiên Chúa là
Đấng thiêng liêng! Ngồi bên hữu ai, là ngang hàng
với người ấy. Đức Yêsu Phục Sinh
được siêu tôn trên tất cả, để
được ngồi bên hữu Thiên Chúa.
Khi Đức Yêsu
Nazarét c̣n sống, Ngài đă được coi là một tiên
tri, là đấng Thiên Sai[31],
là con Thiên Chúa[32];
c̣n với biến cố phục sinh, các tông đồ
đă nhận ra Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
Đức Yêsu
bắt đầu sứ mạng của Ngài với cách
thức của một tiên tri. Như Yona rao giảng
thống hối, và như Yoan tẩy giả, Đức
Yêsu bắt đầu rao giảng: “hăy thống hối và
tin vào tin mừng, v́ Nước Trời đă gần
đến” (Mc.1, 14-15; Mt. 4, 17).
Trong hội
đường tại Nazarét, Đức Yêsu đă dùng
bản văn trong sách đệ nhị Ysaya nói về
vị thiên sai tiên tri để áp dụng cho chính ḿnh: “Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đă sai tôi đi rao
giảng tin mừng cho người nghèo khó” (Lc.4, 18-19 cf. Ys.
61, 1 tt). Dân thành Naim, sau khi thấy Đức Yêsu làm cho con
trai bà góa sống lại, đă đồng thanh nói “một
tiên tri cao cả đă xuất hiện giữa chúng ta” (Lc.7,
16). Các tông đồ cũng xác nhận sự kiện dân
chúng cho rằng Đức Yêsu là một tiên tri (Mt. 16, 14).
Biệt phái và tư tế không dám bắt Ngài khi Ngài đang
rao giảng, v́ dân chúng coi Ngài là một tiên tri (Mt. 21, 46). Hai
môn đệ Emmau cho rằng Đức Yêsu là vị tiên tri
quyền năng trong lời nói và hành động (Lc. 24, 19).
Dân chúng cũng cho rằng Đức Yêsu là vị tiên tri
phải đến mà mọi người đợi trông
(Mt. 21, 10-11 cf. Đnl. 18, 18).
Tuy Đức Yêsu
không tự nhận ḿnh là một tiên tri, nhưng Ngài tiên
đoán số phận của Ngài là số phận của
một tiên tri: bị khinh khi nơi quê hương xứ sở
(Mt. 13, 57) và bị chết ở Yêrusalem (Lc. 13, 33).
Xét như
người mặc khải, Ngài lớn hơn Yona (Mt. 12,
40), lớn hơn Môsê và Êlia (cf. Mc. 9, 2-10; Mt. 17, 1-13; Lc. 9,
28-36), lớn hơn David (Mc. 12, 35-37 và //), và lớn hơn
Yoan tiền hô[33]
(Lc. 7, 18-23 và //). Đức Yêsu là Đấng kiện toàn
lề luật và các tiên tri (Mt. 5, 17); Ngài không nói “Yahweh
phán...” như các tiên tri đă thường nói, nhưng Ngài
lại nói: “c̣n ta, Ta bảo các ngươi” (Mt. 5, 22. 28. 32);
“Ngài giảng dạy như một Đấng có uy
quyền” (Mc.1, 27).
Kitô (CristoV) hay Massiah[34],
có nghĩa là “được xức dầu”. Trong truyền
thống Do Thái, người “được xức
dầu” là:
·
vua,
được Thiên Chúa trao ban sứ mạng (1S. 10, 1tt; 16,
1tt; 1V. 1, 39; 2V. 9, 6; 11, 12),
·
thượng
tế (Xh. 29, 7. 29; Lv. 4, 3. 5. 16; 8, 12 cf. Za. 4, 14) hoặc các
tư tế (Xh. 30, 30; 28, 41; 40, 15; Lv. 7, 36; 10, 7; Ds. 3, 3),
·
các tiên tri
(Ys. 61, 1tt).
Các vị vua thường được các tư
tế hay tiên tri xức dầu (cf. 1S. 16, 13; 1V. 1, 39; 2V. 9,
6). Aharon và các con ông, được Môsê xức dầu
tấn phong làm tư tế (Xh. 30, 30). Các tiên tri, những
người của Thần Khí (Hos. 9, 7), nên việc xức
dầu của tiên tri cũng là việc của Thần Khí
(Ys. 61, 1tt).
Thời
đức Yêsu, người Do Thái sống dưới ách
đô hộ của người Roma, nên họ vẫn mong
Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai Vua tới để giải
phóng họ khỏi ách thống trị của người
Roma. Niềm khao khát mong muốn có Đấng Thiên Sai Vua
rất mạnh đối với người Do Thái trong
thời điểm này. Điều này có thể
được thấy qua việc Yoan tẩy giả sai
người thỉnh vấn xem Đức Yêsu có phải là
Đấng phải đến không (Lc. 7, 19-20), và qua
biến cố dân chúng muốn tôn đức Yêsu làm vua sau
khi Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Ga. 6, 15).
Các tông đồ
cũng cho rằng Đức Yêsu là Kitô[35].
Đức Yêsu chấp nhận đúng là như vậy,
nhưng Ngài không muốn cho dân chúng biết (Mt. 16, 20), v́
họ thường hiểu Kitô theo nghĩa Kitô Vua chính
trị, Đấng đến để giải phóng
họ khỏi bị người Roma đô hộ.
Dân chúng khi
rước đức Yêsu vào thành Yêrusalem long trọng, là
tiếp đón Ngài như một vị vua thiên sai (Mt. 21,
1-11). Ngài ngồi trên lưng lừa, theo như tiên tri
Zacharia loan báo (Zac. 9, 9), để khẳng định tính
vua thiên sai của Ngài, nhưng không như người ta
mong đợi. Trước ṭa Philatô, chính đức Yêsu
đă nhận “tôi là vua, chính v́ lẽ này mà tôi sinh ra...
nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này”
(Ga. 18, 37. 36).
Đức Yêsu là
Kitô, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Giải Phóng; Ngài
đến không phải để giải phóng con
người khỏi ách nô lệ chính trị, nhưng
để giải phóng con người khỏi tội,
khỏi làm nô lệ ma quỷ; Ngài là vua, nhưng là vua trong
ḷng mọi người.
Với biến
cố phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ
có cái nh́n mới về Đức Yêsu. Trước các ngài
thấy Đức Yêsu là một tiên tri, là đấng Kitô;
nhưng với biến cố Đức Yêsu Phục Sinh,
và những lần tiếp xúc với Ngài sau khi Ngài phục
sinh, các tông đồ c̣n thấy cái ǵ hơn nữa. Các tông
đồ đă nhớ lại những lời nói của
Ngài, những việc Ngài đă làm, và đă nhận ra Ngài là
Con Thiên Chúa theo nghĩa rất đặc biệt.
Từ ngữ
“một Thiên Chúa ba ngôi vị” cũng như từ ngữ
“Đức Yêsu đồng bản tính với Thiên Chúa”, là
những phạm trù thần học có sau này; nhưng
nội dung đức tin “Đức Yêsu là Thiên Chúa”, đă
có nơi các tông đồ với kinh nghiệm gặp
gỡ Đức Yêsu Phục Sinh.
Chỉ có một
ḿnh Thiên Chúa có thể tha tội; thế mà Đức Yêsu
đă tha tội! Đức Yêsu phạm thượng hay
Đức Yêsu là Thiên Chúa? Khi chữa lành người bất
toại, Đức Yêsu nói “tội lỗi của con đă
được tha” (Mc. 2, 5); và khi bị phản
đối, Ngài nói “để các ông biết con người
có quyền tha tội dưới đất- Ngài nói với
người bất toại- Ta bảo ngươi, hăy
chỗi dậy vác chơng mà về nhà” (Mc. 2, 9-11). Nếu
Đức Yêsu phạm thượng, chắc chắn Ngài
không thể làm phép lạ chữa lành người bất
toại được. Đây cũng là lư luận của
người mù từ thuở mới sinh (Ga. 9, 1tt); anh ta
đă trả lời tương tự như thế khi
người biệt phái và kư lục muốn anh ta nói
rằng Đức Yêsu là người tội lỗi: “Điều
này quả cũng lạ! Các ông lại không biết ông
ấy tự đâu ra! ông ấy đă mở mắt cho tôi!
chúng tôi biết Thiên Chúa không nhậm lời những
hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa và làm theo ư
Người, th́ Người nhậm lời kẻ ấy.
Không đời nào thiên hạ đă nghe ai mở mắt
đứa mù từ thuở mới sinh. Nếu ông ấy
không bởi Thiên Chúa mà đến, th́ đă chẳng làm
được ǵ” (Ga. 9, 30-33).
Đức Yêsu,
khi sinh thời, Ngài đă nói: “Ta và Cha là một”.
“Người Do Thái lại vác đá ném Ngài v́... một
lời phạm thượng! ông là người phàm mà dám cho
ḿnh là Thiên Chúa” (Ga. 10, 30. 31. 33).
Khi thẩm
vấn Đức Yêsu trước công nghị Do Thái,
vị Thượng Tế hỏi Đức Yêsu: “Ông là
Đức Kitô Con Đấng đáng chúc tụng ư?
Đức Yêsu đáp lại: Chính là tôi! và các ông sẽ
thấy Con Người ngự bên hữu quyền năng
và đến với mây trời. Thượng tế
mới xé toạc phẩm phục của ḿnh ra và nói: Nào c̣n
cần ǵ đến nhân chứng nữa! Các người
vừa nghe lời phạm thượng! Các ngài thấy sao?
Họ đều quyết nghị Ngài can án chết” (Mc. 14,
61-64).
“Con người
ngự bên hữu quyền năng”, đây là lời nói cho
thấy Đức Yêsu ư thức thân phận ḿnh, cao hơn
mọi tạo vật, ngang hàng với Thiên Chúa quyền
năng. Chính v́ vậy mà các người trong công nghị
mới cho rằng Đức Yêsu phạm thượng, và
đáng bị kết án tử h́nh.
Với biến
cố Đức Yêsu Phục Sinh, lời Đức Yêsu đă
nói khi sinh thời được bảo đảm là
lời chân thực, được Thiên Chúa bảo
đảm. V́ nếu Ngài nói lời gian dối, th́ Thiên Chúa
đă chẳng phục sinh Ngài từ cơi chết; chính
biến cố tử nạn và phục sinh của
Đức Yêsu, làm các tông đồ nhận ra rằng,
Đức Yêsu là Kitô, là Chúa, là Đấng ngự bên
hữu Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa theo nghĩa rất
đặc biệt (tử hệ thần linh), là Thiên Chúa.
iv.
Đức Yêsu là Con Thiên Chúa
Tước
hiệu “con Thiên Chúa” đă được dùng nhiều trong
Cựu Ước. Nó không thiết yếu diễn tả
tử hệ bản tính (nguồn gốc thần linh
của người hay ngôi vị được gọi);
nó có thể chỉ là tử hệ thừa nhận, là
kết quả của việc tuyển chọn của Thiên
Chúa đối với tạo vật trong một
tương quan đặc biệt. Trong nghĩa này,
tước hiệu “con Thiên Chúa” đă được gán
cho các thiên thần (Job. 1, 6; Đnl. 32, 8), cho dân
được tuyển chọn (Xh. 4, 22; Kng.18, 13; Đnl.
1, 31; 7, 6), cho các người Israel và những người
công chính (Đnl. 14, 1; Hos. 2, 1 cf. Mt. 5, 9. 45), cho các vị
thủ lănh (Tv. 82, 6), cho vị vua thiên sai (1 Ks. 17, 13; Tv. 2, 7;
89, 27).
Như vậy,
tước hiệu này không hàm chứa người
được gọi mang thần tính. Trường
hợp Đức Yêsu được gọi là “con Thiên
Chúa”, cũng được hiểu như vậy. Không
thể đ̣i hỏi từ ngữ “con Thiên Chúa” mà Satan
gọi Đức Yêsu (Mt. 4, 3. 6), hay các thần ô uế (Mc.
3, 11; 5,7; Lc. 4, 41), hay của viên bách quản (Mc. 15, 39; Lc. 23,
47), hàm chứa chỉ Đức Yêsu là Con Thiên Chúa theo
bản tính. Và câu hỏi của thượng tế
trước ṭa công nghị (Mt. 26, 3), cũng không
vượt qua ư nghĩa thiên sai.
Tuy vậy,
tước hiệu “con Thiên Chúa” có thể được
hiểu theo một nghĩa rất đặc biệt,
như tử hệ theo bản chất. Đức Yêsu trong
dụ ngôn những người làm vườn nho giết
người, đă tự nhận ḿnh như người
con thừa tự duy nhất (Mc.
12, 6; Mt. 21, 37); Đức Yêsu có Thiên Chúa là Cha cách rất
đặc biệt (Ga. 20, 17; Mt. 7, 21; 10, 32-33; 11, 27; 12, 50);
Ngài là con cưng, con chí ái (Mc. 1, 11 và //; Mt. 3,17; 17, 5); Ngài là
người con duy nhất có chỗ đứng đặc
biệt và có trách nhiệm đặc biệt: “không ai
biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ Con và những
người Con muốn mặc khải cho” (Mt. 11, 25-27).
Động từ ginoskein và epiginoskein chỉ sự biết bằng
kinh nghiệm và bằng đời sống thân thiết.
Những lời trên, cộng thêm với những lời
khác về phẩm tính thiên sai thần linh của Ngài, và
tất cả được xác chuẩn bởi biến
cố phục sinh, làm cho từ ngữ “con Thiên Chúa” nơi
Đức Yêsu mang ư nghĩa chỉ tử hệ theo
bản tính thần linh[36].
Chỉ với ánh
sáng của biến cố phục sinh, các tông đồ
mới nhận ra ư nghĩa thâm sâu của tước
hiệu “Con Thiên Chúa” nơi Đức Yêsu.
V́
là Lời nhập thể, Đức Yêsu đă mặc
khải Thiên Chúa cách tuyệt vời. Không có Đức Yêsu,
con người không thể biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.
Với ánh sáng
phục sinh, tông đồ Yoan đă nhớ lại lời
Đức Yêsu đă nói với Nicôđêmô vào ban đêm:
“Thiên Chúa đă yêu mến thế gian, đến đỗi
đă ban Con Một của Ngài, ngỏ hầu mọi
kẻ tin vào Ngài th́ không phải hư đi, nhưng
được sự sống đời đời” (Ga. 3,
16).
Trong lời
cầu nguyện trước khi chịu khổ h́nh,
Đức Yêsu đă nói: “sự sống đời
đời là chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa đích
thực và độc nhất, và Đấng Cha sai
đến, Yêsu Kitô” (Ga. 17, 3).
Đức Yêsu là
Lời Thiên Chúa cứu độ con người. Ngài
mặc khải Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga. 14,
9), “Không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn
mặc khải cho” (Mt. 11, 25-27; Ga. 14, 6-7). Con người
biết ǵ về Thiên Chúa, là biết qua đức Yêsu Kitô,
và biết trong Đức Yêsu Kitô. Không có tri thức đích
thực về Thiên Chúa nếu không qua Lời Thiên Chúa, và
cụ thể là qua Đức Yêsu Kitô. Biết Thiên Chúa, là
biết Ngài yêu thương con người vô cùng.
Đức Yêsu
đă mặc khải Thánh Thần. Ngài nói về Thần Khí
như một ngôi vị: “Và ai có nói lời nghịch
đến Con Người, điều đó có thể tha
thứ được cho người ấy; nhưng
nếu ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều
ấy sẽ không tha thứ cho người đó,
đời này cũng như đời sau” (Mt. 12, 32).
Theo tin mừng
Yoan, Đức Yêsu cho thấy chân tướng của Thánh
Thần. Thánh Thần đến từ Cha, Ngài
được gọi là Đấng Bầu Chữa khác
(Ga. 14, 16). Đấng Bầu Chữa, là Thần Khí Sự
Thật, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người,
cũng như Con Một của Thiên Chúa cũng
được ban tặng con người (Ga. 14, 16; 3, 16),
để ở với con người luôn măi. Thánh Thần,
Đấng Bầu Chữa, được Cha sai
đến nhân danh Đức Yêsu, với sứ mạng
dạy và nhắc nhớ: “Đấng Bầu Chữa, Thánh
Thần Cha sẽ sai nhân danh Ta, Ngài sẽ dạy các
ngươi mọi sự, và sẽ nhắc lại cho các
ngươi mọi điều chính Ta đă nói” (Ga. 14, 26).
Thánh Thần,
được Đức Yêsu gởi tới, để làm
chứng cho Đức Yêsu:
“Đấng Bầu chữa, khi Ngài đến, Ngài mà
Ta sẽ từ nơi Cha gởi đến, Thần Khí
Sự Thật, Đấng tự Cha mà xuất ra, Ngài
sẽ làm chứng về Ta” (Ga. 15, 26);
“C̣n nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến cùng các
ngươi” (Ga. 16, 7);
sứ mạng của Thánh Thần là “biện bác
thế gian về tội, về sự công chính, về án
xử” (Ga. 16, 8).
“Ngài sẽ dẫn các ngươi vào tất cả
sự thật... Ngài sẽ làm Ta được vinh
hiển... Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các
ngươi” (Ga. 16, 13.14).
Thánh Thần có
cùng nguồn gốc với Đức Yêsu, cùng
được Cha sai (Ga. 14, 26; 17, 3). Cả hai cùng
được trao ban sứ mạng. Đức Yêsu luôn
lấy ư Cha làm ư ḿnh, làm của ăn, và Ngài chu toàn công
việc Cha giao phó (Mt. 26, 39 //; Mc. 14, 36; Ga. 4, 34; Ga. 17, 4).
Thánh Thần được sai đến để ở
với con người, để làm chứng cho
Đức Yêsu (Ga. 14, 16; 15, 26).
Sau biến cố
phục sinh, Đức Yêsu Phục Sinh đă ban Thánh
Thần cho các tông đồ (Ga. 20, 22), và khi tới thời
đă định, Thánh Thần tỏ hiện quyền
năng của Người trong ngày lễ Ngũ Tuần
(Cv. 2, 1tt).
iii.
Hội Thánh tiếp tục công tŕnh của Ngài
Thiên Chúa là
Đấng yêu mến thế gian, yêu mến con
người đến cùng cực, Ngài muốn con
người được sống đời đời.
Chính để cứu độ con người, mà ngôi
Lời đă nhập thể làm người, và để
tiếp tục công tŕnh cứu độ, Ngài đă
thiết lập Hội Thánh và Thánh Thần của Ngài
vẫn luôn hoạt động nơi Hội Thánh trên
trần gian. Đức Yêsu
đă tuyển chọn nhóm mười hai, để họ
ở với Ngài và để Ngài sai đi rao giảng (Mc.
3,14). Giữa nhóm mười hai này, Phêrô được
chọn như người đại diện: “C̣n tôi, tôi
bảo ông: ông là Đá (Phêrô) và trên đá ấy tôi sẽ xây
Hội Thánh của tôi, và cửa âm phủ sẽ không
thắng được. Tôi sẽ trao cho ông ch́a khóa
Nước Trời” (Mt. 16, 18-19).
Simon Phêrô cũng
được Đức Yêsu trao nhiệm vụ củng
cố đức tin của anh em ḿnh: “Simon, Simon, này Satan
đă đ̣i được các ông, để quày cho một
trận như sàng lúa, nhưng tôi đă cầu xin cho ông,
để ḷng tin của ông không bị sờn núng. Phần
ông, khi trở lại rồi th́ lo cho anh em ông
được vững mạnh” (Lc. 22, 31-32); và hơn
nữa, Phêrô c̣n được trao trọng trách chăn
cả chiên con lẫn chiên mẹ (Ga. 21, 15. 16.17).
Về phần các
tông đồ, Đức Yêsu nói: “Các ông là những
người hằng bền đỗ ở với tôi
giữa các cơn thử thách tôi phải chịu; và tôi cho
các ông thông chia quyền Nước tôi, như Cha tôi đă
thông ban cho tôi, các ông sẽ được ăn uống
nơi bàn tiệc tôi, trong Nước của tôi, và các ông
sẽ được ngự trên ngai mà đoán xét
mười hai chi tộc Israel” (Lc. 22, 28-30).
Sứ mạng
của các tông đồ cũng được Đức
Yêsu lập lại rơ ràng sau khi Ngài phục sinh: “Cũng
như Cha đă sai Ta, Ta cũng sai các ngươi” (Ga. 20,
21). Theo tin mừng Matthêu, lần cuối cùng hiện ra
với các tông đồ, Đức Yêsu cũng nói: “Mọi
quyền năng trên trời dưới đất đă
được trao ban cho Ta. Vậy các ngươi hăy đi
thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng,
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy chúng giữ hết
mọi điều Ta đă truyền cho các ngươi” (Mt.
28, 18-20).
Theo tin mừng
Yoan, trong những lời tâm huyết cuối cùng,
Đức Yêsu đă nói về Đấng Bầu chữa,
Thánh Thần sự thật. Đức Yêsu hứa sẽ
sai Đấng Bầu Chữa đến khi Ngài ở bên
Cha, và Thần Khí sự thật sẽ làm chứng cho Ngài
(Ga. 15, 26). Đức Yêsu c̣n nói thêm: “Và các ngươi
cũng sẽ làm chứng, v́ từ ban đầu các
ngươi hằng ở với Ta” (Ga. 15, 27).
Chỉ với
biến cố Thánh Thần tỏ hiện trong ngày lễ
Ngũ Tuần, các tông đồ và đại diện là
Phêrô, mới can đảm đứng lên rao giảng làm chứng
cho Đức Yêsu Phục Sinh (Cv. 2, 1tt). Phải chăng
nếu Thánh Thần không được ban cho các tông
đồ, các tông đồ đă không đủ can
đảm và khôn ngoan làm chứng cho Đức Yêsu Phục
Sinh; cũng có thể nói: chính Thánh Thần đă làm
chứng về Đức Yêsu Phục sinh qua các tông
đồ, qua những người kế vị các Ngài, và
qua những kẻ tin vào Đức Yêsu Phục Sinh. Chính các
tông đồ là những người ư thức về
sứ mạng làm chứng của Thánh Thần ngang qua các
ngài, nên Phêrô đă nói: “và chúng tôi đây xin làm chứng
về các điều ấy cùng với Thánh Thần...(Cv. 5,
32)”.
Lịch sử
Hội Thánh, là lịch sử Thánh Thần hoạt
động trong Hội Thánh nơi mỗi kẻ tin. Sách
Công Vụ Tông Đồ cho thấy những tác động
của Thánh Thần:
·
Chính
Thần Khí tác động khiến các tông đồ rao
giảng làm chứng cho Đức Yêsu Phục Sinh, cũng
chính Thần Khí sai Barnaba và Saolô đi rao giảng (Cv. 13, 2.
4).
·
“Không ai có
thể nói: Yêsu là Chúa, mà lại không bởi sức Thánh
Thần” (1Cor. 12, 3).
Thiên Chúa đă làm
tất cả cho con người! Điều con
người ngày xưa ao ước như sống lâu,
tồn tại qua con cháu, hạnh phúc như sung túc về
của cải và có đất sinh nhai[37],
th́ ngày nay, tất cả những điều đó
được hoàn tất nơi Đức Yêsu như
bảo đảm để được sống
đời đời, được sống hạnh phúc
v́ có Thiên Chúa làm gia nghiệp, có Nước Trời là
sở hữu vĩnh cửu (x. Mt. 5, 2. 4). Có Thiên Chúa là có
tất cả, tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Yêsu Kitô là
được sự sống đời đời, là
được chính Thiên Chúa là gia nghiệp.
Được
yêu thương như vậy, con người phải có
thái độ sống tương hợp: tin tưởng
vào Thiên Chúa quan pḥng yêu thương (Mt. 6, 25-34). Tâm t́nh
phải có đối với Thiên Chúa là tâm t́nh cha con, tâm t́nh
của những người được yêu (Mt. 6, 5-15 và
//). Thái độ đối với anh em: phải yêu
thương nhau như Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta
(Mt. 5, 38-48), đừng thù hận, hăy ăn chay và bố thí
(Mt. 6, 1-4; 6, 16-21), đừng xét đoán (Mt. 7, 1-5). Thái
độ đối với của cải: xem nó chỉ là
phương tiện, không được coi tiền
của như ông chủ (Mt. 6, 24. 19-21).
HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] Về các nổi khổ đau của dân con Israel, xem thêm Xh. 1; 2, 23-25; 3, 9
[2] Như thấy trong những tŕnh thuật tiếp theo, dân con Israel liên tục bất tuân lệnh Chúa và luôn càm ràm than trách Yahweh.
[3] Có lần Thiên Chúa nổi nóng với Môsê (Xh. 4, 14); và nhiều lần Môsê t́m cách thoái thác sứ mạng (Xh. 3, 11; 4, 1. 10; 4, 13; 5, 22tt)
[4] Yahweh phán với Môsê: Khi ngươi trẩy đi để về Ai cập, ngươi hăy nh́n tỏ là các điềm thiêng Ta sẽ đặt tay ngươi th́ ngươi sẽ làm trước mặt Pharaô.
[5] Nhưng Ta sẽ làm cho nó cứng ḷng và nó sẽ không buông thả dân đâu. Bấy giờ ngươi sẽ nói với Pharaô “Yahweh phán rằng: con đầu ḷng của Ta là Israel nên Ta đă nói với ngươi: Hăy buông thả cho con Ta đi để nó phụng thờ Ta! Nhưng ngươi đă khước từ không chịu thả ra, th́ này phần Ta, Ta sẽ giết chết con đầu ḷng của ngươi” (Xh. 4, 19. 21-23).
[6] Cái chết thể xác của các con đầu ḷng người Ai Cập có thể là điều gây cái tốt nơi Pharaô và con dân Ai cập: v́ họ có thể nhận ra Yahweh và thống hối, quay trở về với Người, không c̣n bất tuân lệnh Người nữa. Trong cái nh́n của chúng ta, cái chết thể xác không là điều ác tuyệt đối khi nó giúp chúng ta trở về với Chúa, được sống đời đời trong tương lai.
[7] J. E. McKENZIE, art. “Aspects of Old Testament Thought”, trong Jerome Biblical Commentary, p. 749
[8] Art. cit., p. 750
[9] Nơi Israel cũng có những bộ sưu tập luật, chẳng hạn, tập luật trong sách giao ước (Xh. 20, 22- 23, 19), sách luật (Đnl. 12-26), bộ luật thánh (Lv. 17-26).
[10] Art. cit., p. 751
[11] Yêu thương là hành vi tự do và nhưng không.
[12] R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB-PARIS 1966, p. 28
trích dẫn J. PEDERSON, Israel: life and culture, LONDON 1946, p. 107
[13] Ibid., p. 388
[14] H. FRIES, Art. “La Révélation”, trong MYSTERIUM SALUTIS, t. I, vol. I, CERF-PARIS 1969, p. 262 trích dẫn E. BRUNNER, Offenbarung und Vernunft, p. 103
[15] R. LATOURELLE, op. cit., p. 18
[16] không chủ yếu cho người thời tương lai, dù rằng có thể giúp cho người thời tương lai.
[17] H. FRIES, art. cit., p. 262
[18] J. L. McKENZIE, art. cit., p. 750
[19] Ibidem
[20] Ibidem
[21] H. CAZELLES, Introduction à la Bible (Introduction critique à l'ancient Testtament), t. II, DDB. 1973, p. 359
[22] H. FRIES, art. cit., p. 225; trích dẫn F. STIER, Die Geschichte Gottes mit den Menschen, DUESSELDORF 1962, pp. 40tt
[23] thần ngoại, hebel.
[24] trong giao ước, vua được dân công nhận.
[25] J. L. McKENZIE, art. cit., p. 749
[26] Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhắc đến khôn ngoan của Ai cập (Ys. 19, 3-15; Kng. 17, 7), khôn ngoan của Babylon (Ys. 47, 10-13; Yer. 10, 7; 50, 35), khôn ngoan của Ả rập (1V. 5, 10; Yer. 49, 7; Bar. 3, 22); nhưng khôn ngoan của Salomon vượt trên các khôn ngoan của Ai cập và phương đông (1V. 5, 10) và trên các khôn ngoan của người bản xứ Canaan, tức là của Etan và Hêman (Tv. 88-89).
[27] R. LATOURELLE, op. cit., p. 26 trích dẫn R. W. ROBINSON, Inspiration and Revelation in the Old Testament, p. 235-237
[28] Nơi các dân tộc lân cận, có những trung tâm để dạy khôn ngoan và khoa học như ở Mari, Ugarit, Ai cập, và Lưỡng Hà Địa. Những địa danh vừa kể là những trung tâm văn hóa.
[29] v́ niềm tin mà bị giết.
[30] bây giờ chúng ta gọi là ngày Chúa Nhật.
[31] Massiah, Christos, Đức Kitô, đấng được xức dầu.
[32] Chúng ta cũng được gọi là con Thiên Chúa, nhưng là con v́ chúng ta được nhận ; con Thiên Chúa như người ta hiểu Đức Yêsu trước biến cố phục sinh, cũng là con thừa nhận, không phải là con đồng bản tính như các tông đồ biết sau biến cố tử nạn và phục sinh.
[33] Yoan tiền sai môn đệ đến thỉnh vấn; Đức Yêsu cho ḿnh vượt trên các tiên tri như người con vượt trên các đầy tớ (Mc. 12, 1-12).
[34] chữ Do Thái đă được viết bằng mẫu tự latinh.
[35] Đấng thiên sai, Đấng được xức dầu.
[36] như thấy trong Rm. 9, 5; Ga. 1, 1. 18; 20, 28; 1Ga.5, 20; Tit. 2, 13
[37] ơn gọi Abraham.