II. THỜI KỲ BỒI ĐẮP
Sau giai đoạn gieo trồng rất xúc tích như trên, đến thời kỳ bồi đắp thì chúng ta sẽ thấy thế kỷ XVIII tuy sáng chói với “Inê Tủ đạo vãn” nhưng xét chung lại không phong phú bằng nửa thế kỷ XVII, phải chờ qua thế kỷ XIX, phong trào thi ca Công giáo mới râm rộ trở lại.
INÊ TỬ ĐẠO VÃN
Đây là một thiên trường ca với 563 câu thơ nôm lục bát kể chuyện cuộc tử đạo của bà Inê (Agnès) xảy ra năm 1700 do lệnh cấm đạo của Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Cho đến nay người ta vẫn chưa biết thi phẩm đó do tác giả nào soạn và được khai sinh vào thời gian nào. Chỉ biết rằng tác phẩm đã “sống” mạnh mẽ trong lòng giáo dân Việt Nam và gây tiếng vang rộng rãi về sau. Bằng chứng là đến thế kỷ XIX, đột nhiên nó được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng La-tinh, để cùng với tiếng Việt (quốc ngữ) in song song trong phần phụ lục cuốn Từ điển La tinh – Việt Nam của Đức Cha Taberd (1794-1840) xuất bản tại Bengale (Ân Độ) năm 1838. Đến lượt mình, nhà truyền giáo Louvet cũng đưa tập thơ này dưới dạng Pháp dịch vào tác phẩm của mình – La Cochinchine religieuse (Giáo hội Đàng Trong) tập 1, xuất bản ở Paris năm 1885. Đây quả là vinh dự lớn nhất cho một tác phẩm văn chương Việt Nam lần đầu tiên ra mắt với quốc tế.
Bản Việt ngữ còn được tiếp tục in đi in lại nhiều lần, đến năm 1949 là lần thứ 12. Theo Võ Long Tê, người đã có nhiều công phu nghiên cứu về Inê Tử đạo vãn, sở dĩ Đức Cha Taberd đưa thi phẩm này vào cuốn Từ điển của người và còn dụng công dịch hay nhờ người khác dịch ra ba ngôn ngữ khác, “chẳng phải nguyên vì ưu tư mục vụ mà thôi, nhưng nhất là vì tập thơ độc đáo ấy là một tiêu biểu về giá trị của thi ca Việt Nam.
Ước mong rồi đây sẽ có những tìm tòi khảo cứu thêm để làm sáng tỏ nguồn gốc tác phẩm độc đáo này và làm nó sống mãi với các thế hệ mai sau.
LINH MỤC PHILIPHÊ BỈNH
Thế kỷ XIX cũng cống hiến cho chúng ta một kho văn thơ quý giá không kém kho tàng Majorica thế kỷ XVII: Đó là kho tàng của linh mục Philiphê Bỉnh được bảo tồn ở thư viện Vatican.
Philiphê Bỉnh là người Hải Dương, sinh năm 1759, thụ phong linh mục năm 1793, được các giáo sĩ Dòng Tên cử cầm đầu phái đoàn gồm một số linh mục và thầy giảng Việt Nam sang Bồ-đào-nha, để vận động cuộc can thiệp của vua nước này với Tòa Thánh trong một cuộc tranh chấp với một gia đình truyền giáo khác. Ra đi năm 1796, sứ mạng không kết quả, Philiphê Bỉnh cùng phần lớn phái đoàn phải lưu vong trên 30 năm tại Lisbonne và hầu hết cũng chết tại đó. Philiphê Bỉnh đã lợi dụng thời gian lưu vong này để trước tác, biên soạn, dịch thuật hoặc sao chép rất nhiều sách vở dành đem về hoặc gửi về Việt Nam.
Một trong những tác phẩm đó đã ra mắt đồng bào và đồng đạo Việt Nam, cuốn Sách sổ sang chép các việc do Viện Đaị học Đà Lạt xuất bản năm 1968 với bài giới thiệu trang trọng của linh mục giáo sư và nhà văn Thanh Lãng, qua đó ta biết Philiphê Bỉnh lưu lại 26 tác phẩm viết tay.
Thanh Lãng giới thiệu Philiphê Bỉnh là nhà văn nói và viết tiếng nhân dân, nhà văn Việt Nam thứ nhất viết hồi ký…, nhà ngôn ngữ học Việt Nam đầu tiên, nhà sử học đầu tiên theo phương pháp Âu Tây, nhà họa sĩ vẽ thực trang xã hội Việt Nam mà cũng là người mặc khải xã hội tây phương, hơn nữa còn là nhà thơ. Thanh Lãng viết : “Ông làm rất nhiều thơ”
Ước mong các nhà văn hóa Việt Nam sớm khai thác toàn bộ kho tàng này để làm giàu thêm cho sử học, văn học và thi ca Việt Nam nói chung, Công giáo nói riêng.
LINH MỤC ĐẶNG ĐỨC TUẤN
Linh mục Đặng Đức Tuấn (1806-1874) là người Quy Hà, sau gọi Quy Thuận, huyện Mộc Sơn nay là Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nơi có xứ đạo kỳ cựu và đông đảo bậc nhất miền Trung: địa sở Gia Hựu. Ông thuộc dòng dõi nho phong, dòng dõi Đặng Đức Siêu theo truyền tụng.
Sớm nổi danh nho học tuy chưa đỗ đạt cao, ông được Đức Giám Mục Cuénot (Thể) giới thiệu đi Pinang (Mã lai á) dạy Hán văn cho các chủng sinh. Nơi đây ông học thông các tiếng Anh, Pháp, La-tinh, mở rộng kiến thức nhờ kho sách của Đại chủng viện. Sau ông trở thành chủng sinh thực thụ, học trọn bảy năm triết lý, thần học. Đến chức sáu, được gởi về thuộc quyền Đức Giám mục địa phận và rồi được thụ phong linh mục tại Tòa Giám Mục Gò Thị.
Năm 1861 đời Tự đức, cuộc cấm đạo khốc liệt khiến ông trốn vào Quảng Ngãi, bị bắt ở đó với hai bản điều trần chữ Hán nằm trong khăn gói. Thế là người tù vì Chúa Ki tô được triệu về kinh, trình lên vua Tự Đức bản điều trần thứ nhất dâng kế hoạch chống Pháp, và bản thứ hai làm sáng tỏ vấn đề tôn giáo, chưa kể một bản khác trình cho các quan ở bộ Binh cũng về tôn giáo và thời cuộc. Sau đó ông được vua Tự Đức cử tham gia phái đoàn Lâm Duy Hiệp – Phan Thanh Giản vào Gia Định thương thuyết hòa ước với Pháp và Tây-ban-nha.
Hòa ước ký rồi, vua Tự Đức lần lần tháo gỡ cuộc cấm đạo, cha Tuấn trở về tiếp tục nhiệm vụ linh mục cùng với sứ mạng thi ca.
Điều may mắn là toàn bộ thi ca của ông lưu truyền trong dòng họ và dân gian, nay đã được in thành sách dưới nhan đề : Đặng Đức Tuấn, tinh hoa Công giáo ái quốc Việt nam, với những chú thích và bình luận của hai tác giả : Võ Ngọc Nhã linh mục và Lam Giang giáo sư, xuất bản năm 1970, 570 trang. Các sáng tác của Đặng Đức Tuấn chủ yếu gồm :
– Việt Nam giáo sử diễn ca (từ khởi thủy đến cuộc bách hại đời vua Tự Đức).
– Lâm nạn phục quốc hành (ghi lại thời kỳ lâm nạn, lai Kinh điều trần và Nam du nghị hòa).
– Minh dân vệ đạo khúc (chỉ đường sáng cho dân và bảo vệ chính đạo. Bài này trả lời cho bài “Hoán mê khúc” của Án Sát Ngụy Khắc Đản coi giáo dân mê lầm cần hoán cải).
– Văn tế giáo dân tử nạn.
– Văn tế các Đẳng linh hồn.
– Đại loạn năm Ẩt Dậu 1885.
– Giáo nạn trong quốc biến; tác phẩm này cùng với tác phẩm kể trên đều ghi lại những ngày lưu huyết nhất do biến loạn sát tả bình tây.
– Giải sầu ca (an ủi giáo dân sau khi phân sáp trở về).
– Cải quả tự tân luận …
Mỗi tác phẩm kể trên đều là một thiên trường ca, như một cuốn sách nhỏ.
Sau cùng xin ghi nhận cuốn sách Đặng Đức Tuấn, tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, lần đầu tiên đã công bố ba bản điều trần của Đặng Đức Tuấn, nguyên văn chữ Hán với phần phiên âm và dịch Việt ngữ của giáo sư Lam Giang. Một đóng góp quan trọng cho lịch sử tôn giáo, chính trị và thi ca Việt Nam.
THÁNH PHAN VĂN MINH
Cho đến nay, ít ai ngờ Thánh Tử đạo Phan văn Minh (1815-1853) cũng là một nhà thơ, lại còn sáng lập một “thi xã” gồm nhiều thi nhân ngâm vịnh. Sự thật ấy nay đã được sáng tỏ.
Thánh Minh nguyên quán ở Cái Mơn (Bến Tre) nay thuộc giáo phận Vĩnh Long sớm đi tu, được đào tạo từ chủng viện Lái Thiêu qua chủng viện Pinang. Từ nơi đây, chủng sinh xuất sắc này được Đức Cha Taberd, giám mục địa phận Đàng Trong, tạm lánh nạn cấm đạo ở Calcutta (Ân Độ), gọi đến với người để giúp ấn hành cuốn Từ điển Latinh – Việt Nam của người. Sau đó ông trở lại Pinang, học hết chương trình đại chủng viện rồi về nước, và được phong linh mục.
Chính trong thời gian ở Pinang, chủng sinh Phan Văn Minh đã tỏ rõ thi tài, và đã có chủ trương sáng tác, xướng họa với các bạn yêu thơ. Do đó hình thành tác phẩm Phi Năng thi tập, được bổ sung sau khi về nước, mà bằng chứng là ba bài họa còn lại của một thi sĩ bên lương.
Phi Năng Thi Tập được lưu truyền đến ngày nay, dầu có mất mát phần nào (?) là công trình Sưu tập, bảo tồn của bổn đạo và dòng họ đấng Thánh, đặc biệt phải nói đến thầy Hầu, cựu tu sĩ dòng Chúa Kitô ở Cái Nhum; Thầy Trạch cựu chủng sinh Đại Chủng Viện Sài Gòn; Ông Paulus Nguyễn Cang Thường, cựu chủng sinh Đại Chủng Viện Sài Gòn, ký giả Công Giáo, bạn của thầy Trạch và thầy Hầu, và ông Thaddoeus Nguyễn Văn Nhạn, kỷ giả công giáo, người được ông Nguyễn Cang Thường ký thác bộ sưu tập riêng Phi Năng thi tập.
Bản sao của ông Thaddoeus Nguyễn Văn Nhạn mà chúng tôi may mắn được sử dụng, qua bản phóng ảnh nguyên cỡ do ông Lê-ô Nguyễn Văn Quý thực hiện, là một tài liệu quý giá, một phát giác văn học quan trọng. Trong khi còn tìm tòi thêm cho đủ toàn bộ, văn bản hiện có gồm ba phần, mỗi phần lấy chủ đề làm biệt nhan.
1. Gia-tô Cơ-đốc : khởi sự bằng bài xướng của Philiphê Minh theo thể Đường luật thất ngôn bát cú, nối tiếp bằng 48 bài họa nguyên vận của các thi hữu công giáo và không công giáo, có ghi tên hoặc khuyết danh, kèm thêm một bài xướng thứ hai của Phan Văn Minh với ba bài họa. Tất cả hướng về cuộc đời và giáo huấn của Chúa Ki-tô.
2. Vịnh Evang : Gồm 50 bài vịnh về các sự kiện hay tích truyện trong Phúc âm, cũng mở đầu bằng sáng tác của Phan Văn Minh, tiếp đến bài của các thi hữu (không họa nguyên vận).
3. Nước Trời ca : Gồm 28 bài của Thánh Minh diễn tả bằng thơ lục bát những hình ảnh và ý nghĩa Nước Trời theo Tân Ước và Cựu Ước.
Di cảo của Thánh Phan Văn Minh nay dược soạn thành một tác phẩm hoàn chỉnh với những hiệu đính và chú thích cần thiết, thêm phần nghiên cứu tiểu sử tác giả, do Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm đồng thực hiện và hằng nóng lòng chờ ra mắt độc giả.
LINH MỤC TRẦN LỤC
Cụ Trần Lục (1825-1899) nguyên quán ở Mỹ Quan, huyện Nga Sơn (Thanh Hóa), được đặt tên là Phê rô Trần Văn Hữu, sau giáo hữu quen gọi cụ Sáu (vì mang chức Sáu lâu năm), rổi triều đình gọi là Trần Lục trong các văn bản, từ đó trở thành thông dụng. Cụ nổi danh vì đã thực hiện một quần thể kiến trúc vừa lớn lao ở trọng điểm, Nhà thờ lớn Phái Diệm, vừa trãi rộng trong không gian với năm đền thờ nhỏ bao quanh,mà một toàn bằng đá, vừa kiên cố, vừa mỹ thuật do bố trí và chạm trổ rất tinh vi -một công trình duy nhất. Tất cả được hình thành theo các nguyên lý và nghệ thuật Á Đông, làm vinh dự cho ngành kiến trúc, điêu khắc và trang trí truyền thống. Cùng với tòa phương đình nguy nga và hồ nước mênh mông ở phía trước, lại có núi Can-vổ, hang đá Bê-lem và núi Cây Dầu ở phía sau, Cụ đã tạo cho Phát Diệm một cảnh quan độc đáo ở Việt Nam và nổi danh thế giới.
Song song với “sự nghiệp bằng đá”, Cụ Sáu còn lưu lại một sự nghiệp thi ca quý giá, nhằm bồi đắp gia phong lễ giáo, chấn hưng đời sống xã hội. Ba tác phẩm bằng thơ lục bát sau đây của Cụ đã đi sâu vào lòng dân chúng và tồn tại mãi mãi:
1. Hiếu tự ca, 1088 câu.
2. Nữ tắc thường lễ, 1016 câu .
3. Nịch ái vong ân,440 câu .
ÔNG NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
Ông Nguyễn Trường Tộ (1830-1871 )nguyên quán tại làng Bùi Chu, nay thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyôn, Nghệ An, là bậc chí sĩ và bác hoc, nổi danh vì những tập điổu trần
dâng vua Tự Đức, đưa ra những kế hoạch cứu nguy và xây dựng đất nước. Ông cũng là kiến trúc sư tiên khởi của ngành kiến trúc mới ở Việt Nam. Con người say mê khoa học kỹ thuật ấy có liên hệ gì với thi ca chăng?
Một học giả nổi tiếng, ông Từ Ngọc Nguyễn Lân, tác giả cuốn sách đầu tiên viết về Nguyễn Trường Tộ đã trả lời cho công luận như sau :
“Con người trọng thực dụng ấy lại là người cố một tấm lòng đầy tình cảm và một trí tưởng lượng mạnh mẽ. Tinh cảm ấy, tưởng tượng ấy thêm vào nền giáo dục thần bí của đạo Gia-tô đã tạo nên cho ông một tâm hồn thi sĩ tuyệt vời.
Những lúc cảm hứng xúc động, tư tưởng dồi dào, ông phải, thốt ra những lời thơ hoặc khẳng khái hoặc thiết tha.Tiếc rằng ông chỉ viết loàn thơ chữ Hán, nhưng không vì thế mà ta có thể để ông ra ngoài làng thơ Việt Nam được.”
Thực ra thơ của Nguyễn Tiên sinh không nhiều, nhưng đủ nói lên tấm lòng của ông đối với đất nước, ưu tư của ông trước thời cuộc. Trên báo Nam Phong (số 102), ông Lê Thước, trong hài “tiểu sử Nguyễn Trường Tộ tiên sinh” đã dịch thuật mười một bài thơ chữ Hán của ông, hầu hết là thơ Đường luật thất ngổn bát cú. Ông Nguyễn Lân cũng dịch bốn trong số các bài thơ đó, với lời kết luận : “Mấy bài trích dịch trên này cũng đủ tỏ cái thi tứ phóng đại của ông và nhất là tấm lòng thiết tha của ông đối với đất nước non sông. Chỉ một cái nhiệt tâm đối với tiền đồ tổ quốc, biểu lộ trong lời thơ của ông cũng đủ để ông có địa vị xứng đáng trong thi đàn nước nhà vậy.”
Cũng nên ghi chú: Thơ của Nguyễn Tiên sinh không trực tiếp hướng về tôn giáo, nhưng vì ông là người có đức tin mạnh mẽ thì đương nhiên đức tin đó soi dẫn mọi hành vi ngôn ngữ của ông, nhất là thi ca, VÌ thi ca là tiếng nói của con tim .
ÔNG TRƯƠNG VĨNII KÝ
Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898) nguyên quán ở Cái Mơn, được đào tạo từ chủng viện Pinhalu (Campuchia) đến đại chủng viện Pinang để làm linh mục, nhưng hoàn cảnh lịch sử đất nước và sự quan phòng của Thiên Chúa đã đưa ông vào sứ mạng văn hóa. Cuộc hành trình đến Pháp với trong phái đoàn Phan Thanh Giản và, tiếp đó, các cuộc du khảo của ông gần khắp Châu Ẩu, đã là cơ hội cho ông tiếp thu tối đa học thuật và văn hóa Tây Phương, để rồi trở thành nhà bác học, văn học, ngữ học, sử học và là nhà trước tác hàng đầu của Việt Nam cận đại .
Đối với thi ca ông là người có công đầu trong buổi giao thời. Ông là người đầu tiên xuất bản quyển Kim Vân Kiều của Nguyễn Du bằng chữ quốc ngữ (1875) với lời nói đầu bằng liếng Pháp để bắt đầu tạo uy tín quốc tế cho thi phẩm số một này của Việt Nam.Tiếp đó ông xuất bản Đại Nam quốc sứ kỷ diễn ca; Gia-huấn-ca; Nữ tắc; Thơ dạy làm dâu; Bài hịch con quạ; Thạnh suy bĩ thới phú; Hàn nho phong vị phú; Huấn mông ca; Lục súc tranh công; Tam Tự Kinh Quốc Ngữ diễn ca, Phan Trần truyện; nhất là Lục Vân Tiên truyện của Nguyễn Đình Chiểu và Minh Tâm Bửu Giám dịch ra quốc ngữ văn xuôi và văn vần.
Trong danh sách các bản thảo chưa in của Trương Vĩnh Ký, có chỗ ghi nhận nơi mục 2, liệt kê bằng tiếng Pháp, dịch nghĩa như sau : “Sưu tập các bài thơ đủ loại mà mỗi hài đều có bình luận và ở đầu có bản tóm lược chủ đề: 85 bài
Thực sự các tác phẩm lớn nhỏ đã in, chưa in, hay đang viết dở của Trương Vĩnh Ký vượt xa con số 100 đơn vị, mà vẫn còn chờ những nhà nghiên cứu đưa ra một công trình giới thiệu tổng hợp xứng tầm cỡ, từ đó mới dẫn đến mội đánh giá đúng mức về tấm lòng và công khó của ông đối với thi ca Việt Nam.
Chúng ta đừng quên rằng chữ Quốc ngữ được các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự Latinh vào nửa đầu thế kỷ 17 và suốt một thời gian dài tới cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong giới Công giáo. Tuy rằng ngoài học giả, thi sĩ thì giờ việc có thể đọc viết được chữ Nôm không còn nhiều người có thể sử dụng được.