HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
MẶC KHẢI
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC
LỤC:
Vatican I
(08.12.1869-20.10.1870), là công đồng đầu tiên bàn
về mặc khải. Để hiểu sâu xa giáo lý
của công đồng, cần tìm hiểu những quan
niệm về mặc khải của thời đó.
Sau công
đồng Trentô, mặc khải là vấn đề sôi
bỏng đối với anh em tin lành; và như vậy,
mặc khải cũng là vấn đề được
các thần học gia công giáo lưu ý. Những người
theo thần giáo (Deism) cho rằng có Thiên Chúa nhưng không
cần mặc khải; lý trí con người có khả
năng nhận biết chân lý, ngay cả những chân lý
về bản tính Thiên Chúa.
i.
Một vài tác giả tin lành và thần giáo
Benedict Spinoza
(1632-1677) chủ trương chỉ có lý trí có thẩm
quyền trong lãnh vực chân lý; mặc khải chỉ liên
quan đến sự vâng phục và đạo đức;
thần học chỉ nên gồm những định tín
về đức tin phải vâng phục và để cho lý
trí xác định cách chính xác những chân lý phải
được hiểu thế nào. Mặc khải theo
Spinoza, không thêm gì cho điều có thể được lý
trí biết[1].
John Locke (1632-1704),
trong tác phẩm Essay concerning Human Understanding xuất bản
vào năm 1700, cho rằng lý trí là mặc khải tự
nhiên, ở đó Cha Vĩnh Cửu của ánh sáng và là
nguồn của mọi điều hiểu biết thông
truyền cho nhân loại một phần sự thật mà
Ngài đã để lại trong tầm với của
khả năng tự nhiên của con người. Mặc
khải là lý trí tự nhiên được nới rộng
bởi những khám phá.
Những khám phá
ở đây là gì? John Loke cho rằng đây là những
điều có thể biết được bởi
những người khôn ngoan, còn những người không
có học không thể biết được[2].
Gotthold Ephraim
Lessing (1729-1781) xác tín rằng chỉ có một tôn giáo
đích thực, đó là tôn giáo tự nhiên, tôn giáo nằm
trong phạm vi của lý trí con người.
Lessing cho rằng,
mặc khải thì chân thực và có giá trị như một
phương pháp giáo dục con người trong những
điều chưa được lý trí khám phá ra. Vì tiến
trình giáo dục này không bao giờ chấm dứt nên theo
Lessing, nếu kitô giáo được thanh tẩy khỏi
những yếu tố phi lý và mầu nhiệm, thì kitô giáo
sẽ là tôn giáo gần nhất với tôn giáo tự nhiên.
Theo Lessing,
chứng từ tốt nhất của kitô giáo là cái biết
Thiên Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân. Đây là điều
Lessing gọi là “chứng từ của Thánh Thần và
của quyền năng” (cf. 1Cor. 2, 4); ông đã dùng từ
ngữ trên để đề tựa một bài suy
ngắm. Chân lý thâm sâu của kitô giáo hệ tại sự
kiện: mặc khải nói trực tiếp với lòng chúng
ta và với sự chắc chắn cho chúng ta[3].
Emmanuel Kant
(1724-1804) cũng đồng quan niệm với Lessing
về tri thức lịch sử, nhưng Kant ý thức
giới hạn của lý trí con người. Kant cho
rằng, lý trí thuần lý (pure reason) không thể chứng
minh sự hiện hữu của những thực tại
siêu việt; tuy vậy, những ý niệm của lý trí
thuần lý này như linh hồn, tự do, và Thiên Chúa, là
nền tảng không thể thiếu được cho luân
lý và tôn giáo.
Trong hệ
thống triết lý của Kant, người ta không tìm
thấy chỗ đứng cho mặc khải hiểu theo
nghĩa truyền thống kitô giáo.
Nền luân lý
của Kant độc lập với mọi nền siêu hình
có trước. Kant khẳng định trong Foundations of a
Metaphysics of Morals: lý trí thực tiễn trong việc đáp trả
những đòi buộc luân lý, mở đường đi
tới đức tin tôn giáo. Nếu một người tin
rằng họ được một vị thần linh
hướng dẫn, thì người đó dễ dàng hòa
hợp hành động của họ với đòi hỏi
của mệnh lệnh tuyệt đối (categorical
imperative). Như vậy, mệnh lệnh của lý trí
thực tiễn tương đương với mặc
khải thần linh[4].
Friedrich D. E.
Schleiermacher (1768-1834) lớn lên trong bầu khí sùng tín
(pietism). Ông đặt nền tảng triết lý về tôn
giáo không trên lý trí thuần túy nhưng trên tình cảm của
con tim (Gefuehl).
Schleiermacher cho
rằng con người trong dòng kinh nghiệm hoặc trong
những kinh nghiệm tình cờ, nhận thấy mình tùy
thuộc hoàn toàn vào cái bất biến, cần thiết, vô
hạn. Tình cảm lệ thuộc tuyệt đối này
được Schleiermacher coi như tôn giáo. Tình cảm này
làm nổi lên ý tưởng Thiên Chúa. Mỗi một sự
thông truyền của vũ
trụ cho con người đều là mặc khải[5].
Triết gia
Đan Mạch Soeren Kierkeggard (1813-1855) cho rằng, các chân lý
mặc khải thuộc bình diện hiện sinh.
Mặc khải
kitô giáo không thích hợp với triết lý và khoa học, vì
mặc khải thực nghịch lý. Mặc khải đòi
sự chấp nhận hiện sinh bằng niềm tin mù
quáng. Với Kierkeggard, mặc khải hàm chứa uy
quyền và có vẻ mâu thuẫn dị kỳ đối
với lý trí; thế nhưng, không phải vì vậy mà không
thể chấp nhận được.
Có sự trái
ngược giữa mặc khải và phương pháp
“dạy kiểu của Socrate”. Bởi vì trong phương
pháp của Socrate, học trò đã có và chỉ cần giúp
đỡ để học trò có thể chấp nhận ra
chân lý, vị thầy không phải là người luôn luôn
cần; còn đối với mặc khải, học trò
phải gắn bó thiết thân với vị thầy.
Vì đối
tượng của đức tin là Mâu Thuẫn Vĩnh Cửu Đã Làm Người,
thế nên đức tin không đơn thuần hoàn toàn là
cái thuộc lý trí và ý muốn[6].
Georg W. F. Hegel
(1770-1831) đặt nghệ thuật, tôn giáo, và triết lý
trong tiến trình biện chứng. Tinh thần tuyệt
đối là mút cùng của tiến bộ.
Mặc khải
đối với Hegel là tạm thời (tiền triết
lý), là sự tỏ lộ tạm thời của tinh
thần tuyệt đối trong lịch sử, chứ
mặc khải không là sự can thiệp tự do của
Thiên Chúa hiện hữu trong lịch sử. Đức tin
dưới lý trí, và tôn giáo dưới triết lý[7].
Duy lý hoặc duy
tín, đó là hai lập trường thái cực mà anh em Tin
Lành dễ rơi vào; Còn đối với bên Công giáo,
lập trường duy tín cũng bắt đầu xâm
nhập do ảnh hưởng triết lý của Kant và
Schleiermacher. Lập trường này chủ trương
đức tin siêu nhiên tuyệt đối cần thiết
để con người nhận thấy những chân lý
tự nhiên của tôn giáo, chẳng hạn, sự hiện
hữu và những phẩm tính của Thiên Chúa, linh hồn
bất tử, các luật luân lý...
Louis-Eugène Bautain
(1796-1867) là giáo sư đại học Strabourg. Do ảnh
hưởng của Kant và kinh nghiệm bản thân cùng
những lý do tông đồ, Bautain đã đi tới
kết luận “đức tin là nguồn mọi nhận
thức tôn giáo và luân lý”. Ông cho rằng, sự nhận
thức tự nhiên không thể nhận ra sự hiện
hữu của Thiên Chúa.
Giám mục
Strabourg là De Trévern đã kết án lập trường
của Bautain năm 1834. Những mệnh đề Bautain
phải tuyên xưng được ghi lại năm 1840:
·
Suy luận
có thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên
Chúa và những phẩm tính trọn hảo của Ngài;
·
Đức
tin giả sử đã có mặc khải;
·
Đức
tin không thể được viện dẫn như
một lý chứng về sự hiện hữu của Thiên
Chúa đối với người vô thần (DS. 2751);
·
Dù bị
yếu và lu mờ bởi tội nguyên tổ, lý trí vẫn
còn đủ sáng suốt và sức mạnh để
nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa một cách
chắc chắn, nhận ra mặc khải được
tỏ lộ cho người Do Thái qua Môsê và tỏ lộ
cho kitô hữu qua Đức Yêsu Kitô (DS. 2756).
Vào năm 1844,
Bautain phải ký nhận không dạy một số
điều, tựu trung là phải tôn trọng lý trí (DS.
2765-2769).
Sau Louis-Eugène
Bautain, Augustin Bonnetty (+1879) cũng rơi vào sai lầm
tương tự: quá đề cao mặc khải và
phủ nhận giá trị của lý trí.
Một số
người công giáo khác lại rơi vào sai lầm
ngược lại: quá đề cao lý trí và không phân
biệt cái biết theo lý trí với cái biết theo
đức tin nhờ mặc khải; chẳng hạn
như nơi Georg Hermes (1775-1831) và Anton Guenther (1783-1863)...
Đức Piô IX,
vào năm 1846, đã ra một thông điệp nhằm
giải quyết dứt khoát vấn đề tương
quan giữa lý trí và đức tin. Thông điệp Qui Pluribus
này khẳng định:
·
nhiệm
vụ của lý trí nhân loại là dẫn tới mặc
khải,
·
lý trí
phải suy phục mặc khải nơi Lời Chúa,
·
không có
sự đối nghịch hoặc mâu thuẫn giữa
đức tin và lý trí, vì cả hai đều từ Thiên
Chúa duy nhất (DS. 2775-2786).
Đức Giáo
Hoàng Piô IX, vào năm 1864, đã đưa ra một sưu
tập những sai lầm về các vấn đề
của thời đó, kể cả những sai lầm
của những người theo thuyết duy lý quá
đề cao lý trí (DS. 2903-2909).
Công đồng
chung Vatican I đã được Đức Giáo Hoàng Piô IX
triệu tập, và nhóm phiên đầu tiên vào ngày 08.12.1869.
Đây là công đồng chung đầu tiên bàn trực tiếp
và rõ ràng về mặc khải trong hiến chế tín lý Dei
Filius.
Những sai
lầm thời trước công đồng chung Vatican I
đang hoành hành:
·
Luther
chủ trương, lý trí sau khi con người phạm
tội đã bị hủy hoại, không còn khả năng
nhận biết chân lý!
·
Tự nhiên
thần giáo (Deism) rất thịnh hành ở Anh quốc quá
đề cao lý trí (như một phản ứng lại
chủ trương coi thường lý trí nơi những
người Tin lành).
·
Sang thế
kỷ XVIII, phong trào triết lý ánh sáng xuất hiện và
phát triển mạnh; lý trí được đề cao
tuyệt đối và dẫn tới phủ nhận tri
thức thuộc trật tự khác- đức tin với
lãnh vực chân lý siêu nhiên được mặc khải.
Phong trào duy lý này cực thịnh ở Đức vào
thế kỷ XVIII và lan dần sang các nước lân
cận.
·
Ở Pháp
vào thế kỷ XIX, xuất hiện những thần
học gia công giáo chịu ảnh hưởng bởi
thuyết duy lý, quá đề cao lý trí và không hiểu mặc
khải nguyên tuyền như truyền thống vẫn
dạy. Họ vẫn dùng từ ngữ mặc khải,
nhưng nội dung không còn là mặc khải nữa.
·
Phản
ứng chống lại những người duy lý
đề cao lý trí, một số người trở
lại quan niệm thái cực của Luther, coi lý trí đã
suy yếu tới mức độ không còn có thể
nhận ra chân lý, ngay cả những chân lý thuộc lãnh
vực tự nhiên; những người này chủ
trương con người cần nhờ mặc khải
để biết chân lý, dù chân lý đó thuộc bình
diện tự nhiên. Đây là chủ trương của
những người bị ảnh hưởng bởi sùng
tín (piétisme) và duy tín (fidéisme) nơi anh em Tin Lành. Chủ
trương này còn được gọi một tên khác: duy
truyền thống.
Những sai
lầm trên đây đã được huấn quyền
Giáo Hội sửa sai, chỉnh đốn, kết án;
nhưng lạc giáo vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt.
Chính trong bầu khí này mà công đồng chung Vatican I bàn
về mặc khải trong hiến chế tín lý Dei Filius.
Hiến chế Dei Filius gồm bốn
chương. Chương đầu bàn về Thiên Chúa là
Đấng Tạo Hóa, chương hai bàn về mặc
khải, chương ba bàn về đức tin, và chương
bốn bàn về tương quan giữa đức tin và lý
trí.
Chương bàn
về mặc khải được trích lại trong DS.
3004-3007.
DS. 3004:
“Giáo Hội
Mẹ Thánh khẳng định và dạy rằng, Thiên Chúa-
nguyên lý và mục đích của mọi sự có thể
được nhận biết cách chắc chắn bởi
ánh sáng tự nhiên của lý trí con người qua các tạo
vật; thực vậy, những gì vô hình của
Người đã được trí khôn nhìn thấy qua các
tạo vật trên thế gian là những cái đã
được Người tạo thành: tuy nhiên theo sự
khôn ngoan và nhân từ của Người, Người
đã mặc khải cho nhân loại chính Người và ý
định muôn đời của thánh ý Người
bằng một con đường siêu nhiên khác, như
lời thánh tông đồ đã phán: ngày xưa nhiều
lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông qua các
tiên tri, nhưng trong những ngày sau hết này, Người
đã nói với chúng ta qua Con người (Dt. 1, 1tt)”.
Qua bản văn
này công đồng khẳng định:
·
Con
người có thể nhận biết Thiên Chúa bằng trí
khôn của mình. Đây là điều chúng ta phải chấp
nhận như đức tin công giáo; còn nhận biết
như thế nào, giải thích việc nhận biết này
ra sao, là nhiệm vụ của các nhà thần học.
·
Thiên Chúa
đã mặc khải cho con người bằng một con
đường khác, con đường siêu nhiên (ngoài con
đường bình thường mà lý trí có thể nhận
biết Thiên Chúa).
·
Đối
tượng mặc khải: Thiên Chúa và chương trình ý
định muôn đời của Người.
·
Mặc
khải là do sáng kiến của Thiên Chúa, do ý định
tốt lành và sự khôn ngoan của Người, chứ
không phải do cái gì khác. Thiên Chúa không bị bó buộc
phải mặc khải cho con người. Mặc khải
là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người.
DS. 3005:
“Chính nhờ
mặc khải thần linh này, những gì thuộc thần
linh tự bản chất không nằm trong tầm với
của lý trí con người, có thể được nhận
biết cách chắc chắn và không một chút sai lầm
trong hoàn cảnh hiện tại của con người.
Không phải vì điều đó mà mặc khải được
coi là cần thiết, nhưng vì lòng tốt lành vô cùng
của Thiên Chúa, Ngài đã quy hướng con người
tới mục đích siêu nhiên, tới hưởng các
sự tốt lành thánh thiện vượt qua trí khôn con
người có thể hiểu; Vì những gì mắt không
thấy, tai không nghe, lòng không thể hiểu, thì Thiên Chúa
đã chuẩn bị cho những kẻ Ngài yêu (1Cor. 2, 9)”.
Theo DS. 3005,
mặc khải thực sự cần thiết vì:
·
giúp con
người nhận biết các chân lý vượt quá
khả năng con người,
·
con
người được tạo dựng để
hướng tới mục đích siêu nhiên của mình, và
nếu không nhờ mặc khải thì con người không
thể đạt được mục đích này.
Nói cách khác,
nếu không nhờ mặc khải thì con người không
thể biết các chân lý vượt quá sức con
người; và nếu không biết chân lý này, thì không
thể đạt được cùng đích đời
mình là sống hạnh phúc với Thiên Chúa, hưởng
kiến Thiên Chúa.
DS. 3006:
“Mặc khải này, theo như đức tin
được thánh công đồng Trentô tuyên bố,
được chứa trong sách thánh và trong truyền
thống không được viết, được các
tông đồ lãnh nhận qua môi miệng của chính
Đức Kitô, hay được truyền cho các tông
đồ như là từ tay qua tay dưới sự
đọc cho viết bởi Thánh Thần, và truyền
đến chúng ta” (DS. 1501).
Với bản
văn này, công đồng đồng hóa mặc khải
với sách thánh và truyền thống; theo nghĩa này mặc
khải được hiểu ở đây là những chân
lý; tuy vậy điều này không phủ nhận thực
tại được mặc khải là thực thể
sống động, là Thiên Chúa hằng sống với ý
định vĩnh cửu của Ngài.
Sau đây là
những quy chuẩn đức tin, công đồng lên án
chống lại những người phủ nhận giá
trị của thần học tự nhiên, lên án những
người chủ trương tôn giáo tự nhiên, lên án
những người đề cao lý trí cách tuyệt
đối!
DS. 3026:
“Nếu ai nói: Thiên Chúa Đấng duy nhất và thân
thực, Đấng tạo hóa và Chúa của chúng ta, không
thể nhận biết cách chắc chắn bởi ánh sáng
tự nhiên của lý trí con người, qua những tạo
vật, thì bị tuyệt thông.”
Quy chuẩn đức tin này nhắm tới sai
lầm của những người mang danh duy tín hoặc
duy truyền thống. Họ phủ nhận giá trị
đích thực của lý trí, và như vậy phủ
nhận thần học tự nhiên.
DS. 3027:
“Nếu ai nói: việc con người được
dạy dỗ bởi mặc khải, về Thiên Chúa và
về việc thờ phượng phải dâng kính Ngài, là
chuyện không có thể và vô dụng, thì người đó
bị tuyệt thông”.
Với quy chuẩn đức tin này, công đồng
bài bác lập trường cho rằng mặc khải là
điều không cần thiết, cũng như lập
trường cho rằng mặc khải là chuyện không
thể có được. Đó là lập trường
của những người cho rằng lý trí là đủ,
không cần có mặc khải.
DS. 3028:
“Nếu ai nói rằng, con người không có thể
được nâng lên đạt tới nhận thức và
sự trọn lành vượt qúa sức tự nhiên của
con người, nhưng con người có thể và
phải tự mình đạt tới việc sở hữu
mọi điều chân thực và tốt lành bằng sự
tiến bộ liên tục, thì người đó bị
tuyệt thông”.
Quy chuẩn này cho thấy công đồng bài bác
lập trường cho rằng mặc khải là
điều làm hạ giá con người, và như vậy
trái bản tính con người; lập trường này cho
rằng, quan niệm đúng đắn là con người
phải tự mình đạt tới Thiên Chúa, vì con
người có thể làm chuyện này.
DS. 3041:
“Nếu ai nói rằng, không có bất cứ một
mầu nhiệm đúng nghĩa nào trong mặc khải và
các tín điều có thể được hiểu và trình
bày bởi lý trí của một người có học
dựa vào các nguyên tắc tự nhiên, thì người đó
bị tuyệt thông”.
Đây là một quy chuẩn của chương
bốn hiến chế Dei Fillius, bàn về tương quan
giữa lý trí và đức tin. Quy chuẩn này lên án chủ
trương cho rằng lý trí con người có khả
năng đạt tới Thiên Chúa, mặc khải là
chuyện không cần thiết, không có mặc khải
đích thực, cái gọi là mặc khải cũng chỉ
nằm trong tầm với của lý trí con người.
Đây là lập trường của những người
theo tôn giáo tự nhiên (Deism) và phong trào duy lý.
DS. 3029:
“Nếu ai không nhận tất cả và từng
phần của Kinh Thánh như đã được công
đồng Trentô liệt kê là sách thánh và sách quy chuẩn,
hoặc phủ nhận tính linh hứng của các sách
đó, thì người đó bị tuyệt thông”.
Khẳng định này nhằm bảo vệ mặc
khải. Như vậy, mặc khải ở đây một
lần nữa được đồng hóa với Kinh
Thánh như những chân lý.
Công đồng
Vatican I đã cho thấy chủ thể mặc khải là
chính Thiên Chúa, đối tượng chất thể
mặc khải là Thiên Chúa và chương trình cứu
độ con người. Công đồng cũng khẳng
định mặc khải là điều thực sự
tối cần thiết để con người
đạt được cứu cánh đời mình.
Thuyết duy tân
(modernisme) đã làm huấn quyền Giáo Hội bận tâm
nhiều. Những người theo duy tân thuyết nỗ
lực thích ứng giáo lý công giáo với tư tưởng
hiện đại, với những điều mà con
người thời đại chấp nhận.
Não trạng duy lý
không chấp nhận tín điều, nên những
người theo thuyết duy tân giải thích lại tín
điều công giáo; nhưng khi làm điều này, họ
đã lấy tư tưởng hiện đại
đương thời làm tiêu chuẩn, và đã phạm sai
lầm khi cắt bớt hoặc giải thích sai lạc
mặc khải công giáo. Ở đây chỉ đơn
cử hai tác giả tiêu biểu, đó là Alfred Loisy và Georg
Tyrrell[8].
Alfred Loisy cho
xuất bản quyển sách nhan đề L'Évangile et l'Église
vào năm 1902, nhằm trả lời quyển sách của
Adolf von Harnack (1851-1930) có tựa đề Wesen des
Christentums. Với quyển sách của Loisy này, có thể coi
duy tân thuyết được khởi đầu. Giáo
quyền đã lên án quyển sách này. Nó chủ trương
yếu tính của Kitô giáo chưa được xác
định, vì chân lý của Kitô giáo cũng như những
chân lý nhân loại, cũng tương đối và có tiến
bộ.
Năm 1903, Loisy
cho xuất bản quyển “Autour d'un petit livre” nhằm
biện minh cho lập trường của mình. Trong quyển
sách này, ông viết: “Cái được gọi là mặc
khải chỉ là ý thức của con người trong
tương quan với Thiên Chúa... tương phản
với tri thức thuộc phạm vi lý trí và khoa học,
tri thức chân lý tôn giáo không chỉ là kết quả
của lý trí nhưng nó còn là công việc của trí khôn,
được khám phá dưới sự thúc đẩy
của con tim, của luân lý và tôn giáo, của ý muốn
thực sự hướng tới sự thiện”[9].
Theo A. Loisy,
mặc khải không là một giáo lý được ban cho
con người. Mặc khải cũng không là kho tàng chân lý
không đổi, nhưng là tri thức trực quan (và kinh
nghiệm) về tương quan giữa con người và
Thiên Chúa; tri thức trực quan này luôn biến đổi.
Mặc khải, xét như là tín điều thần học,
luôn biến đổi. Mặc khải đang
được hình thành[10].
Georg Tyrrell trình bày
tư tưởng về mặc khải của mình trong
quyển Through Scylla and Charybdis được xuất
bản vào năm 1907.
Theo Tyrrell, mặc
khải hệ tại một kinh nghiệm gần như
thần bí, và không được đồng hóa với
những cấu tố tri thức của kinh nghiệm này.
Các tông đồ đã lãnh nhận trọn vẹn mặc
khải qua việc hiệp thông với đức Kitô.
Mặc khải nơi chúng ta phải là một kinh
nghiệm tiên tri mới, được lập lại
nơi chúng ta. Mặc khải không được truyền
thông, nhưng có thể được tạo dịp qua
việc rao giảng và qua những bản viết. Các tín
điều của Giáo Hội không là mặc khải,
nhưng chỉ là phản ứng của con người
đối với mặc khải; Các tín điều
được dùng khi nó giúp đỡ và phải bỏ khi
nó che dấu mặc khải[11].
Tóm lại,
với Loisy, không có mặc khải. Cái người ta
gọi là mặc khải chỉ là những ý thức
những kinh nghiệm con người có về Thiên Chúa;
như vậy, mặc khải luôn thành hình, không là cái
bất biến không đổi. Còn với Georg Tyrrell, có
thực tại mặc khải siêu việt, nhưng nó không
được truyền từ người này sang
người kia; nghĩa là, mỗi người phải lãnh
nhận mặc khải cho mình; vì vậy, tín điều
không là mặc khải. Như vậy theo Tyrrell, có mặc
khải nơi các tông đồ và các tiên tri, nhưng
những điều này không liên hệ và không bổ ích cho
chúng ta bao nhiêu.
Đứng
trước những sai lầm của thuyết duy tân
về mặc khải, huấn quyền đã can thiệp
nhằm bảo vệ tinh tuyền đức tin công giáo.
Sắc lệnh
Lamentabili được đức giáo hoàng Piô X công bố
ngày 03.07.1907 thu tóm 65 mệnh đề sai lạc của
chủ thuyết duy tân (DS. 3401-3466), trong số này có những
mệnh đề liên quan đến mặc khải (DS.
3420-3426).
DS. 3420: “Mặc
khải không là gì khác hơn ý thức con người về
tương quan giữa mình và Thiên Chúa”.
Đây là mệnh đề của Loisy, phủ
nhận mặc khải được hiểu theo nghĩa
truyền thống của Giáo Hội Công Giáo.
DS. 3421: “Mặc
khải cấu thành đối tượng đức tin
công giáo, không hoàn tất với các tông đồ”.
Đây là lập trường của G. Tyrrell, chủ
trương mặc khải tiến bộ, hiểu theo
nghĩa nó là những chân lý được con người
khám phá ra; như con người thay đổi, những
chân lý đó cũng thay đổi.
DS. 3422: “Các tín
điều, điều mà Giáo Hội xác nhận như là
mặc khải, không là những chân lý từ trời
xuống (nguồn gốc thần linh), nhưng chỉ là
lời giải thích các sự kiện tôn giáo mà lý trí con
người có thể nhận ra với một nỗ
lực nghiêm chỉnh”.
Đây cũng là lập trường của Tyrrell. Ông
cho rằng, các tín điều chỉ là nỗ lực nhân
loại chứ không phải là mặc khải. Hiểu
như vậy, con người có thể bỏ tín
điều này hoặc tín điều kia; hoặc nó sẽ
thay đổi thành một tín điều mới thích
hợp với con người hơn.
Thông điệp Pascendi Dominici Gregis được
đức giáo hoàng Piô X ban hành vào ngày 08.09.1907, nhằm
cảnh giác các tín hữu và mọi tầng lớp trong Giáo
Hội, để đừng rơi vào duy tân thuyết[12].
Tự sắc Sacrorum Atistites được
đức Piô X ban hành ngày 01. 09.1910, buộc tất cả
các giáo sĩ làm mục vụ hay công tác giảng dạy
phải thề từ bỏ tất cả các khẳng
định của thuyết duy tân về mặc khải và
về truyền thống!
DS. 3538:
“Thứ nhất tôi tuyên xưng rằng: Thiên Chúa, nguyên
lý và mục đích của mọi sự, có thể
được nhận biết cách chắc chắn, và vì
vậy có thể được minh chứng bởi ánh sáng
tự nhiên của lý trí từ những cái đã
được tạo thành, nghĩa là bởi những công
trình hữu hình tức tạo thành, như nguyên nhân bởi
kết quả”.
DS. 3539:
“Thứ hai, tôi biết và chấp nhận những
luận chứng bên ngoài của mặc khải, tức là
những sự kiện thần linh, nhất là các phép
lạ và các lời tiên tri, như là những dấu chỉ
rất chắc chắn chứng tỏ nguồn gốc
thần linh của Kitô giáo; và tôi khẳng định, chúng
hoàn toàn thích hợp với trí khôn của con người
của mọi thời đại, kể cả với
thời đại ngày nay”.
DS. 3540:
“Thứ ba, tôi tin với cùng một đức tin
chắc chắn rằng, Giáo Hội là thầy và là
người gìn giữ lời mặc khải,
được chính Đức Kitô chân thực và lịch
sử thiết lập trực tiếp khi Ngài sống
giữa chúng ta; và tôi tin Giáo Hội này được xây
trên Phêrô là đầu của phẩm trật tông
đồ, và trên những người kế vị ngài
trong mọi thời đại”.
DS. 3541:
Thứ tư, tôi nhận cách chân thành giáo lý đức
tin được truyền bởi các tông đồ cho
tới chúng ta qua các giáo phụ chính thống với cùng ý
nghĩa và cùng những lời giải thích; cũng vậy
tôi từ bỏ cách giải thích lạc giáo cho rằng tín
điều tiến hóa từ một nghĩa đen này
đến một nghĩa khác, khác với nghĩa mà Giáo
Hội đã có trước; cũng tương tự
như vậy tôi kết án mọi sai lầm cho rằng,
sáng kiến triết lý hay sự sáng tạo của ý
thức con người, được hình thành do nỗ
lực của con người và được hoàn
chỉnh do những tiến bộ không ngừng, sẽ thay
thế kho tàng thần linh đã được truyền
lại cho hiền thê Đức Kitô, và được gìn
giữ cách trung thành bởi chính Giáo Hội.
DS. 3542:
“Thứ năm, tôi khẳng định và tuyên xưng
chân thành rằng, đức tin không là tình cảm tôn giáo mù
quáng hình thành từ vùng tối tăm của vô thức do
con tim và ý muốn luân lý thúc đẩy, nhưng là sự
đồng tình thực sự của lý trí đối
với chân lý được đón nhận do nghe (rao
giảng), điều mà chúng tôi tin rằng thật,
được mặc khải, được xác
chuẩn, được phán truyền bởi chính Thiên Chúa
ngôi vị, được phán truyền bởi chính Thiên
Chúa ngôi vị, Đấng Tạo Hóa và là Chúa chúng tôi,
bởi quyền năng của Thiên Chúa chân thực”.
Lược
đồ về mặc khải đầu tiên đã
được bàn cãi từ 14.11.1962, và bản văn
được bỏ phiếu vào ngày 20.11.1962 với 1368
phiếu chống, 822 phiếu thuận, và 19 phiếu
bất hợp lệ. Đức giáo hoàng Gioan XXIII đã can
thiệp, trả lược đồ lại cho ủy ban
hỗn hợp.
Bản văn
hiến chế Mặc khải Dei Verbum là bản văn
được bỏ phiếu vào ngày 29.10.1965 với 2081
phiếu thuận, 27 phiếu chống, và 7 phiếu bất
hợp lệ (2115 nghị phụ); vào ngày công bố
(18.11.1965) có 2344 phiếu thuận, 6 phiếu chống
(tất cả 2350 nghị phụ).
Hiến chế
Dei Verbum gồm 26 số, ngoài số dẫn nhập,
hiến chế được chia thành sáu chương:
Số 2-6: bàn về chính mặc khải
Số 7-10: bàn về lưu truyền mặc khải
Số 11-13: bàn về linh hứng và giải thích Kinh
Thánh
Số 14-16: Về Cựu Ước
Số 17-20: Về Tân Ước
Số 21-26: Kinh Thánh trong đời sống Giáo
Hội.
Giáo trình về
mặc khải này lưu ý đặc biệt chương
một, từ số 2-6, vì từ đây phát sinh những
tư tưởng phong phú và nền tảng của thần
học mặc khải.
Số mở
đầu trình bày mặc khải như thực thể
sống động.
“Chúng tôi loan
truyền cho anh em sự Sống đời đời,
đã có nơi Chúa Cha và đã hiện đến với
chúng tôi: điều chúng tôi đã thấy, đã nghe, chúng
tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng
được hiệp nhất với chúng tôi và chúng ta
được hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa
Yêsu Kitô Con Ngài” (1Ga.1, 2-3).
Sự Sống
đã đến. Loan báo về sự Sống là loan báo
những điều mình đã thấy đã nghe về chính
sự Sống này. Sự Sống đã nhập thể, và hơn
nữa sự Sống đã trở thành lời
được loan báo, đã trở thành chữ
được viết để loan báo. Như vậy,
chúng ta không được dừng lại ở lời loan
báo, không được dừng lại ở chữ
viết để loan báo, nhưng chúng ta phải
vươn lên tới sự Sống đời đời,
tức là thực tại được loan báo.
Dei Verbum số 1
chưa đề cập đến đối
tượng mặc khải, nhưng đã thấy hàm
chứa: đối tượng mặc khải không
chỉ là chữ viết, không chỉ là lời loan báo
về sự Sống, nhưng chính là sự Sống ở
nơi Cha và đã đến giữa con người.
Mục đích
mặc khải, mục đích việc loan truyền
mặc khải, là để chúng ta được thông
dự, thông hiệp với chính Thiên Chúa là Cha và với Chúa
Yêsu Kitô. Đây cũng là mục đích của con
người, là cứu cánh của con người, là ơn
gọi của chính con người. Hiệp thông với
Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu, là thiên đàng, là
tất cả những gì con người có thể ao
ước.
Ở đây công
đồng cũng không đưa ra lời khẳng
định mặc khải là cần thiết, nhưng khi
trình bày mặc khải như sự hiệp thông với
Thiên Chúa, công đồng cũng cho thấy mặc khải
là việc tối quan trọng để con người
đạt tới cùng đích đời người; không
có mặc khải, con người không thể hiệp thông
với Thiên Chúa được, và như vậy, không
thể đạt tới mục đích tối hậu
của đời người.
Số 2
Đối
tượng mặc khải: Thiên Chúa mặc khải chính
mình và mầu nhiệm thánh ý Ngài. Thiên Chúa mặc khải
Ngài là ai cho con người, và khi mặc khải như
vậy, Ngài cũng cho con người biết con
người là ai. Mặc khải giúp con người
biết nguồn gốc của mình, lý do hiện hữu
của mình, tương lai mình sẽ đi về đâu,
cùng đích đời mình là gì, mình phải có tương
quan với Thiên Chúa ra sao! Và một khi thấy rõ ý
định của Thiên Chúa về mình, con người phải
đáp trả.
Mục đích
mặc khải: giúp con người đi đến
với Chúa Cha, và được thông phần bản tính
của Người nhờ đức Kitô và Thánh Thần.
Mặc khải có mục đích giúp con người
đạt được hạnh phúc, đạt
được cứu cánh đời mình, tức thông
hiệp với Thiên Chúa.
Chiều kích Ba
Ngôi của mặc khải: con người đến
với Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô làm người và
trong Thánh Thần.
Lý do mặc
khải: nguyên động lực của mặc khải là
tình thương chứa chan của Thiên Chúa. Thiên Chúa hoàn
toàn tự do, không bị ép buộc bởi bất cứ
điều gì khi mặc khải cho con người. Thiên
Chúa hạnh phúc với chính Ngài, Ngài không có một nhu
cầu nào từ bên ngoài. Việc mặc khải cho con
người để họ tham dự sự sống
với Người là do tình thương của
Người mà thôi; không có sự cần thiết hữu
thể hoặc luân lý nào buộc Thiên Chúa phải mặc
khải cho con người, xét về khía cạnh Thiên Chúa.
Cách thức
mặc khải: Thiên Chúa ngỏ lời với con
người như một người bạn nói chuyện
với người bạn. Ngài trao đổi với
họ, mời gọi họ hiệp nhất với Ngài, và
Ngài tiếp nhận họ.
Mặc khải mang
chiều kích liên vị: Thiên Chúa tôn trọng và yêu
thương con người. Hành vi đối thoại, là
hành vi đề cao con người.
Mặc khải có
dự tính: mặc khải không là chuyện hời hợt
được thực hiện một sáng một
chiều, nhưng là cả một chương trình,
được Thiên Chúa thực hiện qua hành động
và Lời.
Ở đây vang
vọng chữ DABAR của Do Thái: DBR gồm cả biến
cố và lời. Thiên Chúa không chỉ soi sáng tâm hồn
của các tiên tri, nhưng Ngài còn thực hiện những biến
cố trong lịch sử, và dùng lời để giải
thích sự kiện lịch sử này. Mặc khải kitô
giáo khác ơn khải ngộ nơi các hiền nhân hoặc
tiên tri của các tôn giáo khác.
Đức Kitô là
trung gian mặc khải, là mục đích mặc khải,
là mặc khải viên mãn. Ngài là Lời và hành động
Thiên Chúa mặc khải cho con người. Nơi Đức
Kitô, chúng ta không còn phải chờ một mặc khải
nào mới nữa, vì nơi Ngài là tất cả mặc
khải; Với Ngài mặc khải đã và đang
đạt đến đích.
Số 3:
Thiên Chúa,
Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự
nhờ ngôi Lời, luôn yêu thương và chăm sóc con
người. Ngài không ngừng tỏ mình cho con người
qua các tạo vật, ban sự sống đời
đời cho tất cả những ai tìm kiếm sự
cứu rỗi nhờ kiên tâm làm việc thiện; đó là
lịch sử cứu độ “bằng đường
lối bình thường”. Khi đến thời đã
định, Ngài kêu gọi Abraham và lập một dân
tộc; Ngài đã dùng Môsê và các tiên tri để dạy
dỗ họ, để họ nhận biết Ngài; với
Abraham, Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện
một lịch sử cứu độ “đặc biệt”.
Thiên Chúa đã
mặc khải trong dòng lịch sử và qua lịch sử
dân Do Thái; Ngài đã mặc khải cho một số
người thuộc dân Do Thái nhưng hành động
mặc khải này nhắm đến nhiều
người, nhắm đến tất cả mọi
người thuộc mọi dân tộc. Từ Abraham,
mặc khải có chiều kích lịch sử vì Thiên Chúa
đã can thiệp vào lịch sử dân Do Thái.
Số 4:
Đức Yêsu
Kitô, Ngôi Lời nhập thể, là tiếng nói của Thiên
Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa, là Đấng mặc
khải Thiên Chúa, là chính mặc khải trọn hảo, là
tuyệt đỉnh mặc khải, là giao ước
vĩnh cửu, là sự sống đời đời.
Với Ngài, người ta không phải chờ đợi
một mặc khải công cộng nào khác nữa
trước khi Chúa Yêsu Chúa chúng ta hiện đến trong
vinh quang.
Số 5:
Vâng phục
đức tin, lời đáp trả đối với
mặc khải của Thiên Chúa. Để có đức tin
này, cần ân sủng của Thiên Chúa và sự trợ giúp
của Thánh Thần.
Số 6:
Công đồng
tái khẳng định: Thiên Chúa muốn dùng mặc
khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng
những ý định muôn đời của Ngài liên quan
đến phần rỗi nhân loại.
Công đồng
cũng tuyên xưng:
·
Với ánh
sáng tự nhiên của lý trí, con người có thể
nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên
lý và cứu cánh mọi sự, khởi từ các tạo
vật;
·
Những gì
thuộc về Thiên Chúa mà tự nó vốn không vượt
quá khả năng lý trí con người, có thể
được biết cách dễ dàng chắc chắn không
lẫn lộn sai lầm nhờ mặc khải.
Công đồng
Vatican II trong hiến chế mặc khải Dei Verbum, đã
trình bày đối tượng mặc khải là thực
thể sống động khôn dò, được loan báo rao
giảng, và phải được đáp trả bằng
sự vâng phục của đức tin.
HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] AVERY DULLES, op. cit., p. 52
[2] J. LOCKE, Concerning Human Understanding, bk.4, ch.19, n.4
NEW YORK 1947, p. 340
trích bởi A. DULLES, op. cit., p.53
[3] A. DULLES, op. cit., pp. 56-57
[4] A. DULLES, op. cit., pp. 58-59
[5] F. D. E. SCHLEIERMACHER, On Religion
NEW YORK, Paperback 1958, p. 89
trích bởi A. DULLES, op. cit., pp. 63-66
[6] Phần này được lấy trong A. DULLES, op. cit.,pp. 65-66
[7] A. DULLES, op. cit., pp. 66-67
[8] Alfred Loisy (1857-1940) là linh mục, đã dạy Kinh Thánh tại Institut catholique ở Paris vào những năm 1884-1893
Georg Tyrrell (1861-1909) vào dòng Tên năm 1880, dạy luân lý hai năm tại Stonyhurst, thường viết trong The Month; bị khai trừ khỏi Dòng năm 1906 vì không từ bỏ duy tân thuyết.
[9] A. LOISY, The Gospel and the Church, PARIS2 1903, pp. 195-197
[10] R. LATOURELLE, op. cit., p. 302
[11] AVERY DULLES, op. cit., pp. 84-85
[12] Một phần thông điệp được trích trong DS. 3475-3580