Thông cáo[8] của Hội-đồng Giám-mục Việt-Nam về việc tôn-kính tổ-tiên và các bậc anh-hùng liệt-sĩ
Ngày 20-10-1964, Toà thánh, qua Bộ Truyền giáo, đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám mục Việt-nam xin áp dụng Huấn- thị Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kinh Tổ-tiên và các bậc Anh-hùng liệt sĩ, cho giáo dân Việt-nam.
Đề hiểu rõ tinh thần Giáo-hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám-mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
I. Giáo-hội Công-giáo đối với nền Văn-hóa và Truyền- thống các Dân tộc.
- Giáo-hội Chúa Ky-tô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng sáng lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc-âm cho mọi người, cố gắng đầu tiên của Giáo-hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Ky-tô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn-diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn-dụ tại Cơ-mật-viện, ngày 20-2-1946).
- Mặt khác từ nguyên-thủy cho đến ngày nay, Giáo-hội Công giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm, theo đó, Giáo hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sa ngã của tội Tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn-hóa của người không công giáo. Trái lại, Giáo hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo-hội đã thánh hoá những phong tục cũng như những truyền thống chân chính cuả các dân tộc. Giáo hội cũng đã nhiều lần đem lễ nghi của miền này xứ nọ sáp nhập vào nền Phụng vụ của mình, – sau khi đã tu chỉnh cả tinh thẩn lẫn hình thức – để ghì nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc Thánh nhân hay các vị Tử-đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangelii praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong Thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).
- Đối với các Tôn giáo khác, Giáo hội Công giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các Tôn giáo khác, hoặc coi Tôn giáo nào cũng như Tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mặc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các Tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, Thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-64). Giáo hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo hội luôn rao truyền Đức Kytô là “đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và trong Đức Kytô, Thiên Chúa làm hoà với muôn vật. Tuy nhiên Giáo hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các Tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào của chính cái Chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ Đức Tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác, nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các Tôn giáo này (Công đồng Vatican II, khoá III: Giáo hội và các Tôn giáo ngoài Kytô giáo, ngày 20-11-1964).
Chính lập trường đó của Giáo hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Toà Thánh, khi cho áp dụng Huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục Hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 13,14-6-1965 đã cho công bố bản Thông cáo này.
II. Thể thức áp dụng Huấn-thị Plane compertum est
1. Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia, tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán, đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với Tổ-Tiên và các bậc Anh- hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ, có tính cách thế tục, lịch sự, và xã giao đó, Giáo hội Công giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng các cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vi thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng, là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm Tổ Tiên và các bậc Anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ…) thì được thi hành và tham dự cách chủ-động.
2. Trái lại, vì nghĩa vụ bảo vệ cho Đức tin Công giáo được tinh tuyền, Giáo hội không thề chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh, có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng tùng phục và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động, như đã ấn định trong Giáo luật, khoản 1258.
3. Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyền xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kytô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với Đức tin Công giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ẩy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ-động.
Đó là những nguyên-tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa thánh và bàn hỏi với các Giáo sĩ thành thạo.
Yêu cẩu quý Cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận Thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người những ngoài Công giáo. Các vị phụ-trách Công-giáo tiến-hành cũng phải lấy Thông-cáo này làm đề-tài học-tập cho các Hội-đoàn trong các buổi hội họp và các khoá Huấn-luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965.