Chương I | Chương II | Chương III | Chương IV | Chương V | Chương VI |
CHƯƠNG IV: CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO
Ơn gọi truyền giáo
Dù mọi môn đệ Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần vào công cuộc gieo vãi đức tin 1, nhưng Chúa Kitô luôn gọi những kẻ chính Người muốn, trong số các môn đệ mình, để họ ở với Người và để Người sai đi giảng dạy muôn dân 2 . Vì thế nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng tùy ý ban phát các đoàn sủng để mưu lợi ích chung 3, Chúa Kitô khơi dậy ơn kêu gọi truyền giáo trong tâm hồn từng cá nhân, đồng thời thúc đẩy trong Giáo Hội có những tổ chức 4 đảm nhận như một bổn phận riêng nhiệm vụ truyền bá Phúc Âm 35* của toàn thể Giáo Hội.
Do đó, những người có năng khiếu bẩm sinh thích ứng, đủ khả năng tinh thần và trí tuệ, sẵn sàng lãnh nhận công cuộc truyền giáo, đều được kể là có ơn gọi đặc biệt 5, 36* dù họ là người địa phương hay ngoại quốc, là linh mục, tu sĩ hay giáo dân.
Được quyền bính hợp pháp sai đi, do đức tin và đức vâng phục, họ ra đi đến với những người xa Chúa Kitô; họ được tách riêng ra để chu toàn công việc mà họ được chọn để thi hành 6 như là những thừa tác viên của Phúc Âm, “để việc phụng hiến dân ngoại làm lễ vật được chấp nhận và được thánh hóa trong Chúa Thánh Thần” ( Rm 15, 16).
Đường tu đức của nhà truyền giáo
Tuy nhiên, con người phải đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa để hoàn toàn dấn thân phục vụ Phúc Âm 37*, chứ không nghe theo xác thịt và máu mủ 7. Nhưng sự đáp lại này không thể thực hiện nếu không được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và củng cố. Thật vậy, kẻ được sai đi phải thấm nhuần đời sống và sứ mệnh của Đấng đã “tự hủy mình mà nhận lấy thân phận tôi tớ” (Ph 2,7). Do đó, họ phải sẵn sàng để suốt đời đứng vững trong ơn gọi của mình, phải tự bỏ mình và những gì mình có từ trước đến nay và “trở nên mọi sự cho mọi người” 8.
Trong khi rao giảng Phúc Âm giữa muôn dân, nhà truyền giáo phải mạnh dạn và tin tưởng làm cho người ta nhận biết mầu nhiệm Chúa Kitô mà họ là sứ giả, đến nỗi trong Người, họ dám nói như phải nói 9 và không xấu hổ về vẻ ô nhục của thập giá. Theo gương Thầy mình, Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, họ phải tỏ ra ách Người êm ái và gánh Người nhẹ nhàng 10. Họ phải làm chứng về Chúa của họ bằng đời sống Phúc Âm đích thực 11, đầy kiên nhẫn, đại lượng, nhân hậu, yêu mến chân thành 12, và nếu cần họ sẽ đổ máu ra. Họ sẽ nài xin Thiên Chúa lòng can đảm và sức mạnh để nhận ra nguồn vui sung mãn trong nhiều thử thách khổ tâm và thiếu thốn cực độ 13. Họ phải xác tín rằng đức vâng phục là sức mạnh đặc biệt của những thừa tác viên của Chúa Kitô, Đấng đã dùng sự vâng phục để cứu nhân loại.
Những nhà rao giảng Phúc Âm đừng hờ hững với ân sủng đã lãnh nhận phải tự canh tân tâm trí mỗi ngày 14. Vì thế, các Đấng Bản Quyền và Bề Trên phải hội họp các nhà truyền giáo vào những thời gian nhất định, để họ được củng cố bằng niềm cậy trông của ơn gọi và được canh tân trong thừa tác vụ tông đồ; lại cũng nên lập các cơ sở thích nghi với mục đích này.
Huấn luyện đời sống thiêng liêng và luân lý
Để đảm nhận công tác cao trọng đó, nhà truyền giáo tương lai phải được huấn luyện đặc biệt về đời sống thiêng liêng và luân lý 15. Thực vậy, họ phải mau mắn khởi xướng, kiên trì hoàn tất công việc, bền chí trong khó khăn, nhẫn nại và can đảm chịu đựng nỗi cô quạnh, sự mệt nhọc và những cố gắng vô hiệu. Họ sẽ đến cùng mọi người với tâm hồn rộng mở, với con tim bao dung, tình nguyện lãnh nhận nhiệm vụ được giao phó, quảng đại thích nghi cả với những phong tục khác thường của các dân tộc và những điều kiện sinh hoạt đổi thay, đồng tâm, tương ái cộng tác với anh em và mọi người đang hiến thân cho cùng một công việc, để theo gương cộng đoàn thời các Tông Đồ, họ cùng với các tín hữu hợp thành một con tim và một tâm hồn duy nhất 16.
Ngay trong thời kỳ huấn luyện, những dự kiện đó phải được chuyên tâm thực hành, trau dồi và phát triển nuôi dưỡng bằng đời sống thiêng liêng. Thấm nhuần đức tin sống động và đức cậy vững vàng, nhà trưyền giáo phải là con người cầu nguyện; phải được nung đúc bằng tinh thần can đảm, yêu thương và tự chủ 17; phải học quen tự túc trong mọi hoàn cảnh 18; phải lấy tinh thần hy sinh mang trên mình cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để sự sống Chúa
Giêsu tác động trong những người họ được sai đến 19; vì lòng nhiệt thành với các linh hồn, họ phải tự nguyện hy sinh mọi sự và tận hiến chính bản thân cho các linh hồn 20, để như vậy họ “gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày” 21. Như thế, vâng theo ý Đức Chúa Cha, họ sẽ cùng với Chúa Kitô tiếp tục sứ mệnh của Người dưới quyền phẩm trật trong Giáo Hội, và sẽ cộng tác vào mầu nhiệm cứu rỗi.
Huấn luyện giáo lý và làm tông đồ
Như những thừa tác viên xứng đáng của Chúa Kitô, những ai được sai đến với các dân tộc phải được nuôi dưỡng “bằng lời lẽ đức tin và giáo lý lành thánh” (Tm 4, 6) mà họ sẽ múc lấy, trước hết từ Thánh Kinh, trong khi đào sâu Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng họ phải rao giảng và làm chứng.
Bởi vậy, mọi nhà truyền giáo – linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân – đều phải được chuẩn bị và đào tạo theo hoàn cảng riêng của mỗi người để khỏi thiếu những khả năng đáp ứng với những đòi hỏi của công việc mai sau 22. Ngay từ đầu, việc huấn luyện giáo thuyết cho họ phải được tổ chức thế nào để vừa bao hàm tính cách phổ quát của Giáo Hội vừa gồm sự dị biệt của các dân tộc. Điều đó cũng có giá trị đối với mọi môn học mà họ phải trau dồi để hoàn thành thừa tác vụ, cũng như đối với những khoa học hữu ích khác, giúp họ có kiến thức chung thuộc về quá khứ cũng như trong hiện tại về các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo. Như thế nghĩa là bất cứ ai sẽ đến với dân tộc khác, phải hết sức mến chuộng di sản, tiếng nói và phong tục của dân tộc đó. Nhà truyền giáo tương lai trước hết cần phải miệt mài học hỏi khoa truyền giáo, tức là thấu hiểu giáo thuyết và những qui tắc của Giáo Hội về hoạt động truyền giáo, biết đường lối mà các nhà rao giảng Phúc Âm đã từng trải qua bao thế kỷ, và cả tình trạng truyền giáo hiện thời, cùng những phương pháp hiện nay được coi là hiệu nghiệm hơn cả 23.
Mặc dầu việc giáo dục toàn hảo này chú tâm đặc biệt đến phương diện mục vụ, nhưng cũng phải chú ý tới việc đào tạo tinh thần tông đồ một cách đặc biệt và có hệ thống cả về giáo thuyết lẫn thực hành 24.
Phải có một số rất đông nam nữ tu sĩ được học hỏi và chuẩn bị kỹ lưỡng về nghệ thuật dạy giáo lý để họ có thể cộng tác vào việc tông đồ một cách đắc lực hơn nữa.
Cả những người chỉ đảm nhận một phần công tác truyền giáo trong một thời gian cũng cần phải được huấn luyện tương xứng với hoàn cảnh của họ.
Những loại huấn luyện này phải được bổ túc ở chính những nơi họ được sai tới, để các nhà truyền giáo hiểu biết rộng rãi hơn về lịch sử, cơ cấu xã hội và tập quán của các dân tộc, thấu triệt trật tự luân lý, luật lệ tôn giáo và cả những ý tưởng thâm sâu mà theo truyền thống thiêng liêng, các dân tộc đó quan niệm về Thiên Chúa, về vũ trụ và về con người 25. Do đó, họ phải học biết tiếng nói đến mức độ có thể sử dụng thông thạo và trôi chảy, như thế họ tìm thấy đường lối đến với tâm trí và con tim con người một cách dễ dàng hơn 26. Ngoài ra, họ phải được khai tâm đúng đắn về những nhu cầu mục vụ riêng biệt.
Cũng phải có một số nhà truyền giáo được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn tại những Học Viện Truyền Giáo, hoặc những Phân Khoa hay Đại Học khác để họ có thể thi hành những trách vụ đặc biệt một cách hữu hiệu hơn 27, và nhờ sự uyên bác của mình họ có thể giúp đỡ những nhà truyền giáo khác trong việc truyền giáo, nhất là trong thời đại chúng ta có nhiều khó khăn đồng thời cũng nhiều thuận tiện. Hơn nữa, cũng rất mong ước các Hội Đồng Giám Mục Miền có sẵn trong tay nhiều nhà chuyên môn như thế và sử dụng kiến thức, kinh nghiệm của họ một cách hữu hiệu trong những nhu cầu của nhiệm vụ mình. Cũng nên có những người biết sử dụng thông thạo các dụng cụ kỹ thuật và truyền thông xã hội mà ai nấy đều biết tầm quan trọng của chúng.
Các hội thừa sai
Tuy tất cả những điều đó đều hoàn toàn cần thiết cho bất cứ ai được sai đến với các dân tộc, nhưng từng cá nhân khó có thể thực sự đạt tới được. Hơn nữa, vì kinh nghiệm đã chứng minh rằng chính công việc truyền giáo không thể do từng người riêng rẽ chu toàn được, nên những người có cùng một ơn kêu gọi đã hợp thành những Tu Hội 38*, để nhờ chung sức với nhau, họ được huấn luyện một cách thích hợp và theo đuổi công việc đó nhân danh Giáo Hội và theo ý muốn của hàng Giáo Phẩm. Từ nhiều thế kỷ nay, những Tổ Chức này đã mang gánh nặng của tháng ngày và của nóng nực, đã tự hiến trọn vẹn hoặc một phần cho công việc truyền giáo vất vả. Thường thường, Tòa Thánh ủy thác cho họ việc rao giảng Phúc Âm cho những vùng đất rộng lớn, ở đó họ tụ họp cho Thiên Chúa một dân tộc mới, một Giáo Hội địa phương liên kết chặt chẽ với các chủ chăn mình. Đối với các Giáo Đoàn mà họ đã xây dựng bằng mồ hôi và cả bằng máu mình, họ đem hết lòng nhiệt thành và kinh nghiệm để phục vụ trong tinh thần cộng tác huynh đệ, hoặc bằng việc săn sóc các linh hồn, hoặc bằng cách chu toàn những công tác đặc biệt nhằm lợi ích chung.
Đôi khi họ sẽ đảm nhận một số công tác khẩn cấp hơn cho cả một miền, chẳng hạn việc rao giảng Phúc Âm cho những nhóm người hay những dân tộc, mà vì những lý do riêng, có lẽ chưa nhận được, hoặc vẫn còn chống lại sứ điệp Phúc Âm 28.
Nếu cần, họ phải sẵn sàng dùng kinh nghiệm mình huấn luyện và giúp đỡ những người hiến thân trong một thời gian cho hoạt động truyền giáo.
Vì những lý do trên và vì vẫn còn nhiều dân tộc phải được dẫn về với Chúa Kitô, nên những Tổ Chức đó còn hết sức cần thiết.
CHÚ THÍCH
34* – Hoạt động truyền giáo có bản tính và mục đích riêng biệt. Vì thế nó phải có những người thợ được chỉ định và được đặc biệt chuẩn bị. Đó là các vị truyền giáo. Có những cái nhìn mơ hồ được phổ biến đó đây quan niệm rằng các nhà truyền giáo chỉ có tính cách phụ thuộc, và làm lu mờ hình ảnh cũng như vai trò của họ. Nhưng các Giám Mục xứ truyền giáo và với các ngài cả Công Đồng mong ước rằng nhà truyền giáo phải được xác định một cách trọn vẹn, được diễn tả và khuyến khích qua một sắc lệnh. Thật vậy, dù cả Giáo Hội phải truyền giáo, nhưng Thánh Kinh cũng cho thấy có một số người được cắt đặt rao giảng Phúc Âm ( CvTđ 13,2; Rm 1,1). Chủ đề của chương IV là ơn kêu gọi, ý niệm, vai trò và việc huấn luyện một nhà truyền giáo.
CĐ Vat. II. Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 17: AAS 57 (1965), trg 21.
Xem Mc 3, 13 t.
Xem 1Cor. 12,11.
“Tổ chức” ở đây hiểu là các Dòng Tu, Hội Dòng, Tu Hội và các Hiệp Hội làm việc truyền giáo.
35* – Ở đây (ngay chương này cũng như chương VI) danh từ truyền bá Phúc Âm hiểu theo nghĩa rộng và bao hàm: việc truyền giáo, rao giảng Phúc Âm và vun trồng Giáo Hội, gọi tắt là công việc truyền giáo.
36* – Đoạn này cho ta một khái niệm đúng về nhà truyền giáo và hình như cải chính một ý tưởng thông thường về nhà truyền giáo. Theo dân chúng, nhà truyền giáo là một người da trắng, một người Âu Châu, một người lìa bỏ quê hương và văn minh của mình. Những phương diện đó có thể đúng, nhưng không thiết yếu. Khi giải thích đoạn này cho các Nghị Phụ, Ủy Ban đặc trách vấn đề truyền giáo đã nêu lên 5 yếu tố trong khái niệm về nhà truyền giáo: nhà truyền giáo phải là: 1) người được tách rời, nghĩa là được đại diện để thi hành một hoạt động chuyên biệt; 2) được Bản Quyền Giáo Hội sai đi; 3) phải ra đi, nghĩa là mang Giáo Hội đến những nơi chưa có Giáo Hội; 4) đến nơi xa, không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa địa lý, nhưng theo nghĩa thiêng liêng: đi từ một nơi Giáo Hội được vun trồng đến một nơi ngoại giáo, nơi mà Giáo Hội còn vắng mặt và phải được vun trồng; 5) để rao giảng Phúc Âm như một sứ giả chân chính và thi hành mọi công việc của một vị truyền giáo. Thật vậy, Sắc Lệnh nêu lên các đặc tính thiết yếu đó. Nếu vậy, những ai hội đủ các yếu tố trên, đều là những nhà truyền giáo chân chính, dù họ là người địa phương ngoại quốc, linh mục, tu sĩ hay giáo dân.
Xem Piô XI, Tđ. Rerum Ecclesiae, 28-2-1926 : AAS 18 (1926), trg 69-71. – Piô XII, Tđ. Saeculo exeunte, 13-6-1940 : AAS 32 (1940), trg 256; Tđ. Evangelii praecones, 2-6-1951 : AAS 43 (1951), trg 506.
Xem CvSđ 13,2.
37* – Bức chân dung vị truyền giáo được phát họa ra đây là theo mẫu Chúa Kitô. Vị truyền giáo biểu lộ các đức tính chính yếu của Người. Đang khi cố gắng diễn tả hết sức hình ảnh Chúa Kitô nơi mình vị truyền giáo đồng thời phải trở nên chính Người. Ngay từ đoạn đầu, một chương trình vĩ đại cho vị truyền giáo đã được phát họa: hoàn toàn ràng buộc vào việc rao giảng Phúc Âm, sẵn sàng sống trong ơn gọi đó suốt đời, khước từ chính bản thân và tất cả những gì mình có. Các yêu sách đó nặng nề đến nỗi không ai có thể đáp ứng được nếu không có sự hỗ trợ và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Xem Gal 1, 16
Cor 9, 72.
Xem Eph 6.19 tt: CvSđ 4, 31.
Xem Mt 10, 29 tt.
Xem Benedictô XV, Tđ. Maximum illud, 30-11-1919 AAS 11 (1919), trg 449-450.
Xem 2Cor 6,4 tt.
Xem 2Cor 8,2.
Xem 1Tm 4, 14; Eph 4, 23; 2 Cor 4,16.
Xem Benedictô XV, Tđ. Maximum illud 30-11-1919 : AAS 11 (1919), trg 448 – 449. – Piô XII, Tđ Evangelii Praecones, 2-6-1951 : AAS 43 (1951), trg 507.
Việc đào tạo các linh mục truyền giáo cũng được CĐ Vat. II đề cập trong Sắc lệnh về việc Đào Tạo Linh Mục.
Xem CvSđ 2, 42; 4, 32.
Xem 2 Tm 1,7.
Xem Ph 4, 11.
Xem 2 Cor 4, 10 tt.
Xem 2 Cor 12,15 tt.
CĐ Vat. 11, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 41: AAS 57 (1965), trg 46.
Xem Benedicto XV, Tđ. Maximum illud, 30-11-1919 : AAS 11 (1919), trg 440 – Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones, 2-6-1951 : AAS 43 (1951), trg 507.
Benedictô XV, Tđ. Maximum illud, 30-11-1919 : AAS 11 (1919), trg 448. – Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, Sắc lệnh 20-5-1923 : AAS 15 (1923), trg 369-370. – Piô XII, Tđ Saeculo exeunte. 2-6-1940 : AAS 32 (1940), trg 256. – N.t., Tđ. Evangelii Praecones, 2-6-1951 : AAS 43 (1951). trg 507. – Gioan XXIII, Tđ. Princeps Praecones, 28-11-1959 : AAS 51 (1959), trg 843-844.
CĐ Vat. II, Sắc lệnh về việc Đào Tạo Linh Mục, số 19 –21. – X. thêm Tông hiến Sedes Sapientiae với những qui luật chung, 21-5-1956 : AAS 48 (1956), trg 354-365.
Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones: AAS 43 (1951), trg 523-524.
Benedictô XV, Tđ. Maximum illud: AAS 11(1919), trg 448. – Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones AAS 43 (1951), trg 507.
Xem Piô XII, Tđ. Fidei donum, 15-6-1957 : AAS 49 (1957), trg 234.
38* – Những Tu Hội truyền giáo dưới những hình thức khác nhau trong số này mang đầy đủ ý nghĩa, vì chỉ có những tổ chức này mới có thể bảo đảm công trình chuẩn bị và thích nghi kỹ thuật cho những nổ lực truyền giáo. Tuy nhiên, những quả quyết đáng ca tụng đó không giải quyết các vấn đề rất nghiêm trọng được đặt ra, nhất là trong thời đại chúng ta, về cơ cấu của những tổ chức truyền giáo thuần túy, về những tương quan với Giám Mục, với những thể thức hoạt động truyền giáo.
Xem CĐ Vat. II Sắc lệnh về Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục, số 10, chỗ nói về các giáo phận, các giám chức biệt hạt và các miền tương tự.