Là người con trong một gia đình danh giá với truyền thống Tin Lành, với cha là cựu booj trưởng ngoại giao Hoa Kỳ John Foster Dulles, và là cháu của Giám đốc CIA Allen Walsh Dulles, Avery Dulles đã quyết định gia nhập Giáo Hội Công giáo rồi trở thành tu sĩ và linh mục dòng Tên. Ngài nổi tiếng trong lãnh vực nghiên cứu và giảng dạy thần học, đã xuất bản những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển, cuối cùng trở thành thần học gia đầu tiên của Hoa Kỳ được nâng lên hàng Hồng y. Chứng từ của một con người như thế về đời linh mục rất đáng được quan tâm.
Khi nhìn lại dòng đời của mình, tôi thấy xem ra mọi sự đều do Chúa quan phòng sắp đặt. Đời tôi sẽ ra sao nếu khi còn trẻ, không có những năm sống tại Âu châu? Đời tôi sẽ ra sao nếu theo truyền thống gia đình, tôi vào đại học Princeton thay vì Harvard? Đời tôi sẽ ra sao nếu Đệ nhị thế chiến không cắt ngang việc học của tôi ở trường Luật? Không ai có thể trả lời những câu hỏi như thế. Nhưng tôi có thể nói rằng qua tất cả những biến cố đó, tôi vẫn luôn được dẫn dắt để hoàn tất những khát vọng thâm sâu nhất của mình và thực hiện được điều mà tôi coi như ơn gọi của mình.
Ngay cả trong đời sống một tu sĩ dòng Tên, tôi cũng không hoạch định con đường riêng cho mình. Tôi học ở nơi được chỉ định, dự những giảng khóa được ấn định và không bao giờ có yêu cầu nào theo ý riêng mình. Trong những năm thực tập, tôi dạy Triết vì Bề Trên chỉ định, và vào thời điểm đó, tôi tràn ngập hi vọng sẽ được gửi đi làm tiến sĩ về Triết. Thế nhưng khi học Thần học, tôi mới bất ngờ được hướng dẫn để chọn Thần học làm ngành chuyên môn của mình, và thực sự điều đó đã đáp ứng ước vọng thâm sâu của tôi. Trong thời gian học và giai đoạn giảng dạy ban đầu, tôi đã được trợ giúp rất nhiều do sự hướng dẫn của những nhà thần học như John Courtney Murray và Gustave Weigel là hai người khổng lồ về thần học vào thời đó.
Trong suốt quá trình dạy học, tôi đã được chỉ định phụ trách những môn mà tôi đặc biệt quan tâm. Những lãnh vực như mạc khải, đức tin, Giáo hội học, đại kết là những lãnh vực không ngừng cuốn hút tôi. Tôi cũng có may mắn giảng dạy trong nhiều học viện khác nhau, cả Công giáo và ngoài Công giáo, và có được những mối quan hệ thân tình về đại kết. Là một tu sĩ dòng Tên, tôi có được mối quan hệ với các đồng nghiệp trên khắp thế giới. Khi đến châu Mỹ La Tinh, châu Âu, châu Phi hay Viễn Đông, tôi đều được các linh mục, tu sĩ, nhất là anh em dòng Tên đón tiếp như một người bạn và một người anh em. Nếu tôi được yêu cầu tự chọn dòng đời cho mình, có lẽ tôi đã không thể làm tốt cho bằng những gì Chúa Quan phòng đã dẫn dắt và các Bề trên đã chỉ dạy cho tôi. Tôi có thể nói cách thành thật rằng tôi không phải ghen tị với bất cứ ai trong cuộc đời này. Mọi sự không do công lao của tôi nhưng là ơn ban của Thiên Chúa và chỉ mình Ngài mới đáng được ngợi khen.
Dĩ nhiên, tôi ý thức về những giới hạn của mình. Trong một vài lãnh vực, tôi còn ở dưới tiêu chuẩn mục vụ mà người ta có quyền mong muốn nơi một linh mục bình thường. Tôi ngưỡng mộ các cha giải tội, các vị giảng thuyết, các nhà thần bí, các vị thừa sai, các vị tử đạo là những người đã làm sáng danh Chúa hơn cả một “lô” những nhà thần học. Nhưng tôi đã lãnh nhận một ơn gọi khác, phù hợp với khả năng và thiên hướng của tôi hơn.
Ngay cả trong thần học vốn là lãnh vực chuyên môn của mình, tôi cũng không nghĩ mình là một khuôn mặt lớn. Tôi không thể sánh với sự thông minh của một Rahner hay Lonergan, hoặc sự uyên bác của de Lubac, von Balthasar, hay Congar. Nhưng tôi vui mừng vì được đọc những tác phẩm của những nhân vật hàng đầu này, và được quen biết các ngài từng người một. Cùng với các nhà tư tưởng lớn trong quá khứ, các ngài đã giúp tôi đạt tới tầm hiểu biết mà tự sức tôi không thể vươn tới.
Khi gia nhập Giáo Hội Công giáo, tôi đã thực hiện cuộc phiêu lưu có vẻ điên rồ theo cái nhìn của hầu hết mọi người trong gia đình cũng như bè bạn. Là một tu sĩ có lời khấn, tôi đã chọn sống cuộc đời xem ra vô nghĩa nếu không có đức tin Công giáo. Nếu Nước Trời là viên ngọc vô giá, là kho tàng chôn giấu trong ruộng, thì chúng ta phải được chuẩn bị để bỏ hết mọi sự mà chiếm cho bằng được. Tôi luôn nghĩ rằng nếu Chúa thực sự là Thiên Chúa, thì vinh quang và danh dự của Ngài phải là mối ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Dù không thể sánh được với sự hiến thân quảng đại của thánh Phaolô hay thánh Inhaxiô Loyola, nhưng giống như các ngài, tôi vui mừng vì được sử dụng vào việc phục vụ Chúa Kitô và Tin Mừng, dù khi mạnh khoẻ hay lúc yếu đau, dù khi thành công hay lúc thất bại. Tôi vô cùng tạ ơn Chúa về những năm tháng Ngài đã cho tôi được phục vụ Ngài trong một hội dòng có châm ngôn sống: Ad majorem Dei gloriam (Để vinh quang Chúa được cả sáng hơn).
HTT