B.
ĐỨC YÊSU- DẤU CHỨNG T̀NH YÊU
b. Lịch sử- nét đặc biệt
của mặc khải kitô giáo
2. T́nh yêu được bày tỏ và
chứng thực qua Lời
3. Đức Yêsu Kitô, biểu tượng
t́nh yêu
Bây giờ sẽ
tŕnh bày một cái nh́n tổng hợp và nhất quán về
mặc khải kitô giáo:
Thiên Chúa là t́nh yêu
Đức Yêsu là dấu chứng tuyệt vời t́nh
yêu Thiên Chúa cho con người.
Mặc khải là
lời bày tỏ và chứng thực t́nh yêu Thiên Chúa cho con
người.
Qua mặc
khải nơi lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa đă
tỏ ḿnh như Đấng giải phóng dân Israel, như
chủ tể của vũ trụ và lịch sử.
Khởi từ kinh nghiệm này, dân Do Thái và những
người khác đă nhận biết Thiên Chúa là
Đấng sáng tạo vũ trụ bằng lời của
Người (St. 1-2), đă giải phóng dân khỏi ách nô
dịch bên Ai cập, đă đưa dân lưu đày
từ Babylon trở về.
Qua biến cố
Yêsu Kitô, kitô hữu nhận biết “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Ga.
4, 8. 16), Thiên Chúa là Thiên Chúa ba ngôi vị.
Thiên Chúa là một
bản tính nhưng là ba ngôi vị. Ba ngôi vị Thiên Chúa
nhưng là một Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa tất cả là
một trừ tương quan ngôi vị[1].
Cả ba ngôi vị hiệp thông với nhau cách lạ lùng và
tuyệt diệu đến mức độ chỉ là
một Thiên Chúa T́nh Yêu.
T́nh yêu là
tương quan giữa ngôi vị với ngôi vị.
Nơi những
ngôi vị thực sự tự do, nghĩa là những
hiện hữu lư trí hướng về Hiện Hữu
Tuyệt Đối, tương quan giữa ngôi vị là
t́nh yêu, bởi v́ t́nh yêu là ngôi vị hướng về ngôi
vị theo lư trí “tự do”[2].
Nơi ngôi vị
có một vẻ đẹp nào đó rất đáng yêu. Có
thể nói, mỗi ngôi vị là một kiệt tác của
Thiên Chúa.
Nơi Thiên Chúa, ba
ngôi vị yêu thương nhau, cho nhau tất cả,
hiệp thông với nhau trong tất cả đến
độ có thể nói là một trong vinh quang, là một
trong sự thật, là một trong hoạt động[3],
v.v...
T́nh yêu là ngôi
vị thực sự tự do hướng về nhau, cho
nhau tất cả, trở nên một với nhau, hiệp
thông tới mức độ tuyệt vời. Tuy vậy,
t́nh yêu là hành vi tự do, không là hành vi đương nhiên
hay tất yếu theo thể lư. Như vậy khi nào không
thể cưỡng lại được, th́ không có
tự do, và không là t́nh yêu “đích thực”. Thiên Chúa là t́nh
yêu; ba ngôi vị Thiên Chúa yêu nhau đến độ là
một trong tất cả, đến độ có thể
nói và phải nói, là một Thiên Chúa.
Đối
với con người, Thiên Chúa yêu con người như
thế nào, đến độ nào, đó là tùy Thiên Chúa, do tự Thiên Chúa. Nhờ
mặc khải kitô giáo, con người biết “Thiên Chúa
đă yêu thế gian đến độ đă ban Con
Một Người cho thế gian...” (Ga. 3, 16). Với
Đức Yêsu Kitô nhờ Đức Yêsu Kitô- Con Thiên Chúa
nhập thể, con người được bảo đảm
rằng Thiên Chúa rất yêu con người:
·
Thiên Chúa
đă tuyển chọn ta trong Đức Yêsu Kitô từ
trước khi sáng thế... Người đă tiền
định cho ta được phúc làm con bởi ḷng yêu
mến (Eph. 1, 4-5);
·
Thiên Chúa Cha
gởi Thánh Thần đến với chúng ta để luôn
ở với chúng ta (Ga. 14, 16. 26);
·
Thiên Chúa Cha
và Đức Yêsu Kitô sẽ đến ở, lập cư
nơi những kẻ giữ lời Ngài (Ga. 14, 23);
·
Chúa Cha yêu
chúng ta như yêu Chúa Yêsu (Ga.17, 23. cf. Ga.17, 20); Chúa Yêsu yêu chúng
ta như Chúa Cha yêu Chúa Yêsu (Ga.15, 9).
Thiên Chúa, khi
tạo dựng nên con người như một ngôi vị,
Ngài đă yêu con người. Nhưng với mặc
khải kitô giáo, với biến cố Đức Yêsu Kitô, chúng
ta được biết Thiên Chúa đă yêu con người
đến mức độ “vô cùng”.
T́nh yêu là
tương quan giữa hai ngôi vị[4].
Ân sủng là thực tại diễn tả t́nh yêu[5].
Ân sủng quí nhất là ban tặng chính ḿnh. Thiên Chúa đă
yêu thương con người, và Thiên Chúa đă ban cho con
người biết bao hồng ân, và ân sủng lớn
nhất là Thiên Chúa đă ban tặng chính Thiên Chúa cho con
ngưởi, ban tặng chính ḿnh cho con người.
Ân sủng cũng
chính là t́nh yêu. Khi hai người nam nữ yêu nhau, họ cho
nhau chính con người ḿnh, cho nhau để trở nên
một trong thân xác và tinh thần. Cho nhau chính bản thân
ḿnh, trở nên một với nhau, đó là tuyệt
đỉnh của hiệp thông. Thiên Chúa đă ban tặng
chính ḿnh Ngài cho con người, đă ở với con
người, để nên một với con người,
để con người trở nên Thiên Chúa[6].
Hiệp thông
với Thiên Chúa, trở nên một với Ngài, sống trong
tương quan thân thiết với Ngài, đó là ơn
cứu độ. Dưới một khía cạnh nào đó,
t́nh yêu, ân sủng, ơn cứu độ là một.
T́nh yêu là
tương quan liên vị, là tương quan của
hiện hữu tự do với nhau. Trong t́nh yêu không có
cưỡng bức, bó buộc thể lư, nhưng tự do.
Con người có
thể tỏ t́nh cho nhau và có thể nín lặng. Tỏ t́nh
cũng cho thấy mức độ t́nh yêu đối
với nhau. Thiên Chúa yêu con người khi tạo dựng
con người như một ngôi vị, như một
hiện hữu tự do, như tinh thần nhập
thể. Nhưng như vậy không có nghĩa Thiên Chúa
thiết yếu phải mặc khải cho con người.
T́nh yêu là hành vi tự do! Tỏ lộ t́nh yêu hay không, là tùy
ở Thiên Chúa.
Khi tra vấn
lịch sử, con người nhận ra Thiên Chúa đă
mặc khải cho con người cách đặc biệt.
Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như tinh
thần nhập thể, th́ con người có thể qua các
tạo vật nhận biết Thiên Chúa hiện hữu.
Nhưng nếu chỉ như vậy, cũng hợp lư;
không có ǵ buộc Thiên Chúa phải đi xa hơn, mặc
khải đặc biệt hơn cho con người.
Thực tế cho thấy Thiên Chúa đă mặc khải cho
con người trong ḍng lịch sử dân Do Thái và qua
biến cố Đức Yêsu Kitô. Đây là hành vi biểu
lộ t́nh yêu của Thiên Chúa cho con người. Mặc
khải là ân sủng của Thiên Chúa cho con người.
Con người là
hiện hữu “vật chất tinh thần”, là tinh thần
nhập thể. Con người không chỉ cần thỏa
măn những nhu cầu vật chất như ăn ngủ,
mà c̣n cần thỏa măn những khao khát tinh thần.
Con người có
tri thức, tri thức giác quan và tri thức phản
tỉnh. Chính nhờ khả năng suy luận của lư trí
mà con người biết ḿnh và biết thực tại siêu
việt. Không thể tách tri thức siêu vượt khỏi
con người nếu không muốn con người bị
què cụt và không triển nở toàn diện.
Con người
chỉ hạnh phúc trọn vẹn nếu con người
biết ḿnh được yêu và đáp trả t́nh yêu.
Hiểu như vậy, ơn cứu độ hàm chứa mặc
khải về t́nh yêu Thiên Chúa cho con người. Ơn
cứu độ chỉ được trọn vẹn
nếu con người nhận biết ḿnh được
cứu độ. Nơi con người, đáp trả t́nh
yêu hàm chứa nhận biết ḿnh được yêu; và
Thiên Chúa đă mặc khải cho con người biết
Ngài yêu con người bằng t́nh yêu đặc biệt.
Biết ḿnh
được Thiên Chúa yêu, đáp trả t́nh yêu
được diễn tả bằng ḷng tin ḷng trông
cậy, là khởi đầu của ơn cứu
độ, của sự hiệp thông hạnh phúc với
Thiên Chúa.
Nếu con
người không biết Thiên Chúa, không biết ḿnh
được Thiên Chúa yêu, không biết thực trạng
con người ḿnh, th́ con người không thể đáp
trả t́nh yêu của Thiên Chúa. Không có t́nh yêu, th́ không có tin
tưởng và trông cậy; và như vậy không có sự
thông hiệp trọn vẹn, không có hạnh phúc tṛn
đầy.
Mặc khải
Thiên Chúa ban cho con người, tri thức con người
về Thiên Chúa và t́nh yêu của Ngài đối với con
người, là tri thức cứu độ con
người. “Thiên Chúa muốn cho mọi người
được cứu và được nh́n biết sự
thật” (1Tm. 2, 4). “Sự sống đời đời là
chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa chân thật và độc
nhất, và Đấng Cha sai đến, Yêsu Kitô” (Ga. 17, 3).
b. Lịch sử- nét đặc biệt của mặc khải kitô giáo
Các tôn giáo trên
thế giới đều đề cập đến
những chân lư giúp con người được cứu
độ. Đặc biệt nơi ngộ đạo thuyết
(gnosticisme), những người theo chủ thuyết này cho
rằng họ sở hữu những chân lư có khả
năng giải phóng con người, giúp con người
được cứu độ.
Theo nghĩa
rộng nhất, ngộ đạo chỉ tất cả
các loại giáo thuyết nhận ḿnh có thể tŕnh bày cho các
tín đồ một con đường dẫn tới trọn
lành; con đường này là một cách thức nhận
biết những thực tại không hiển nhiên[7].
C̣n theo truyền thống văn chương kitô giáo,
ngộ đạo chỉ những lạc giáo phát sinh
thời đầu của Hội Thánh như Valentinus,
Marcion,...[8]. Những
giáo phái này có cái nh́n lệch lạc về Kinh Thánh hoặc
về tạo dựng.
Mọi tôn giáo
đều nhận ḿnh có thể chỉ cho tín đồ con
đường giải thoát; chẳng hạn như Ấn
giáo (Bà-la-môn), Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo. Như
vậy, có chân lư giải phóng cứu độ con
người. Nhưng đâu là chân lư cứu độ?
đâu không là chân lư và không giúp giải phóng con người?
Để
giải quyết vấn đề này người ta
phải truy t́m những bằng cớ khách quan giúp nhận
biết những chân lư cứu độ đích thực.
Thánh Augustinus đă mất gần nửa đời
người mới nhận biết chân lư đích thực,
và nhận ra những sai lầm nơi ngộ đạo và
các triết thuyết[9].
Mặc khải
Kitô giáo không chỉ là những tri thức, những ư
niệm, hữu thể của lư trí con người;
nhưng mặc khải kitô giáo, những chân lư cứu
độ thực sự, đă được chứng
thực qua những thực tại khách quan, qua những
biến cố lịch sử, qua lời thành xác phàm (Ga. 1,
14).
Lịch sử dân
Israel là lịch sử chứng thực mặc khải kitô
giáo, là lịch sử chứng thực tri thức mặc
khải kitô giáo là tri thức cứu độ. Những
phép lạ là những thực tại chứng thực
mặc khải kitô giáo. Biến cố phục sinh của
Đức Yêsu Nazareth là biến cố đặc biệt,
chứng thực và tỏ lộ chân lư nền tảng có
sức cứu độ con người.
T́nh yêu là
tương quan liên vị. Trong hiện trạng tại
thế của con người, t́nh yêu được
diễn tả bằng ân sủng và bằng lời.
Lời hiểu
như DABAR tiếng Do thái, có nghĩa là chính sự vật,
là cái mà lời nói về[10].
Như vậy, Lời là cái các tiên tri trong lịch sử dân
Do Thái nói về, là các biến cố lịch sử của
dân Do Thái, là lời các tiên tri, là lời Thiên Chúa ban cho con
người.
Lời, hiểu
như logos tiếng Hy lạp, là lư trí. Không có lư trí, không có
t́nh yêu[11]. Lời
diễn tả t́nh yêu, lời biểu lộ t́nh yêu. Không có
lời, không có tri thức, và như vậy không có lời,
t́nh yêu không được cảm nhận.
Lời c̣n
được hiểu như verbum mentis, tức ư niệm[12].
Những ư niệm một người có trong lư trí cũng
được coi như lời. Hiểu lời như
vậy, khi Thiên Chúa mặc khải cho một người
bằng ơn soi sáng, trong giấc mơ hay thị kiến,
cũng là mặc khải bằng lời. Như vậy,
lời cũng được hiểu là những quyết
định được thực hiện trong tâm trí
nhưng chưa nói ra hoặc chưa làm ǵ để
thực hiện ra bên ngoài.
Lời, theo
nghĩa b́nh thường vẫn được dùng,
chỉ lời được nói ra. Lời là hành vi của
hiện hữu tự do, lời là hành vi tự do của
hiện hữu sở hữu lư trí. V́ thế, lời
diễn tả và mặc khải chủ thể phát ngôn
lời. Lời mặc khải các ngôi vị phát ngôn, và
như vậy, lời giúp đối thoại, giúp hiểu
biết ngôi vị phát ngôn và diễn tả ngôi vị dùng
lời.
Trong hoàn cảnh
hiện tại của Hội Thánh lữ hành, lời bí tích
là dấu chỉ ban ân sủng, biến con người thành
một hiện hữu mới, biến con người
trở thành con Thiên Chúa, và liên kết con người
với Thiên Chúa.
Lời bày tỏ
t́nh yêu, và không chỉ thế, lời chứng thực t́nh
yêu. Thánh Ynhă Loyola nói trong sách Linh Thao “t́nh yêu hệ tại
việc làm hơn lời nói” (LT. 230 cf. 1Ga.3, 18). Nơi con
người, người ta thường nói nhiều hơn hành
động, và những ǵ người ta nói không nhất
thiết luôn đi đôi với hành động; nhưng
điều thường xảy ra nơi con người
th́ lại không đúng với Thiên Chúa: nơi Thiên Chúa,
những ǵ Ngài phán đều là thực tại.
Thiên Chúa tạo
dựng tất cả v́ con người, v́ t́nh yêu
đối với con người. Thiên Chúa đă tạo
dựng tất cả bằng lời của Ngài: “Thiên Chúa
đă phán: hăy có ánh sáng; và đă có ánh sáng” (St. 1, 6). Thiên Chúa tạo
dựng con người v́ yêu con người, và Ngài đă
tạo dựng tất cả v́ con người và cho con
người, để con người được
thuộc về Thiên Chúa t́nh yêu[13].
Thiên Chúa không
chỉ yêu và diễn tả t́nh yêu của Ngài đối
với con người qua việc tạo dựng bằng
Lời, nhưng Ngài c̣n dùng Lời Ngài làm nên lịch sử
Israel qua việc giải phóng dân Israel ra khỏi Ai cập
bởi Môsê.
Những
điều Thiên Chúa nói với Môsê phải được
thực hiện và đă được thực hiện:
·
“Ta sẽ
ở với ngươi. và này là những dấu chứng
thực là Ta đă sai ngươi: khi ngươi đă
dẫn dân ra khỏi Ai cập... Các ngươi sẽ
thờ Thiên Chúa trên núi này” (Xh. 3,12);
·
“Ta
biết: vua Ai cập sẽ không cho phép các ngươi
đi, trừ phi là dưới một bàn tay mạnh.
Nhưng Ta sẽ giương tay đánh phạt Aicập
bằng đủ thứ sự lạ Ta sẽ làm giữa
nó. Và sau đó hắn sẽ thả các ngươi đi”
(Xh. 3, 19-20);
·
“Bấy
giờ ngươi sẽ nói với Pharaô: Yahweh phán
rằng: Con đầu ḷng của Ta là Israel, nên Ta nói
với ngươi: hăy buông thả cho con Ta đi để
nó phụng thờ Ta! Nhưng ngươi đă
khước từ không chịu thả ra, th́ này phần Ta,
Ta sẽ giết chết con đầu ḷng của
ngươi” (Xh. 4, 22-23).
Những
điều Môsê nói không phải là của Môsê, nhưng là
của Thiên Chúa; chính v́ vậy những lời Môsê nói nhân
danh Thiên Chúa sẽ trở thành hiện thực, trở thành
biến cố “Vậy bây giờ ngươi hăy đi, chính
Ta sẽ ở với miệng ngươi và Ta sẽ
dạy cho ngươi điều ngươi phải nói”
(Xh. 5, 12).
Sách Xuất Hành
cho thấy những điều Thiên Chúa phán truyền đă
được thực hiện. Thiên Chúa đă giải phóng
dân Israel ra khỏi Ai cập bằng lời của Ngài.
Lịch sử dân Israel là lịch sử Lời Thiên Chúa làm
nên lịch sử dân riêng Ngài.
Thập giới,
mười giới răn được Thiên Chúa ban cho dân
Israel, là lời của Thiên Chúa. Thập giới
được ban như những điều kiện
của giao ước giữa Thiên Chúa và con dân Israel. Và chúng
ta đă biết, thập giới chi phối toàn bộ
đời sống dân Israel sau này:
·
Sách
Thẩm Phán cho cái nh́n về lịch sử dân Israel,
lịch sử những phản bội và hối hận,
lịch sử ghi lại những can thiệp của Thiên
Chúa đối với dân riêng của Ngài;
·
Các sách
lịch sử c̣n lại như sách Samuel, sách các vua, sách kư
sự..., cũng cho thấy những thăng trầm
của dân Israel đối chiếu với đời
sống đời sống giữ giao ước của
dân;
·
Các sách tiên
tri cũng cho thấy Thiên Chúa can thiệp bằng lời
trong lịch sử dân Israel. Các tiên tri là các ngôn sứ,
đại diện Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa. Các tiên tri
đă cảnh cáo những người không tuân giữ lời
của Thiên Chúa, đă loan báo tương lai không tốt
đẹp nếu dân và những người lănh
đạo bỏ các giới răn Chúa. Những lời
tiên báo mất nước và lưu đày của các tiên tri,
đă được ứng nghiệm; có thể nói,
lời Chúa phán qua miệng các tiên tri đă làm nên lịch
sử dân Israel.
Lịch sử dân
Israel đă được lời các tiên tri loan báo
trước, hoặc đă được lời các tiên
tri giải thích sau đó, là lời Thiên Chúa làm nên lịch
sử dân Israel, là dấu chỉ để con người
hiểu được Thiên Chúa và con người, là
dấu chỉ cho thấy t́nh yêu Thiên Chúa bày tỏ cho con
người và đặc biệt là cho dân tộc Do Thái.
Trong Kinh Thánh
Cựu Ước, Chúa thường nói với con
người, chẳng hạn “Yahweh đă hiện ra cho
Abraham và phán bảo ông” (St. 12, 7; 17, 1;...), “Lời của
Yahweh đến với Abram trong thị kiến mà rằng
...” (St. 15,1), “Xảy có lời Yahweh đến với
Yêrêmia rằng ...” (Yer. 28, 12). Thiên Chúa hiện ra cho các
bậc thánh nhân này như thế nào? làm sao các vị này nghe
được tiếng Chúa phán?
Theo St. 18, 1 tt,
Thiên Chúa đă hiện ra với Abraham dưới dạng
ba người và nói chuyện với ông. C̣n theo Xh. 3,4 tt,
Thiên Chúa nói với Môsê từ giữa bụi gai. Thiên Chúa là
hiện hữu tự do,
Ngài có thể hiện ra cho con người như thế nào
tùy ư ngài, Ngài có thể nói với con người như
thế nào cũng hoàn toàn do Ngài; nhưng dù con người
thấy [14]hay nghe,
điều chắc chắn là con người biết
chắc chắn, ư thức chắc chắn điều
đó[15].
Thiên Chúa đă
không dừng lại với những lần hiện ra cho
một số người, Ngài cũng không chỉ giới
hạn việc phán bảo trong một số trường
hợp. Với t́nh yêu, Ngài đă thực hiện một
điều vượt quá sức hiểu biết của
con người: Lời Thiên Chúa đă thành xác phàm (Ga. 1, 14).
T́nh yêu không
chỉ hệ tại lời nói, nhưng chủ yếu
hệ tại việc làm[16]!
Trong t́nh yêu, các ngôi vị hướng tới hiệp
nhất, trở thành một với nhau. T́nh yêu giữa con
người cho thấy như vậy! Khi hai người
yêu nhau họ trở thành một thân thể. Khi yêu, các ngôi
vị thông ban cho nhau những ǵ ḿnh có, để rồi
tất cả là chung; như vậy người ta chia
sẻ cho nhau của cải, chức quyền, tri thức,...!
Sự trao ban đạt tới cao điểm khi mỗi
người tận hiến chính ḿnh cho người ḿnh yêu.
Nếu Lời Thiên Chúa làm người, nếu Thiên Chúa ban
tặng chính Ngài cho chúng ta, th́ Thiên Chúa yêu con người vô
cùng!
Nhập thể
làm người, là hành vi Thiên Chúa thông ban chính ḿnh. “Thiên Chúa
đă yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một
Người, để những ai tin vào Ngài th́ không
phải hư đi nhưng được sự sống đời
đời” (Ga. 3, 16).
Trong thời gian
Đức Yêsu đi rao giảng, Ngài đă làm nhiều phép
lạ. Lúc đầu nhiều người đến nghe
Ngài, và nhiều người muốn làm môn đệ Ngài;
nhưng khi nghe những lời Ngài rao giảng, một
số đă bỏ đi v́ điều Ngài nói “không thể
chấp nhận được” (Ga. 6, 61. 66). Dù lời rao
giảng của Đức Yêsu được các phép
lạ đi kèm[17],
nhưng những lời của Đức Yêsu quá
đặc biệt, đến độ người ta
không chấp nhận được!
Vài lời nói “khác
thường” của Đức Yêsu:
·
Ngài
nhận Ngài có quyền tha tội. Theo quan niệm của
người Do Thái, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha
tội (Mc.2, 5.7; Lc.7, 48-49);
·
Ngài
nhận Ngài có trước Abraham (Ga. 8, 58);
·
Ngài
nhận Ngài và Cha là một (Ga. 10, 30); Ngài đă bị
người ta lấy đá ném, v́ “Ông là một
người phàm mà dám cho ḿnh là Thiên Chúa” (Ga. 10, 33);
·
Ngài
nhận Ngài là “Con Người ngự bên hữu quyền
năng và đến với mây trời” (Mc. 14, 62). Lời
này làm Đức Yêsu bị kết án tử v́ người
ta cho rằng Ngài phạm thượng, chỉ là con
người mà dám nhận ḿnh ngang hàng với Thiên Chúa.
Sau biến cô
tử nạn và phục sinh, các tông đồ nhận ra
Đức Yêsu Nazareth là Con đích thực của Thiên Chúa
theo bản tính, là Thiên Chúa, v́ nếu Ngài nói không đúng
sự thật, th́ Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài từ
cơi chết. Nếu Thiên Chúa đă phục sinh Ngài, hàm
chứa những điều Ngài nói về Ngài và về Thiên
Chúa, phải là những điều chân thực.
Nếu
Đức Yêsu Nazarét là Thiên Chúa nhập thể, là Con Thiên
Chúa, th́ t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người thật vô cùng! “Thiên Chúa đă yêu thế gian
đến nỗi đă ban Con Một Ngài, để
những ai tin vào Con Ngài th́ không phải hư mất
nhưng được sống đời đời” (Ga.
3, 16). Đức Yêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, lời bày
tỏ t́nh yêu của Thiên Chúa cho con người. Nơi
Đức Yêsu Nazareth, nơi con người chết treo
thập giá, t́nh yêu của Thiên Chúa Cha được
mặc khải. Đức Yêsu Kitô là dấu chỉ t́nh yêu
của Thiên Chúa cho con người.
Đức Yêsu
không chỉ làm chứng rằng Thiên Chúa Cha yêu con
người, nhưng Ngài c̣n mặc khải cho con
người biết Ngài cũng yêu con người vô cùng.
“Không có t́nh yêu nào lớn hơn là thí mạng sống ḿnh v́
bạn hữu” (Ga. 15, 13)[18].
Đức Yêsu là
đường, là sự thật, và là sự sống (Ga.
14, 6). Đức Yêsu vừa là phương tiện mặc
khải, vừa là nội dung mặc khải. Ngài là phương
tiện mặc khải tuyệt vời, v́ Ngài là Lời
Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. “Không ai đến
với Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga. 14, 6b).
Ngài là nội
dụng mặc khải, v́ Ngài là Lời Thiên Chúa, là h́nh
ảnh của Thiên Chúa vô h́nh” (Col. 1, 15). “Ai thấy Ta là
đă thấy Cha” (Ga. 14, 9b). Ngài là t́nh yêu của Thiên Chúa
được bày tỏ, ai biết Ngài là biết
được t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người, ai tin Ngài là tin vào Thiên Chúa, là tin vào Thiên Chúa t́nh
yêu. Ai giữ Lời Người th́ ở trong t́nh yêu, và
ở trong t́nh yêu th́ biết Thiên Chúa. Cái biết đây không
c̣n ở trạng thái lư luận của lư trí, nhưng ở
tại sự đồng cảm của con tim. Chính nhờ
t́nh yêu mà lư trí biết Thiên Chúa.
Đức Yêsu là
mục đích của mặc khải, v́ khi con người
đáp trả mặc khải bằng tin vào Ngài, phó thác vào
Ngài th́ con người được sống đời
đời (Ga. 3, 16b), được ở trong Thiên Chúa,
được sống trong t́nh yêu .
Nói một cách khác
như trong tin mừng theo thánh Yoan, Đức Yêsu là sự
sáng (Ga. 9), là mục tử tốt lành (Ga. 10), là Nước
hằng sống (Ga. 4), là Bánh hằng sống (Ga. 6), là
sự sống lại và là sự sống (Ga. 11).
Thánh Thần mà
Đức Yêsu hứa ban, đă tỏ hiện vào ngày
lễ Ngũ tuần (Cv. 2, 1 tt), là bảo đảm t́nh
yêu của Thiên Chúa Cha và của Chúa Yêsu đối với
con người. Nhờ Đức Yêsu mà Thánh Thần đă
được ban cho con người. Thánh Thần hoạt
động trong Hội Thánh, nơi những kẻ tin,
để rồi Hội Thánh trở thành dấu chỉ
của Thánh Thần, trở thành dấu chỉ t́nh yêu
của Thiên Chúa đối với con người.
Thánh Thần thánh
hóa con người, làm cho con người nên thánh. Chính Thánh
Thần làm cho con người tuyên xưng đức Yêsu là
Chúa: “Không ai có thể nói Đức Yêsu là Chúa mà lại không
bởi sức Thánh Thần” (1Cor. 12, 3). Đức Yêsu nói:
“Nếu các ngươi lưu lại trong lời Ta, th́
hẳn thật, các ngươi là môn đồ Ta, và các
ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật
sẽ cho các ngươi được tự do” (Ga. 8,
31-32). “Khi nào Ngài đến, v́ là Thần Khí sự thật,
Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự
thật” (Ga. 16, 13). Thiên Chúa thánh hóa chúng ta bởi Thánh
Thần của Người, bởi Lời mà Thánh Thần
dạy chúng ta[19]
“xin hăy tác thánh chúng trong sự thật, Lời của Cha là
sự thật” (Ga. 17, 17).
Thiên Chúa là
Đấng thánh, là Đấng chí thánh, chỉ có một
ḿnh Thiên Chúa là Đấng thánh. Khi Thiên Chúa đến ở
với ai Ngài sẽ làm người đó ta được
nên giống Ngài, nghĩa là được trở nên thánh,
tách biệt khỏi thế gian và chỉ thuộc về
Thiên Chúa thôi. Khi được nên giống Thiên Chúa,
thuộc về Thiên Chúa, tức là được cứu
độ.
Lời hứa
Thiên Chúa cho Abraham, nói lên khao khát của Abraham và của
tất cả mọi người: có đất đai làm
gia nghiệp, có con nối dơi tông đường, nên
mối chúc lành[20].
Khao khát có con cái
nối ḍng là một h́nh thức khác của ao ước
sống lâu, trường sinh bất tử [21].
Thiên Chúa đă mặc khải cho dân Israel biết cái
chết là hậu quả của tội, đau khổ là
hậu quả của hành vi chống lại Thiên Chúa (St. 3,
1tt). Điều con người hằng khao khát nhưng
không thể đạt được, th́ Đức Yêsu
Nazareth, Lời Thiên Chúa nhập thể, đă làm thành
hiện thực. Con người sẽ được
sống đời đời nếu con người tin vào
Ngài (Ga. 3, 16; 17,3), nếu con người ăn bánh hằng
sống là thịt ḿnh Ngài (Ga. 6, 51[22]).
Con người
khao khát có nhiều tiền của. Sung túc[23]
cũng là dấu chỉ của một người
được thương và hạnh phúc. Nhưng nếu
Đức Yêsu Kitô là Quà Tặng Thiên Chúa ban cho con
người, nếu Thánh Thần là Quà Tặng của Thiên
Chúa Cha và Con cho con người, th́ đâu c̣n ǵ khác quư hơn
để con người ao ước nữa? Những ǵ
thuộc trần thế làm sao so sánh được với
hồng ân là chính Thiên Chúa? Có Thiên Chúa là có tất cả.
Thiên Chúa là tài sản, là gia nhiệp của những
người được Thiên Chúa yêu. Đức Yêsu là
bảo đảm cho những người tin vào Ngài
rằng họ được Thiên Chúa yêu thương, và
Thiên Chúa là gia nghiệp của họ[24].
Dân Israel đă
từng cầu nguyện và mong chờ Thiên Chúa sai
Đấng Kitô tới giải phóng họ khỏi làm nô
lệ bên Aicập, khỏi sự đàn áp của các dân
tộc vùng Canaan, khỏi ách nô lệ lưu đày Babylon.
Thiên Chúa đă nhận lời, Ngài đă sai Môsê, các thẩm
phán, vua Kytô xứ Batư đến để giải phóng
họ. Khi thời gian viên măn, lúc dân Israel mong chờ Thiên
Chúa sai Đấng Kitô giải phóng họ khỏi làm nô
lệ đế quốc Roma, th́ Ngài đă sai Đấng
Kitô là chính Con Ngài xuống, không phải để giải
phóng họ khỏi ách nô lệ chính trị, nhưng
để giải phóng họ khỏi ách nô lệ tội
lỗi. Đức Kitô Con Một Thiên Chúa đă giao ḥa con
người với Thiên Chúa, đă đưa con
người thoát khỏi nô lệ tội lỗi và ma
quỉ, dẫn con người đến với Thiên Chúa.
Đức Yêsu
Kitô Phục Sinh đă hoàn tất mặc khải, nhưng
con người vẫn phải chờ mọi sự
được tỏ lộ vào ngày Chúa quang lâm[25].
Đức Yêsu đă hứa Ngài sẽ trở lại
đón chúng ta: “Và nếu Ta ra đi và dọn chỗ cho các
ngươi, th́ Ta sẽ đến lại và đem các
ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi
cũng ở đó” (Ga. 14, 3). Về
ngày và giờ Chúa quang lâm, không ai biết trừ Chúa Cha[26].
Vào ngày đó, Thiên Chúa sẽ làm mới mọi sự (Kh. 21,
5), sẽ có trời mới đất mới (Kh. 21, 1). Ngày
đó, Đức Yêsu Kitô sẽ biến đổi thân xác
khốn hèn của ta, trở nên đồng h́nh đồng
dạng với thân xác vinh quang của Ngài (Ph. 3, 21). Ngày
đó, những kẻ chết trong Đức Kitô sẽ
sống lại (1Thess. 4, 16), sẽ đi đón Chúa, sẽ
được ở với Chúa luôn măi (1 Thess. 4, 17). Đó
là ngày Thiên Chúa thu họp vạn vật dưới một
đầu một mối là Đức Kitô, dù vật nơi
trời cao dù vật nơi dương thế (Eph. 1, 10).
Đức Yêsu
Kitô là Đấng hoàn tất mặc khải, là tột
đỉnh của mặc khải. Thời hiện tại
là thời đại cánh chung. Vào ngày Chúa quang lâm, Thiên Chúa sẽ
là tất cả cho mọi sự. Trong tâm t́nh chờ
đợi, chúng ta luôn hợp với tất cả mọi
kitô hữu tuyên xưng “Lạy Chúa, chúng con loan truyền
Chúa đă chịu chết, và tuyên xưng Chúa đă sống
lại, cho tới khi Chúa lại đến”[27].
Giáo tŕnh này đă
xem xét
·
khả
thể mặc khải ở phần I:
Thiên Chúa mặc khải cho con người hay không, là
tùy Ngài;
·
Thiên Chúa
đă mặc khải cho dân Israel (phần II):
bằng những điềm thiêng dấu lạ, Thiên
Chúa đă giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ bên
Aicập và Ngài có một tương quan rất đặc
biệt với dân;
Cũng trong
phần này, một dấu lạ tuyệt vời là
Đức Yêsu Kitô; chính nhờ biến cố tử
nạn và phục sinh của Đức Yêsu Kitô mà con
người nhận ra t́nh yêu tuyệt vời của Thiên
Chúa đối với con người;
·
phần
III:
những nỗ lực của tín hữu nhằm lư
giải đức tin cho mọi người; phần này
cũng cho biết những sai lệch mà kitô hữu cần
tránh để hiểu đúng thực tại mặc
khải;
·
phần IV:
một nỗ lực lư giải cách nhất quán về
mặc khải.
Mặc khải là
tri thức của Thiên Chúa, là lời Thiên Chúa ban cho con
người, để con người biết về Thiên
Chúa, về con người và về chương tŕnh cứu
độ con người; mặc khải c̣n
được coi là cuộc t́nh giữa Thiên Chúa và con
người, trong đó Thiên Chúa gặp gỡ, mời
gọi, tỏ lộ và chăm lo săn sóc con người;
đỉnh điểm mặc khải là Đức Yêsu
Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Với
biến cố này, Thiên Chúa đă đi đến tận
cùng của t́nh yêu: Ngài trao ban chính ḿnh cho con người.
Biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm
người, vừa là t́nh yêu vừa là phương tiện
tuyệt hảo biểu lộ t́nh yêu.
Với biến
cố Lời Thiên Chúa nhập thể, mặc khải không
chỉ ở b́nh diện tri thức, nhưng là chính
thực tại, chính sự sống vĩnh cửu, là
yếu tố cấu thành “đời sống theo Thần
Khí” của con người.
Thiên Chúa đă
mặc khải! Về phía con người? Con người
tự do đáp trả mặc khải. Đáp trả
mặc khải, không chỉ đơn thuần là tin
những điều được mặc khải là
đúng, nhưng chính yếu là tin vào Đấng mặc
khải, tin rằng Thiên Chúa yêu ḿnh, và như vậy, phó thác
đời sống ḿnh cho Thiên Chúa tùy Ngài định đoạt.
Các thiên thần phản loạn, biết có Thiên Chúa,
biết những điều được mặc
khải là chân lư, nhưng họ không quy phục Thiên Chúa,
họ không muốn sống trong t́nh yêu của Thiên Chúa,
họ không phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Mặc khải
đă xảy ra trong lịch sử, nhưng mặc khải
cũng được hiện tại hóa cho những
người đang sống. Như vậy, con người
phải liên tục đáp trả lời mời gọi
của Thiên Chúa trong cuộc sống, qua những biến
cố hàng ngày, qua kinh nguyện, qua lời rao giảng
của Hội Thánh...! Làm như vậy, là đang
vươn tới Thiên Chúa, là tin tưởng và phó thác
đời sống trong ṿng tay Thiên Chúa T́nh Yêu. Mặc
khải là mặc khải t́nh yêu và mặc khải
để sống trong t́nh yêu.
(Những sách
được trích dẫn)
ĐÀO DUY ANH, Hán Việt Từ Điển, PARIS 1950
J. AUER, art. “Grâce”, II: Theological, SACRAMENTUM MUNDI 1, BURNS and
OATES 1968
M. A. BAILLY,
Abrégé du Dictionnaire Grec - Francais, PARIS 1961
H. M. BAUMGARTNER, art. “Transcendantal Philosophy”, SACRAMENTUM MUNDI,
BURNS & OATES 1968
E. BIHLMEYER, Histoire de l'E'glise, t. I , SALVATOR - PARIS 1962
F. CAYRÉ, Précis de Patrologie, t. I, DESLÉE et Cie- PARIS 1927
H. CAZELLES, Introduction à la Bible
Introduction critique à l'ancient Testament, t. II, DDB. 1973
Y. DORTIGUES, La Foi et la Théologie, PARIS 1962
H. CORNELIS et A. LÉONARD, La Gnose éternelle, Col. Je sais-ie crois,
n.146 - PARIS 1959
A. DARTIGUES, La Révélation du sens au salut, DESCLÉE 1985
J. DE FINANCE, Connaissance de l'Être, DDB- PARIS 1966
H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974
DENZINGER - SCHOENMETZER, Enchiridion Symbolorum Definitionum et
Declarationum, HERDER 1963
A. DULLES, Revelation Theology, BURNS and OATES - HERDER and HERDER 1969
H. FRIES, art. “Révélation”, trong MYSTERIUM SALUTIS t. I, vol. I, CERF-
PARIS 1969
H. FRIES, “Le Mythe et la Révélation”, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES
AUJOURD’HUI, DDB - PARIS 1964
Cl. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale. Essai
d'interprétation”, trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28
R. HAARDT, art. “Gnosticism”, trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES
1968
A. HALDER, art. “Knowledge”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
U. HORST, “La conception de la Révélation dans la haute scolastique”
trong MICHEL SEYBOLD, La révélation dans l'écriture, la patristique, la
scolastique, CERF- PARIS 1974
Thánh Công
đồng chung Vaticanô II, GHHV PIÔ X ĐÀ LẠT, SAIGON 1972
R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits- La doctrine augustinienne de
l'illumination, DDB et Cie- PARIS 1934
N. JUNG, art. “Révélation”, trong DTC, t. XIII, col. 2586
A. KELLER, art. “Universals”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES
1968
K. KRENN, art. “Kantiannism”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES
1968
R. LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB. 1966
R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968
R. LATOURELLE, art. “La spécificité de la Révélation chrétienne”, trong
STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum, LIPSIAE 1905
J. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài Kitô
giáo, ĐALAT 1982, bđm.
LNC (14.12.52), Dẫn nhập Thần học, ĐL. 38
A. LOISY, The Gospel and the Church, PARIS 1903
J. E. McKENZIE, Dictionary of the Bible, MILWAUKKE 1965
J. E. McKENZIE, art. “Aspects of old Testament Thought”, trong Jerome
Biblical Commentary
LÊ TÔN NGHIÊM, Lịch sử Triết học Tây
Phương, LÁ BỐI 1970
G. PARRINDER, “Revelation in other Scriptures” trong STUDIA MISSIONALIA,
vol. XX, GREGORIANA 1971
PAUL VI, enc. “Ecclesiam suam”
K. RAHNER, L'Esprit dans le monde, MAME 1968
K. RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, MAME 1967
K. RAHNER, “A propos de la réforme des études ecclésiastiques”, trong K.
RAHNER, Est-il possible aujourd'hui de croire, MAME 1966
K. RAHNER, art. “SALVATION”, trong MYSTERIUM SALUTIS - HERDER 1970
F. RICKEN, art. “Platonism”, trong SACRAMENTUM MUNDI
J. SPLETT, art. “Agnosticism”, trong SACRAMENTUM MUNDI - BURNS and OATES
1968
P. STOCKMEIER, “Révélation dans l'Église chrétienne primitive”, trong La
Révélation dans l'Écriture, la patristique, la Scolastique, Col. HISTOIRE DES
DOGMES- CERF 1974
THANH NGHỊ, Việt Nam Tân Tự Điển Minh
Họa, KHAI TRÍ - SAI GON 1965
THIỀU CHỬU, Hán Việt Tự Điển, HÀ
NỘI 1942
G. THILS, Propos et Problèmes de la théologie des religions
non-chrétiennes, CASTERMAN 1966
S. THOMAE In
Aristotelis Librum De Anima Commentarium, MARIETTI - ITALY 1959
S. THOMAE, Summa Theologiae, MARIETTI-ITALY 1952
S. THOMAE AQUINATIS, Liber de Veritate Catholicae Fidei contra errores
Infidelium seu Summa Contra Gentiles, MARIETTI 1961
F. J. THONNARD, Extraits des grands philosophes, DESCLÉE et Cie-PARIS
1963.
F. J. THONNARD, Présis d'histoire de la philosophie, DESCLÉE et Cie-PARIS
1966.
Kinh Thánh, bd.
NGUYỄN THẾ THUẤN, DCCT-SG. 1976
INHAXIO LOYOLA, Linh thao, NTDT- THỦ ĐỨC 1969
G. A. WETTER, art. “Marxism”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES
1968
HOME THẦN HỌC
MẶC KHẢI MK1 MK2 MK3 MK4 MK5 MK6 MK7
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
[1] CONCILIUM FLORENTINUM, Bulla unionis Coptorum Aethiopumque “Cantate Domino”, 4 Febr. 1442
DS. 1330: “Omnia in Deo sunt unum, ubi non obviat relationis oppositio”.
[2] Lư trí “tự do”, là lư trí không dừng lại nơi sự vật, nhưng siêu vượt vật thể hướng về hiện hữu tất yếu tuyệt đối.
[3] Xem DS. 73; 172; 415; ...
[4] Khi nói: “T́nh yêu là hành vi tự do”, phải hiểu là: “hành vi biểu lộ t́nh yêu là hành vi tự do”>).
[5] THIỀU CHỬU, Hán Việt từ điển, HÀ NỘI 1942
Ân: ơn. Yêu mà giúp đỡ ban cho cái ǵ gọi là ân.
[6] God became man so that man might become God
(Athanasius and Gregory Nazianzenus).
Cf. JOHANN AUER, art. “Grace”, II: Theological,
SACRAMENTUM MUNDI I, p. 413
[7] H. CORNÉLIS et A. LÉONARD, La Gnose éternelle, PARIS 1959, p. 7
coll. Je sais-je crois, n. 146
[8] Op. cit., pp. 34 ss
A. DARTIGUES, La Révelation du sens au salut, DESCLÉE 1985, pp. 22 ss
ROBERT HAARDT, art. “Gnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968, pp. 379-381
[9] Các triết thuyết cũng có thể trở thành tôn giáo; lúc đó chân lư theo triết thuyết trở thành tri thức cứu độ đối với người tin và theo triết thuyết đó. Người ta có thể gọi nó là ngộ đạo triết lư.
Cf. A. DARTIGUES, op. cit., pp. 25-36
[10] E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum,
LIPSAE 1905, từ "DABAR”, p. 75
[11] A. BAILLY, Abrégé du dictionnaire Grec-Francais,
HACHETTE-PARIS 1961, từ ngữ “logos”, p. 538
[12] Ghi chú nơi S. THOMAE Summa theologiae, I, q. 85, a. 2 của nxb. MARIETTI 1952, p. 584
[13] 1Cor. 3, 21b-23: V́ mọi sự đều thuộc về anh em, dù là Phaolô, Apôllô, hay Kêpha, dù là thế gian, dù là sự sống hay sự chết, dù là hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, c̣n anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa.
[14] thấy trong giấc mộng, như trường hợp thiên thần hiện ra cho Yuse Mt. 1, 20
[15] Lời xét như phương tiện mặc khải ở đây, được hiểu một cách tối thiểu như các ư niệm.
[16] YNHĂ, Linh Thao, NHÀ TẬP D̉NG TÊN 1969, số 230
[17] như chữa lành nhiều bệnh nhân, cho người què đi được, kẻ câm nói được, người mù được thấy, người chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, đi trên biển, quát biển im lặng...
[18] xem thêm Ga. 10, 17-18 và Mt. 26, 28.
[19] Ga. 14, 26: “Nhưng Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta đă nói với các ngươi”.
Ga. 16, 13-15: “...V́ không phải tự ḿnh mà Ngài nói, nhưng nghe ǵ Ngài sẽ nói ra, và Ngài sẽ loan báo cho các ngươi những điều sẽ đến... Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi...”
[20] Lời hứa của Thiên Chúa cho Abraham: “Hăy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành...” (St. 12, 1-2).
“Ta sẽ ban xứ này cho ḍng giống ngươi” (St. 12, 7).
“Hăy ngước mắt lên và từ chỗ ngươi đứng, hăy nh́n tứ phía Bắc Nam Đông Đoài. V́ toàn xứ ngươi thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và ḍng giống ngươi cho đến vạn đại...” (St. 13, 14-15).
“Ta sẽ cho ḍng giống ngươi đông như bụi đất, khiến cho ai đếm được bụi đất, th́ cũng tính sổ được ḍng giống ngươi” (St. 13, 16).
“Lạy Yavê, Ngài ban ǵ cho tôi khi tôi vô hậu... Hăy nh́n lên trời và hăy đếm các tinh sao, nếu ngươi có tài đếm được chúng... “ (St. 15, 2-5).
[21] Khao khát sống lâu được coi như khao khát chính đáng. Sống lâu được coi như dấu chỉ Thiên Chúa chúc lành cho người đó.
Xh. 20, 12: “Hăy trọng kính cha mẹ, ngơ hầu ngày đời ngươi được kéo dài trên thửa đất...” Cf. Đnl. 4, 40; 5, 33; 6, 2; ...
[22] Bánh hằng sống bởi trời xuống, chính là Ta! Ai ăn bánh này, th́ sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt ḿnh Ta v́ sự sống thế gian.
[23] Kinh Thánh nói Abraham giàu có (St. 13, 2), hoặc ông Job có nhiều của cải (Jb. 42, 10-17), th́ được hiểu trong ư nghĩa này.
[24] Đây cũng là lư do tại sao có những người xả thân sống đời dâng hiến, họ từ chối lập gia đ́nh, và không t́m kiếm hoặc thu tích của cải...
[25] Công Đồng Vatican II trong hiến chế Dei Verbum số 4, dạy:
“Vậy nhiệm cục Kitô giáo, v́ là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một. Chúng ta không phải chờ đợi một mặc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Yêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang”.
Cha F. Gomez giải thích: “V́ Chúa Kitô là sự viên măn và như vậy hoàn tất mặc khải, nên không c̣n ǵ vượt trên sự viên măn nữa. Nhưng cuộc mặc khải c̣n chờ sự vinh quang vào ngày Quang Lâm”.
Xem trong THÁNH CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II, bản dịch của GGHV-DALAT VIETNAM 1972, p. 571, ghi chú 13
[26] Mc. 13, 32: “Về ngày ấy hay giờ ấy, th́ chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa trừ phi là Cha”. Cf. 1Thess. 5, 1-3.
[27] Lời tuyên xưng sau truyền phép trong thánh lễ theo nghi thức Roma.