Mùa Chay hằng năm bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Chủ Nhật Lễ Lá. Nhân dịp này chúng tôi xin giới thiệu đến quý đọc giả toàn văn Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Benedict XVI, được công bố vào ngày 15/10/2012. Sứ Điệp có nhan đề “Tin Trong Đức Mến Khơi Dậy Lòng Bác Ái”, và được chia thành 04 số:
1/Đức Tin Như Một Lời Đáp Lại Tình Yêu Thiên Chúa;
2/Đức Mến Xét Như Là Một Đời Sống Trong Đức Tin;
3/Đức Mến Xét Như Là Một Đời Sống Trong Đức Tin;
4/Vị Thế Ưu Tiên Của Đức Tin, Chỗ Đứng Thứ Nhất Của Đức Mến.
Dưới đây là toàn văn Sức Điệp “Tin Trong Đức Mến Khơi Dậy Lòng Bác Ái”.
TIN TRONG ĐỨC MẾN KHƠI DẬY LÒNG BÁC ÁI
“Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4, 16).
Anh chị em thân mến,
Cử hành Mùa Chay trong bối cảnh Năm Đức Tin cho chúng ta cơ hội quý báu để suy niệm về mối tương quan giữa đức tin và đức ái, nghĩa là giữa niềm tin vào Thiên Chúa – Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô – và tình yêu thương, vốn là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và là điều hướng dẫn chúng ta trên con đường dâng hiến cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
1. Đức Tin Như Một Lời Đáp Lại Tình Yêu Thiên Chúa
Trong Thông điệp đầu tiên của mình, tôi đã trình bày một vài suy tư về mối tương quan khăng khít giữa hai nhân đức đối thần: đức tin và đức ái. Khởi đi từ một khẳng định nền tảng của Thánh Gio-an: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16). Tôi cho rằng:
“được làm người Ki-tô hữu không phải là thành quả của một quyết định luân lý hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là cuộc gặp gỡ với một biến cố, với một con người, một cuộc gặp gỡ mang lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và một định hướng dứt khoát… Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. Ga 4,l0), nên tình yêu không còn là một ‘giới răn’. Tình yêu chính là lời đáp trả đối với hồng ân “yêu thương” mà với hồng ân ấy Thiên Chúa đã kéo chúng ta lại gần Ngài” (Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 1).
Đức tin chính là sự gắn kết ấy, (có liên hệ đến mọi khả năng của chúng ta) với mạc khải tình yêu “nồng nàn” và nhưng không của Thiên Chúa. Một tình yêu đã được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giê-su Ki-tô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu không chỉ khêu gợi tâm hồn mà còn khêu gợi cả trí tuệ:
“Việc nhận biết Thiên Chúa hằng sống là con đường hướng đến tình yêu, và tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của Người sẽ hiệp nhất với trí tuệ chúng ta, nghĩa là ý chí và tình cảm hiệp nhất nên một hành động tổng thể của tình yêu. Đây rõ ràng là một tiến tình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ “chung cuộc” và “trọn vẹn” (ibid., số 17).
Thế nên, đối với mọi Ki-tô hữu, đặc biệt là những “nhà hảo tâm/từ thiện”, có nhu cầu về đức tin, có nhu cầu về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong Đức Ki-tô, cuộc gặp gỡ này sẽ đánh thức lòng yêu trong họ và mở rộng tâm hồn của họ ra với tha nhân. Theo đó, tình yêu tha nhân đối với họ không còn là một giới răn được áp đặt từ bên ngoài, nhưng là một hệ quả được nảy ra từ đức tin của họ, một đức tin trở nên xung kích trong tình yêu” (Ibid., 31a). Ki-tô hữu là người được tình yêu Thiên Chúa chinh phục và do đó, dưới tác động của tình yêu – “Tình yêu Đức Ki-tô thúc bách chúng tôi” (Caritas Christi urget nos) (2 Cr 5,14) – người ấy biết mở ra trong một cách thức sâu xa và cụ thể đối với tình yêu dành cho tha nhân (Ibid, 33). Thái độ này chính yếu nảy sinh từ việc ý thức mình được yêu, được tha thứ và thậm chí là được Thiên Chúa phục vụ, Ngài là Đấng đã cúi xuống để rửa chân cho các Tông đồ và đã trao Chính Mình trên Thập giá để lôi cuối nhân loại vào trong tình yêu Thiên Chúa.
“Đức tin chỉ cho chúng ta Thiên Chúa là Đấng đã ban Con của Người cho chúng ta và do đó, làm phát sinh nơi chúng ta sự đoan chắc bất khuất, là sự thật: Thiên Chúa là tình yêu! … Đức tin chính là ý thức về tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đã lộ rõ nơi trái tim bị đâm thâu của Đức Giêsu trên thập giá, và đức tin ấy đến phiên mình sẽ làm nảy sinh tình yêu thương. Tình yêu là ánh sáng – và rốt cuộc là là ánh sáng hiệp nhất – sẽ chiếu soi luôn mới mẻ vào một thế giới đen tối, và ban cho chúng ta lòng quả cảm để sống và hành động” (Ibid., 39).
Tất cả điều này làm cho chúng ta hiểu rằng làm thế nào mà điểm biệt hóa người Ki-tô hữu (điểm đặc trưng để nhận ra người Ki-tô hữu, nd) phải là “tình yêu đặt nền tảng trên đức tin và được đức tin khuôn đúc” (ibid., số 7).
2. Đức Mến Xét Như Là Một Đời Sống Trong Đức Tin
Toàn thể đời sống Ki-tô hữu là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa. Lời đáp đầu tiên là việc đón nhận đức tin, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng kiến chưa từng có của Thiên Chúa, Đấng luôn đi bước trước và gọi hỏi chúng ta. Và tiếng “xin vâng” của đức tin đánh dấu một sự khởi đầu của một lịch sử sáng ngời về tình bạn hữu với Thiên Chúa, một tình bạn vốn đổ đầy và trao ban một ý nghĩa trọn vẹn cho toàn bộ đời sống chúng ta. Nhưng đối với Thiên Chúa, nếu chúng ta chỉ đơn thuần đón nhận tình yêu nhưng không của Ngài thì chưa đủ. Ngài không chỉ yêu thương chúng ta, Ngài còn muốn lôi kéo chúng ta đến với Ngài, muốn biến đổi chúng ta theo một cách sâu xa đến nỗi như thánh Phaolô, chúng ta có thể thốt lên rằng: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sóng, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Khi chúng ta dọn chỗ cho tình yêu Thiên Chúa, thì chúng ta lại trở nên giống Ngài và được chung chia chính đức ái của Ngài. Nếu chúng ta mở lòng mình ra cho tình yêu Thiên Chúa, thì chúng ta để cho Ngài sống trong chúng ta, và Ngài đem chúng ta vào trong tình yêu với Ngài, trong Ngài và được đồng hình đồng dạng với Ngài. Chỉ khi đức tin của chúng ta “hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6), thì Thiên Chúa mới thực sự ở trong chúng ta (x. 1 Ga 4,12).
Đức tin là việc nhận biết chân lý và gắn chặt với chân lý (x. 1 Tm 2,4); đức ái là “bước đi/sống” trong chân lý (x. Ep 4,15). Nhờ đức tin, chúng ta đi vào mối tương quan tình bằng bạn hữu với Thiên Chúa; nhờ đức ái, mối tình này được sống động và được dưỡng nuôi (x. Ga 15,14). Đức tin làm cho chúng ta ôm ấp lệnh truyền của Thiên Chúa và của Thầy Chí Thánh; đức ái trao ban cho chúng ta niềm hoan lạc để sống lệnh truyền ấy (x. Ga 13,13-17). Trong đức tin, chúng ta được sinh ra với tư cách là con cái Thiên Chúa; với đức ái, chúng ta gìn giữ mối tình con thảo của chúng ta cách cụ thể với Thiên Chúa, và trổ sinh hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5,22). Đức tin giúp chúng ta nhận ra những quà tặng mà Thiên Chúa tốt lành và quảng đại tặng ban cho ta; đức ái làm cho những món quà ấy trổ sinh hoa trái (x. Mt 15,14-30).
3. Mối Liên Kết Bất Khả Phân Ly Giữa Đức Tin và Đức Ái
Trong ánh sáng này, rõ ràng chúng ta không thể tách rời hoặc đối nghịch giữa đức tin và đức ái. Hai nhân đức đối thần này hiệp nhất mật thiết với nhau, và thật sai lầm khi đặt chúng trong một tương quan đối nghịch hay “biện chứng”. Kỳ thực thì một đàng chúng ta cần tránh việc quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như coi thường những công việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi. Đàng khác chúng ta cũng không nên quá phóng đại vị trí ưu việt của đức ái và những hoạt động của đức ái, như thể là việc làm có thể thay thế đức tin. Một đời sống thiêng liêng trưởng thành cần tránh các thái cực trên, nghĩa là cần phải xa tránh xa thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động.
Đời sống Ki-tô hữu hệ tại ở việc liên lỉ lên núi để gặp Chúa, để rồi “hạ sơn”, nương tựa vào tình yêu và sức mạnh đã kín múc được nơi Ngài, phục vụ anh chị em mình với tình yêu của chính Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy làm thế nào mà lòng hăng say rao giảng Tin Mừng và việc đức tin của người khác được thức tỉnh lại có liên hệ chặt chẽ với hoạt động từ thiện nhắm đến phục vụ người nghèo (x. Cv 6,1-4). Trong Giáo hội, với một cách thức nào đó được tượng trưng bằng hình ảnh của hai chị em Ma-ri-a và Mát-ta trong Tin Mừng, chiêm niệm và hoạt động phải đồng tồn tại và bổ trợ cho nhau (x. Lc 10,38-42). Mối tương quan với Thiên Chúa phải là ưu tiên hàng đầu, và sự chia sẻ của cải đích thực theo tinh thần của Tin Mừng cần cắm rễ sâu trong đức tin (Tiếp Kiến Chung, 25-04-2012). Thực tế, đôi lúc chúng ta có xu hướng giản lược thuật ngữ “đức ái” xuống thành tình liên đới hoặc đơn giản chỉ là hoạt động trợ giúp nhân đạo. Thế nhưng, điều quan trọng cần nhớ rằng công việc bác ái lớn nhất chính là việc truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là “sứ vụ Lời”. Không có hành động nào bác ái hơn và từ thiện hơn là hành động nuôi dưỡng tha nhân bằng Lời Chúa và sẻ chia với họ những Tin Vui của Phúc Âm, dẫn dắt họ đi vào mối tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất.
Trong Thông Điệp Phát Triển Các Dân Tộc (Populorum Progressio), vị tôi Tớ Chúa, Đức Phao-lô VI viết rằng việc công bố về Đức Giê-su Ki-tô là sự đóng góp đầu tiên và quan trọng nhất cho sự phát triển. Chân lý căn bản về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đã được minh thị và được công bố, là điều sẽ mở đời sống chúng ta ra đón nhận tình yêu này, và làm cho sự phát triển hội nhất của nhân loại và của mỗi người trở nên khả thi (x. Bác ái trong Chân lý, số 8).
Một cách thiết yếu, mọi thứ khởi đi từ Tình Yêu và hướng đến Tình Yêu. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa được tỏ cho chúng ta qua việc rao giảng Tin Mừng. Nếu chúng ta vui vẻ đón nhận Tin Mừng với đức tin, chúng ta sẽ đón nhận cuộc tiếp xúc đầu tiên và cần thiết ấy cùng với khả năng Thiên Chúa để khiến cho chúng ta “phải lòng với Tình Yêu”, và rồi, chúng ta sẽ ở lại trong Tình Yêu, lớn lên trong Tình Yêu ấy và thông truyền Tình Yêu ấy cho người khác với niềm hân hoan loan.
Liên quan đến mối tương quan giữa đức tin và việc làm của đức ái, có một đoạn trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô cung cấp cho chúng ta một tường thuật tốt nhất về mối liên kết giữa hai nhân đức này: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Ðức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (2,8-10). Ở đây, chúng ta có thể thấy toàn bộ kế hoạch cứu độ khởi đi từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài và từ sự tha thứ của Ngài mà nhờ đức tin chúng ta đã được nhận lãnh. Thế nhưng, sáng kiến của Thiên Chúa không hạn chế tự do và trách nhiệm của chúng ta, trái lại, sáng kiến của Thiên Chúa làm cho tự do và trách nhiệm của chúng ta được trở nên thiết thực và hướng chúng đến các việc làm bác ái. Đây không phải là kết quả của những nỗ lực của chúng ta, để rồi chúng ta phải hãnh diện, nhưng chúng sinh ra từ đức tin và tuôn trào từ ân sủng mà Thiên Chúa đã trao ban một cách rất phong phú. Đức tin không có việc làm tựa như cây không trổ sinh hoa trái: hai nhân đức này bao hàm trong nhau. Qua những thực hành truyền thống của đời sống Ki-tô hữu, Mùa Chay mời gọi chúng ta biết dưỡng nuôi đức tin của mình bằng cách chú tâm, siêng năng lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích, và đồng thời lớn lên trong đức ái và trong tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân qua những việc làm thiết thực như ăn chay, đền tội và làm việc bố thí.
4. Vị Thế Ưu Tiên Của Đức Tin, Chỗ Đứng Thứ Nhất Của Đức Mến
Như mọi quà tặng của Thiên Chúa, đức tin và đức ái đều dẫn tới hoạt động cùng một Thần Khí duy nhất ( x. 1Cr 13); Thần Khí ngự nơi chúng ta, khiến chúng ta thưa lên “Abba, Cha ơi” (Gl 4,6), và cũng chính Ngài cũng làm chúng ta tuyên xưng: “Đức Giê-su là Chúa!” (1 Cr 12,3) và thốt lên “Maranatha!” (1 Cr 16,12; Kh 22,20).
Đức tin, là quà tặng và lời đáp trả tình yêu Thiên Chúa, sẽ giúp chúng ta nhận biết chân lý về Đức Giê-su Ki-tô, Người là Tình Yêu nhập thể và đã chịu đóng đinh, là Đấng đã vâng phục trọn hảo thánh ý Chúa Cha, và Ngài cũng là lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho con người; đức tin bén rễ vào lòng trí chúng ta một niềm xác tín vững chắc rằng chỉ có Tình Yêu đó (nghĩa là chính Chúa Ki-tô) mới có thể chiến thắng sự dữ và sự chết. Đức tin cũng mời gọi chúng ta hướng về tương lai bằng nhân đức hy vọng, trong sự mong chờ đầy tin tưởng rằng cuộc vinh thắng của Tình Yêu Chúa Ki-tô sẽ đạt chỗ viên mãn của nó. Về phần mình, đức ái làm cho chúng ta bước vào trong tình yêu Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Ki-tô. Đức ái cũng làm cho chúng ta dính chặt vào việc tự hiến hoàn toàn và không hề để lại gì của Chúa Giê-su dành cho Chúa Cha và cho anh em mình trong một cách thức cá vị và sống động. Bằng việc đổ đầy lòng chúng ta đức ái, thi Thần Khí cũng làm cho chúng ta trở nên những kẻ chung phần trong sự tận hiến của Chúa Giê-su: nghĩa là tình con thảo đối với Thiên Chúa và tình yêu huynh đệ đối với mọi người (Rm 5,5).
Mối tương quan giữa hai nhân đức này tựa như mối tương quan giữa hai bí tích nền tảng của Giáo hội: Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Rửa Tội (ví như bí tích đức tin – sacramentum fidei) đến trước Bí Tích Thánh Thể (ví như bí tích đức ái – sacramentum caritatis), thế nhưng Bí Tích Rửa Tội lại được Bí Tích Thánh Thể định hướng, bởi Bí Tích Thánh Thể giúp người Ki-tô hữu đi trọn hành trình Ki-tô hữu của mình. Cũng vậy, đức tin đến trước đức ái nhưng đức tin chỉ trở nên chân thực nếu đạt đến cực điểm nhờ đức ái. Mọi sự khởi đi từ việc khiêm nhường đón nhận đức tin (biết mình tôi được Thiên Chúa yêu), nhưng đức tin phải đạt đến chân lý là đức ái (biết yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân), vốn trường tồn, như là sự viên mãn của mọi nhân đức (1 Cr 13,13).
Anh chị em thân mến!
Trong Mùa Chay này, mùa mà chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thương Khó và Phục sinh, biến cố mà Tình Yêu Thiên Chúa đã cứu độ thế giới và chiếu soi lịch sử, tôi ước mong rằng tất cả anh chị em sống mùa quý báu này bằng việc thắp lại ngọn lửa đức tin vào Chúa Giê-su. Nhờ đó chúng ta có thể cùng với Chúa Giê-su đi vào sức năng động của tình yêu dành cho Cha, và dành cho anh chị em mình là những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày trong đời sống của chúng ta. Vì ý hướng này, tôi dâng lời nguyện lên Chúa, và khẩn nguyện phúc lành Thiên Chúa đổ trên mỗi người và mỗi cộng đoàn!
Từ Vatican, 15 tháng 10 năm 2012
BENEDICTUS PP XVI
Phụ trách,
Augustin Nguyễn Thái Hiệp, S.J.