Sau khi bài viết về Cuộc Thương Khó theo thánh Matthêu được phổ biến qua mạng truyền thông và điện thư, nhiều người ngỏ ý muốn tôi tiếp tục viết về bài Thương Khó trong cả bốn sách Phúc Âm. Tôi định bụng là nếu Chúa để sống thì mỗi năm viết về một sách Phúc Âm, nhưng nhớ câu châm ngôn của nhà nghèo: “biết có sống đến mai mà để dành củ khoai đến tối”, tôi tra tay viết ngay về bài Thương Khó theo thánh Gioan, vì năm nào cũng đọc vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, hy vọng kịp cho Tuần Thánh năm nay 2014.
1. Nhận xét mở đầu. Xin coi lại trong bài về cuộc Thương Khó theo thanh Matthêu.
2. Những yếu tố giúp hiểu bài Thương Khó theo thánh Gioan.
1/ Trước hết cần chú ý đến cách nhìn về Chúa Giêsu và phương pháp trình bày được nêu ngay trong lời mở đầu (Ga 1,1-18).
Nguồn gốc và bản chất Chúa Giêsu:
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời – Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa (câu 1)
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và “cắm lều” giữa chúng ta (câu 18) [dịch sát].
Chúa Giêsu đến đem cho chúng ta điều gì:
Những ai đón nhận tức là những ai tin vào Danh người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa… được sinh ra do bởi Thiên Chúa (câu 12-13).
Thiên Chúa chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ [dịch sát: kể] cho chúng ta biết (câu 18).
Những người làm chứng đã thấy gì:
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, Vinh Quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ơn sủng và sự thật (câu 14).
Phương pháp trình bày:
Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê
Còn ân sủng và sự thật [ds. tình yêu và sự thành tín], thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có (câu 17).
Lề Luật tiêu biểu cho Giao Ước ở núi Xinai qua đó Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu và lòng thành tín của Người đối với Ap-ra-ham: giải thoát dòng dõi Apraham khỏi ách nô lệ và lập Giao ước để nhận họ làm dân riêng của Thiên Chúa, ban cho họ Lề Luật qua tay Môsê để họ sống làm dân riêng của Chúa và được vào miền Đất Chúa đã hứa cho Apraham (xem Đệ Nhị Luật, 7,7-11)
Chúa Giêsu là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (câu 14) [ds: Tình Yêu và sự thành tín] nên không chỉ là một ơn huệ của tình yêu mà là chính Tình Yêu và sự thành tín của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa không đòi lại, nhưng để cho Con Một yêu dấu của mình chết treo thập giá. “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được dương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14).
Đưa ra sự so sánh này là đã vạch cho thấy phương pháp trình bày: Lề Luật được ban qua Môsê như quà tặng của Tình Yêu do lòng thành tín, giữ lời hứa với Apraham, mới chỉ là “cái bóng”, còn Chúa Giêsu mới là “cái hình”: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9); là chính Tình Yêu và lòng thành tín, vì khi đã ban Con Một thì Thiên Chúa đã ban chính mình, không còn gì khác để ban: “Cha của Thầy cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17).
Cả Tin Mừng theo thánh Gioan là câu chuyện, là bài ca Tình Yêu tuyệt vời, trong đó Thiên Chúa tự mặc khải nơi Chúa Giêsu, Chúa Giêsu kể cho chúng ta biết “Thiên Chúa là Tình Yêu” (I Ga 4,8). Chúa Giê-su không chỉ kể bằng lời, mà kể bằng chính cuộc sống và cái chết của mình, vì Chúa là “Lời đã làm người”để kể. Chúa nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9) rồi lại thêm: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy”(Ga 15,13-14). Vậy cái chết của Chúa vừa là “để cho thế gian thấy rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (14,31), vừa là để cho chúng ta thấy Chúa Cha yêu thương chúng ta như thế nào: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu mến chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,9-10). Thật ra thì toàn bộ “lời tâm sự” từ chương 13 đến chương 17 là Chúa Giê-su kể cho chúng ta biết tên thật của Thiên Chúa: “Con đã cho họ biết Danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa”(17,26). Trong thư thứ I, thánh Gioan sẽ nói rõ Tên thật của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (I Ga 4,16).
Phương pháp Tin Mừng Gioan trình bày mầu nhiệm Chúa Giêsu là so sánh hình (Chúa Giêsu) với bóng (Lề Luật và Môsê). Ngay trong lởi mở đầu, chúng ta đã thấy sự so sánh được gợi lên trong câu “cắm lều ở giữa chúng ta”, vì trong sa mạc, ông Mô-sê dựng lều Hội Ngộ ở bên ngoài trại (xem Xuất Hành, 33,7-11) còn Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã thành người phàm và cắm lều ở giữa chúng ta. Chính khi Chúa chịu treo thập giá thì điều này hiện rõ hơn cả: “Tại đó họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên” (Ga 19,18) [Các sách tin Mừng Nhất Lãm nói Chúa bịt đóng đinh giữa hai người trộm cướp].
Ngay sau khi nhắc đến Lề Luật và Mô-sê, lại có câu “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ”, khiến người biết Ngũ Thư (sách Luật Mô-sê) không thể không nghĩ tới chuyện ông Mô-sê xin Thiên Chúa cho thấy mặt, bị từ chối: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn còn sống… Đây là chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. Khi vinh quang của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi cho đến khi Ta đã đi qua. Rồi Ta sẽ rút tay lại và ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy” (Xh 33,20). Như vậy Chúa Giêsu hơn hẳn ông Mô-sê; các môn đệ cũng hơn ông Mô-sê vì đã được thấy vinh quang của Chúa Giê-su, “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Lần đầu tiên Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang của Người là ở tiệc cưới Cana. Tột đỉnh vinh quang sẽ tỏ hiện trên Thập giá, vì đó là nơi Chúa Giê-su được tôn vinh, là ngai tòa của Chúa.
2/ Chìa khóa vạn năng:
Thí dụ điển hình này cho thấy muốn hiểu và cảm nếm được mầu nhiệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh theo cách trình bày của sách Tin Mừng Gioan, chúng ta cần phải nắm vững tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước như hai giai đoạn không thể tách rời trong lịch sử cứu độ và hai phần của cùng một Sách Thánh: Cựu Ước là giai đoạn chuẩn bị trong đó Tân Ước đã đươc loan báo qua các sự việc và lời ngôn sứ, và Chúa Giê-su đến là để thực hiện mọi lời hứa, mọi lời loan báo. Châm ngôn của các giáo phụ: “Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu Ước hiện rõ trong Tân Ước”, chỉ là phát biểu một nguyên tắc do chính Chúa Giê-su và các tông đồ để lại. Trong sách Tin Mừng Mt, Chúa Giê-su tuyên bố “Ta đến không phải để bãi bỏ Lề Luật nhưng để làm tròn” (Mt 6,17). Trong Lc 24, Chúa Giê-su Phục Sinh giải nghĩa cho các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh [= toàn thể các sách Cựu Ước] đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Khốn nỗi các ông đã không hiểu gì nên bị chao đảo. “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,44-48).Thế là Chúa Giê-su “giải huyệt ngu” cho môn đệ hiểu về những gì đã xảy ra cho Chúa và về sứ mạng của họ nữa. Trong sách Tin Mừng Gioan thì Chúa giải huyệt ngu bằng cách gởi Thánh Thần xuống: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13).
Chìa khóa vạn năng Chúa Giê-su trao cho các môn đệ để hiểu về Chúa là các sách Cựu Ước. Thánh Thần sẽ dạy các ông biết sử dụng chìa khóa đó. Vì thế lời rao giảng của các Tông Đồ và tất cả các sách Tin Mừng cũng như cách sách, thư khác trong Tân Ước đều vận dụng Cựu Ước bằng nhiều cách để giải nghĩa mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-tô và đời sống các môn đệ.
Mỗi sách Tin Mừng có một cách thức khác nhau khi vận dụng Cựu Ước. Trong các bài về Tin Mừng thời Thơ Ấu dịp lễ Giáng Sinh vừa qua và bài về cuộc Thương Khó theo thánh Mat-thêu tôi đã trình bày cách thức sách Tin Mừng này vận dụng Cựu Ước. Tin Mừng thứ tư và ba lá thư của thánh Gioan cũng như sách Khải Huyền đều thuộc cùng một “trường phái” trong cách nhìn về Chúa Giê-su và cách vận dụng Cựu Ước. Trong bài này tôi không muốn làm người đọc “chia trí” về lý thuyết, nhưng đi thẳng vào thực hành. Nếu ta ví trình thuật trong sách Tin Mừng như một tấm thảm, một bức họa để giúp ta chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-tô, ta phải kiên trì lần theo từng “sợi chỉ” từ lúc nó được đặt vào khung vải, xem nó được đan kết thế nào cho tới khi nó xuất hiện trên mặt hoàn chỉnh của tấm thảm. Tin Mừng Gioan rút từng sợi chỉ trong Cựu Ước để làm dây dẫn, kết với các sợi chỉ màu trong mầu nhiệm Chúa Giê-su. Khi ta nắm được phần nào ý nghĩa những mầu sắc, đường nét thì ta sẽ có thể chiêm ngắm chiều sâu của “chân dung” được đặt trước mắt mình. Nếu ta ví cả Sách Thánh như một bản trường ca, một bản đại hòa tấu trong đó Chúa Giê-su là hòa âm tột đỉnh, thì mỗi chủ đề, mỗi làn điệu đã lần lượt xuất hiện nhẹ nhàng, bí ẩn trong Cựu Ước, và triển khai dần dần cho tới khi tất cả trở nên rõ ràng và hòa hợp tuyệt vời trong Chúa Giê-su.
Chúng ta hãy đưa mắt nhìn kỹ xem các đầu mối của những sợi chỉ chính, hay những làn điệu chủ, khởi đầu ở chỗ nào và sẽ xuất hiện như thế nào khi tới tột đỉnh trong cuộc “tôn vinh” trên thập giá. Nhưng Tin Mừng thứ tư rất phong phú, có lẽ phải so sánh như một khối nhiều mặt, Ta chỉ có thể nhìn từng mặt và để cho tất cả thấm nhập vào lòng trí ta, rồi trong thinh lặng tất cả sẽ tỏa sáng trong lòng, trong tim ta.
(kính mời quý vị xem trang tiếp theo)