Hướng Dẫn Sống Linh Thao Trong Kỳ Dịch Covid-19

Hướng dẫn sống Linh Thao ngày 2.5.2020

 

GIỚI THIỆU BỘ NHẬN ĐỊNH THẦN LOẠI THỨ HAI (LT 328-336)

 

Anh chị em thân mến,

 

Khi bàn về việc nhận định thần loại, tôi đã chia sẻ với anh chị em rằng, cảm xúc là đối tượng của việc nhận định thần loại. Bởi lẽ cảm xúc và cách riêng cảm xúc thiêng liêng vốn tỏ lộ qua sự An Ủi (AU) hay Sầu Khổ (SK) có tính chủ quan cần phải được chuẩn mực khách quan kiểm tra: chuẩn mực tự nhiên của phẩm giá làm người đòi người ta làm điều tốt tránh điều xấu (LT 23), và chuẩn mực siêu nhiên của phẩm giá làm con Thiên Chúa mời gọi người ta chọn điều tốt hơn của tình yêu Đức Giêsu (agapê), so với điều tốt tự nhiên (Lt 91-98). Khi đề cập về việc nhận định thần loại ở bộ thứ nhất, thánh I-nhã dùng phương pháp đại biểu bằng cách lấy SK của người ở đời sống thanh luyện thuộc cấp độ nhân bản ra phân tích, để sau đó người ta áp dụng cách loại suy cho hai đời sống soi sáng và thần hiệp thuộc cấp độ siêu nhiên.

 

Hiện nay, chúng ta đang được đào luyện ở Tuần Hai để dẫn vào đời sống soi sáng có Kitô tính. Dưới ánh sáng của bài Hai Cờ hiệu, thánh I-nhã cũng trình bày cho chúng ta một bộ nhận định thần loại thứ hai. Và Ngài cũng dùng phương pháp đại biểu, khi lấy AU của người ở cấp độ thiêng liêng cao nhất, là AU của người ở đời sống soi sáng bước sang thần hiệp ra phân tích, rồi sau đó được áp dụng một cách loại suy cho AU của người ở đời sống thanh luyện. Hôm nay tôi xin trình bày cho anh chị em về tựa đề của bộ Nhận đinh thần loại thứ II (NĐTL II) và cấu trúc của nó. Chúng ta sẽ bàn chi tiết của bộ này trong những ngày tới.

 

1/ Tựa đề của bộ NDTL II

 

Tựa đề được viết như sau: “Những qui tắc về cùng một hiệu quả với việc nhận định tốt hơn (con mayor discreción) về các thần loại (de espiritus) và các qui tắc này thích hợp hơn cho Tuần thứ hai” (LT 328).

 

So sánh với tựa đề của bộ NĐTL II này với bộ NĐTL I, ta thấy có sự khác biệt đáng kể: tựa đề của bộ NĐTL I được viết dưới dạng mô tả về những cấu tố làm nên việc nhận định, cùng với hậu quả về mặt luân lý để tìm ra những tác nhân (LT 313), trong khi đó, tựa đề bộ NĐTL II không viết dưới dạng mô tả mà dạng khẳng định: cùng một hiệu quả – với việc nhận định tốt hơn – về các thần loại – thích hợp hơn cho Tuần Hai.

 

– Trước hết, bộ NĐTL I chỉ nói về hậu quả: tốt/xấu ngang qua những tác động của cảm xúc mà không đá động đến tác nhân, vì ngang qua hậu quả người ta tìm được tác nhân; ngược lại bộ NĐTL II lại khẳng định về tác nhân mà không nói đến hậu quả. Thánh I-nhã chỉ nói: “ Những qui tắc về cùng một hậu quả… về các thần”. Dù không nói tới, chúng ta cũng hiểu được rằng hậu quả ở đây cũng chính là những biểu lộ của cảm xúc dưới dạng AU hay SK, nhưng nằm ở bình diện khác và được cân đo dưới một chuẩn mực khác.

 

Quả vậy, cụm từ “thích hợp hơn cho Tuần Hai” cho ta thấy rằng việc đào luyện không còn dừng lại ở bình diện nhân bản để con người được cứu độ, mà vươn vào bình diện siêu nhiên để nên môn đệ Chúa Giêsu và nên nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ Ngài. Mà ở bình diện siêu nhiên, thao viên được đào luyện để dấn thân sống tình yêu thần linh (agapê), một thứ tình yêu mà loài ngưởi chê bỏ và loại trừ, như thánh Phaolô đã từng luận lý rằng ,Thập giá là cớ vấp phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy lạp, tức dân ngoại (1Cr 1,17-31). Chính tình yêu “agapê” này là chuẩn mực mới cho việc nhận định thần loại, chuẩn mực của điều tốt hơn của phẩm giá thần linh so với điều tốt nhân bản. Đó là chuẩn mực mà kẻ thù thực hiện việc cám dỗ không còn ở hình thức làm “điều xấu” mà cám dỗ dưới dạng “sự thiện” (LT 102).

 

– Thứ đến, bộ NĐTL II không sử dụng hai động từ liên quan đến việc nhận định: cảm thấy và nhận biết, mà xác định bằng danh từ “việc nhận định” với tính từ “tốt hơn”. Mà theo lẽ thường danh từ “việc nhận định” (discernimiento, discernment) phải được rút ra từ động từ của nó (discernir, to discern). Thế nhưng thánh I-nhã đã không sử dụng danh từ này mà ngài sử dụng danh từ “discreción”, từ ngữ thuộc thời trung cổ trong đó có thánh Bernard “discretio spirituum”. Tại sao vậy? Thưa, vì danh từ “discreción, discretion” có liên lạc với tính từ “discreto, discreet”; mà tự nó, Discreto có nghĩa là kín đáo, thận trọng, cẩn mật… vốn là những phẩm chất chỉ có trong tương quan của những hữu thể có ngôi vị mà thôi. Như vậy, khi thánh I-nhã đánh giá bộ NĐTL II này tốt hơn vì lẽ lúc này, chủ thể không còn dựa vào chuẩn mực theo sự vật (tốt/xấu) của luân lý trong việc nhận định mà dựa vào chuẩn mực của thần linh mà Đức Giêsu mặc khải chính mình cho họ. Chuẩn mực này đã khởi sự ở bài Lời gọi Vua Hằng Sống, xét như Nguyên Lý và Nền Tảng siêu nhiên cho việc đào luyện (LT 91-98).

 

– Cuối cùng, thánh I-nhã nói: “Những qui tắc này thích hợp hơn cho Tuần thứ hai” nhằm áp dụng phương pháp đại biểu. Nghĩa là sự phân tích của bộ NĐTL II này áp dụng cho những người thuộc đời sống soi sáng và thần hiệp theo đúng nghĩa và nó sẽ được áp dụng cách loại suy cho những người thuộc đời sống thanh luyện – cụm từ “thích hợp hơn cho Tuần thứ nhất” của bộ thứ nhất cũng được hiểu như thế như ta đã có dịp nói đến.

 

2/ Cấu trúc bộ NĐTL II

 

Như đã giới thiệu, AU là đối tượng nhận định của bộ NĐTL II khi thao viên bước vào hành trình đào luyện thuộc đời sống soi sáng; và ngược lại với Bộ NĐTL I, thánh I-nhã lấy AU của người đạt tới mức trưởng thành cao nhất ra phân tích. Đối với Ngài, vị trí AU của người đó ở tại giao điểm giữa đời sống soi sáng và đời sống thần hiệp. Như vậy hai AU ở đây được đem ra phân tích: AU của đời sống soi sáng và AU của đời sống thần hiệp. Vì việc phân tích liên quan đến hai AU nên cách diễn đạt tư tưởng của ngài là những gì nói chung được, thì ngài gôm vào với nhau; còn những gì không thể, thì ngài tách riêng. Vì thế cấu trúc bộ NĐTL II được diễn tả dưới sơ đồ sau:

Lm. Giuse Lê Quang Chủng, SJ.

Kiểm tra tương tự

Ngày của Mẹ: 5 cách người Công giáo tôn vinh mẹ

Hãy dành tặng mẹ một món quà đong đầy đức tin vào Chúa nhật này …

8 vị thánh bảo trợ vĩ đại cho 8 sở thích phổ biến

Có một sở thích là cách tuyệt vời để thoát khỏi những căng thẳng trong …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *