(Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu)
Đến nay, người ta vẫn cho rằng Hồ Chủ tịch xuống tàu ra đi từ bến Nhà Rồng. Viện dẫn lý do là: tuy Bác tìm được chân phụ bếp trên tàu Amirai Latouche Tréville thuộc hãng Năm Sao. Nhưng hãng Năm Sao, đương thời không có bến đậu, “nên tàu của hãng Năm Sao phải đậu nhờ bến cảng Nhà Rồng”.
Sự thật thì Hồ Chủ tịch không ra đi từ bến Nhà Rồng, mà từ bến Nguyễn Huệ ở bên này Sài Gòn thuộc quận 1 ngày nay.
Để giữ kín tung tích, Hồ Chủ tịch đã lấy tên Văn Ba xin làm phụ bếp dưới tàu Amiral Latouche Tréville của hãng chuyên chở Chargeurs Réunis (ta gọi là hãng Năm Sao, vì trên ống khói tàu có vẽ 5 ngôi sao). Anh Ba, tới xin việc tại trụ sở hãng ở lầu một Café La Rotonde tại số 2 Catinat. Anh Ba xuống tàu làm việc ngày 3-6-1911, hai ngày sau, tàu nhổ neo đi Singapore rồi sang Pháp[1]. Nhà Rồng và Năm Sao là hai hãng chuyên chở tàu biển lớn nhất khi ấy. Mỗi hãng cho tàu cập bến riêng, không thể lẫn lộn được .
Hãng Nhà Rồng tức Hãng Messageries Impériales là hãng chuyên chở kỳ cựu của Pháp sang hoạt động ở Sài Gòn từ 1862. Hãng đã xây trụ sở đồ sộ bên rạch Bên Nghé với nóc nhà uốn cong và trang trí bằng hình lưỡng long châu nguyệt. Trên ống khói các tàu của hãng có vẽ đầu ngựa, nên bình dân còn gọi là hãng Đầu Ngựa. Sau cuộc cách mạng năm 1870 ở Pháp, hãng đổi tên là Messageries Maritimes. Tất cả các tàu viễn dương của hãng Đầu Ngựa, khi cập bến Sài Gòn, đều tới đậu ở bên Nhà Rồng, nơi dành độc quyền cho hãng.
Hãng Năm Sao tức hãng Chargeurs Réunis mới tổ chức chuyên chở thường kỳ giữa Pháp và Đông Dương từ năm 1901. Hãng có một đội thương thuyền gồm 7 chiếc. Sáu chiếc tàu lớn thay nhau chạy các tuyến giữa hải cảng Pháp và Đông Dương. Chiếc Chợ Lớn nhỏ hơn, chạy bổ túc quanh năm. Từ Đông Dương đi Pháp có hai nơi khởi hành: từ Hải Phòng ngày 27 mỗi tháng và từ Sài Gòn ngày 4 mỗi tháng[2].
Tàu Amiral Latouche Tréville do xưởng đóng tàu La Loire kiến tạo trong vùng Saint Nazaire, hạ thủy ngày 21-9-1903, đăng ký tại cảng Le Havre năm 1904. Đây là một trong những tàu cỡ lớn đầu thế kỷ XX, vừa chở người vừa chở hàng.
Theo tài liệu ghi lại rõ ràng[3] : Tàu Amiral Latouche Tréville từ Hải Phòng vào cập bến Sài Gòn ngày 2-6-1911 có trọng tải 3572 tấn, với thuyền trưởng Maisen và đoàn thủy thủ 69 người. Ngày 3-6-1911, anh Văn Ba xuống tàu làm phụ bếp, ngày 5-6-1911 tàu nhổ neo. Ta hãy tìm xem tàu này cập bến nào khi tới cảng Sài Gòn.
Cảng Sài Gòn hồi 1911 chia làm 2 phần: quân cảng và thương cảng. Quân cảng dài chừng 600m, kể từ Nhà máy Ba Son tới công trường Mê Linh (khi ấy gọi là Quai Primauguet, nay là một phần đường Tôn Đức Thắng). Thương cảng cũng dài 600m, kể từ công trường Mê Linh tới cầu Khánh Hội (khi ấy gọi là Quai Francis Gamier, nay cũng là một phần đường Tôn Đức Thắng). Bến Nhà Rồng ở bên Khánh Hội, coi như nối tiếp với thương cảng. Bờ sông bên khánh Hội từ ranh Nhà Rồng tới cầu Tân Thuận dài trên 1km gọi là bến Tam Hội. Bến đó chưa có cầu tàu, kho hàng và trang bị cần thiết cho việc bốc xếp hàng hóa. Cầu Khánh Hội chưa làm kiên cố để nối đường xe hỏa từ Sài Gòn sang. Như vậy, các tàu lớn viễn dương chưa thể cập bên Tam Hội. Năm 1914, cảng Tam Hội – sau gọi cảng nhánh Hội – mới được khánh thành (đồng thời với chợ Bến Thành mới bây giờ). Do đó, tàu Amiral Latouche Tréville và các tàu khác của Hãng Năm Sao tất phải cập bến thương cảng Sài Gòn còn ở phía quận 1 nay.
Thương cảng hồi 1911 khá tấp nập, trang bị đầy đủ và ở vào đầu mối giao thông rất thuận lợi, chỉ dài 600m mà có tới 6 đại lộ châu đầu vô bến. Đó là các đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng, Catinat ( đồng Khởi), Chamer (Nguyễn Huệ) , Krantz và Duperré (Hàm Nghi). Nhà ga đường sắt đi Mỹ Tho và đi Phan Thiết đặt ở đầu đường Hàm Nghi tiếp cận với thương cảng nhà ga tàu hơi (tramway) cũng ở ngay đầu đường Nguyễn Huệ. Tàu hơi chạy dọc suốt thương cảng và quân cảng, một phía đi Gia Định rồi Hóc Môn, phía kia đi Chợ Lớn. Chợ Bến Thành (cũ) nằm gần đầu đường Nguyễn Huệ, nay là kho bạc. Qua thương cảng, khối chuyên chở hành khách và hàng hóa ngày càng gia tăng (riêng lúa gạo, năm 1861 xuất khẩu 8 vạn tấn, năm 1891 xuất khẩu 44 vạn tấn, năm 1911 xuất khẩu trên 1 triệu 10 vạn tấn) . . .
Thương cảng Sài Gòn khi ấy có 5 cầu tàu: 3 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Catinat (Đồng Khởi) dành cho các hãng chuyên chở đường sông, 1 cầu tàu lớn ở đầu đường Chamer (Nguyễ Huệ) dành cho các tàu viễn dương lớn và 1 câu tàu nhỏ ở đầu đường Krantz Dupenrré(Hàm Nghi) dành cho hãng tàu người Hoa. Tình hình này đúng như Brébion đã mô tả thương cảng Sài Gòn hồi 1911: “Trên bến Francis Gamier (nay là một phần đường Tôn Đức Thắng kể từ công trường Mê Linh tới cầu Khánh Hội), phía bờ sông có nhiều loại cầu tàu chiếm chỗ. Một trong số cầu tàu lớn nhất là nơi cập bến các tàu lớn thuộc hãng Chargẹurs Réunis. Phía đầu cầu thương cảng (đầu đường Catinat – Đồng Khởi) là các cầu tàu dành cho tàu thuyền của hãng Messageries Fiuvialles (chuyên chở đường sông)”[4]. Như vậy, ta có thể khẳng định là tàu Amiral Latouche Tréville trên có anh Văn Ba làm phụ bếp đã cập bến ở cầu tàu lớn nơi đầu đường Nguyễn Huệ . Đây là một vị trí khang trang và khoảng khoát nhất thành phố : nhìn vào đất liền qua đường Nguyễn Huệ rộng rãi thấy trụ sở ủy ban Nhân dân thành phố (nhà Xã tây cũ với kiến trúc đặc sắc ghi dấu một thời), nhìn sang phía sông thấy ngôi Nhà Rồng đồ sộ với dáng vẻ Âu Á pha trộn dễ gây ân tượng nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh) và sông nước bao la rừng cây bát ngát lan rộng thẳng tới Thái Bình Dương . . .
[1] Hồng Hà – Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb Thanh niên TP.HCM, 1976, tr. 16:”Anh Vãn Ba cùng con tàu rời bến Nhà Rồng đi Singapore trên đường sang Pháp”.
[2] Giám đốc Nhà máy Ba Son, Báo cáo đọc tại Khu lưu niệm Nhà Rồng ngày 19-5- 1986.
[3] Direction générale des TP – Port de Commerce de Saigon. Navires présents sur rade le 3 juin 1911, p.2. Sorties du 3 au 6 juin 1911, p.4. Imp. Phat Toan, Saigon, 1912.
[4] Antoine Brébion – Monographie des Rues ẹt Monument de Saigon, Trong Revue Indochmoise, 1911, tr.357-376.