Nhiều người khẳng định rằng Chúa Giêsu không phục sinh mà chỉ là do chết ngất mà thôi, thậm chí BBC còn làm một bộ phim tài liệu chứng minh điều này và cho rằng sau biến cố đóng đinh, Chúa Giêsu đã trốn đi và trở thành một tu sĩ Phật giáo. Là người Kitô hữu, với niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh làm sao bạn trả lời cho họ được thỏa lòng. Xin được trích dịch lập luận trong cuốn Pocket Handbook of Christian Apologetics của Peter Kreeft, Ronald K. Tacelli, với hy vọng giúp ích ít nhiều.
Mọi bài giảng mà Kitô hữu rao giảng trong Tân Ước tập trung vào sự phục sinh. Phúc âm hoặc “tin mừng” có nghĩa cơ bản là tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô. Thông điệp này chiếu tỏa trên toàn thế giới trung cổ, làm cho bao trái tim bừng cháy, thay đổi bao cuộc đời và xoay chuyển một thế giới không mấy “nhân đạo.” Mọi người khôn ngoan đạo đức biết rằng; đó không phải là tin tức bình thường mà là tin về một con người, người mà đã khẳng định mình là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ thế giới, đã trỗi dậy từ cõi chết.
Một thách thức hợp lẽ dành cho những người hoài nghi là: nếu có thể chứng minh được rằng Chúa Giêsu thực sự đã trỗi dậy từ cõi chết, thì liệu bạn có tin vào Ngài không? Vì nếu Ngài thực sự trỗi dậy, điều đó xác nhận khẳng định Ngài là Thiên Chúa và không đơn thuần chỉ là con người, vì sự phục sinh từ cõi chết thì ngoài sức con người; và thiên tính của Ngài xác nhận chân lý của tất cả mọi sự khác Ngài đã nói, vì Thiên Chúa không thể nói dối.
Phục sinh có tầm quan trọng thực tiễn quyết định bởi vì nó hoàn tất việc cứu rỗi của chúng ta. Chúa Giêsu đến để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và hậu quả của nó là cái chết Rm 6:23).
Phục sinh cũng làm nên sự khác biệt mạnh mẽ giữa Chúa Giêsu với tất cả các vị sáng lập tôn giáo khác. Xương của Abraham, Muhammad, Đức Phật, Khổng Tử, Lão Tử và Zoroaster tất cả vẫn còn trên trái đất này. Còn mộ Chúa Giêsu thì trống rỗng.
Những hệ quả hiện sinh của phục sinh có thể được thấy bằng cách so sánh các môn đệ trước và sau phục sinh. Trước, họ co cụm với nhau sau cánh cửa bị khóa chặt trong sợ hãi và hoang mang. Sau, họ được biến đổi từ những kẻ nhát đảm thành những vị thánh tự tin, những người truyền giáo làm thay đổi thế giới và là những vị tử đạo anh dũng.
Điều quan trọng nhất của phục sinh không phải là trong quá khứ-“Chúa Kitô đã phục sinh”, nhưng trong hiện tại, “Chúa Kitô đang phục sinh.” Vị Thiên Thần tại ngôi mộ đã hỏi các người phụ nữ, “Sao các bạn tìm người sống nơi kẻ chết?” (Lc 24:5). Ngày hôm nay, các nhà sử học và các học giả có thể được hỏi cùng câu hỏi đó. Nếu chúng ta đã không giữ Chúa Kitô nằm trong một quan tài được gán nhãn “lịch sử” hay “hộ giáo,” thì Ngài đã làm cho cuộc sống của chúng ta và thế giới bừng cháy ngọn lửa mạnh mẽ như Ngài đã làm hai thiên niên kỷ trước. Đó là việc nhập thân hiện sinh của sự phục sinh.
Chiến lược của Lập luân cho Phục sinh: Năm lý thuyết khả dĩ
Chúng ta tin rằng sự phục sinh của Chúa Kitô có thể được chứng minh ít là cũng rất chắc chắn như bất kỳ sự kiện nào được tin tưởng phổ biến và được ghi lại trong lịch sử cổ đại. Để chứng minh điều này, chúng ta không cần phải tiền giả định bất cứ điều gì có thể gây ra tranh luận (ví dụ, là phép lạ xảy ra). Nhưng những người hoài nghi cũng không phải tiền giả định bất cứ điều gì (ví dụ, là phép lạ không xảy ra). Chúng ta không cần phải giả thiết rằng Tân Ước là tuyệt đối đáng tin cậy hay được khởi hứng bởi Thiên Chúa hoặc thậm chí là chân lý. Chúng ta không cần phải tiền giả định rằng thực sự có một ngôi mộ trống rỗng, hoặc những lần hiện ra hậu phục sinh, như được ghi chép. Chúng ta cần tiền giả định chỉ hai điều, cả hai đều là dữ liệu thô, dữ liệu thực nghiệm, mà không ai phủ nhận: sự tồn tại của những bản văn Tân Ước như chúng ta có và sự tồn tại (nhưng không tất yếu là chân lý) của Kitô giáo như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Câu hỏi đặt ra là: Giả thiết nào về điều thực sự đã xảy ra ở Giêrusalem vào ngày Chúa nhật Phục Sinh đầu tiên có thể giải thích cho nguồn dữ liệu?
Có năm giả thiết có thể có: Kitô giáo, ảo giác, huyền thoại, âm mưu và bất tỉnh.
Chúa Giêsu đã chết — Chúa Giêsu đã sống lại ——– (1) Kitô giáo
Chúa Giêsu không sống lại–các tông đồ đã bị đánh lừa –(2) Ảo giác
Các tông đồ là những người tạo nên huyền thoại—– (3) Huyền thoại
Các tông đồ là những người lừa đảo —-(4)Âm mưu
Chúa Giêsu đã không chết ———— – (5) Sự bất tỉnh
Phản bác giả thiết bất tỉnh: chín luận chứng. Phải chăng Chúa Giêsu đã không thực sự chết trong khi đóng đinh nhưng chỉ ngất đi? Chín chứng cứ phản bác giả thuyết bất tỉnh:
1. Chúa Giêsu đã không thể sống sót bởi việc đóng đinh. Cách thức thi hành việc đóng đinh của người La Mã là rất cẩn thận để loại trừ khả năng trên. Luật La Mã thậm chí đặt án tử hình cho bất kỳ người lính nào để cho một tù nhân trốn thoát vốn bằng cách nào đi nữa, kể cả việc làm hỏng một cuộc đóng đinh.
2. Việc người lính La Mã đã không đánh vỡ chân Chúa Giêsu, như anh ta đã làm với hai tội phạm bị đóng đinh khác (Ga 19:31-33), cho thấy người lính đã chắc chắn Chúa Giêsu đã chết. Đánh gãy chân làm cho chết nhanh hơn để có thể đưa xác xuống trước ngày sa-bát (Ga 19:31).
3. Gioan, một chứng nhân tận mắt, đã xác nhận rằng ông đã thấy máu và nước chảy ra từ cạnh sượn bị đâm của Chúa Giêsu (Ga 19:34-35). Điều này cho thấy phổi của Chúa Giêsu đã ép lại và Ngài đã chết vì ngạt thở. Bất kỳ chuyên gia y học nào cũng có thể xác minh cho điều này.
4. Cơ thể hoàn toàn được bọc trong những tấm vải liệm và được chôn (Ga 19:38-42).
5. Những lần hiện ra hậu phục sinh đã thuyết phục các môn đệ, thậm chí cả “Tôma nghi ngờ,” rằng Chúa Giêsu đang sống vinh hiển (Ga 20:19-29). Xét về mặt tâm lý, đó là điều không thể đối với các môn đệ để có được sự biến chuyển và tự tin lớn lao nếu Chúa Giêsu đơn thuần đã vượt qua cơn bất tỉnh nhờ đến một bác sĩ nào đó. Một người thương tật loạng choạng dở sống dở chết, người mà vừa trốn thoát một cách ngặt nghèo thì không thể được tôn thờ cách mạnh mẽ như là Thiên Chúa và là đấng chinh phục cái chết.
6. Làm thế nào những người lính bảo vệ La Mã tại ngôi mộ bị khuất phục bởi một cái xác bất tỉnh? Hoặc bởi những môn đệ không vũ trang? Và nếu các môn đệ đã làm điều đó, thì họ đã cố ý dối trá khi họ viết Phúc Âm, và chúng ta đi vào giả thuyết âm mưu, mà chúng ta sẽ phản bác ngay sau đây.
7. Làm thế nào một người dở sống dở chết đang bị ngất có thể dịch chuyển tảng đá lớn tại cửa mộ? Ai đã dời tảng đá nếu không phải là một thiên thần? Không có ai trả lời cho câu hỏi này bao giờ cả.
8. Nếu Chúa Giêsu tỉnh dậy sau cơn ngất, thì Ngài đã đi đâu? Hãy suy nghĩ điều này cho kỹ: bây giờ, bạn có một cơ thể sống để bàn luận, không phải là một cơ thể chết. Tại sao nó đã biến mất? Một người như vậy, với một quá khứ như vậy, sẽ để lại các dấu vết.
9. Một cách đơn giản nhất, giả thuyết bất tỉnh tất yếu biến thành giả thuyết âm mưu hoặc giả thuyết ảo giác, vì các môn đệ đã làm chứng rằng Chúa Giêsu đã không chết ngất nhưng thực sự đã chết và thực sự đã phục sinh.
Bác bỏ giả thuyết âm mưu: bảy luận chứng. Tại sao các môn đệ đã không thể tạo nên toàn bộ câu chuyện?
1. Pascal đưa ra một bằng chứng, đơn giản có cơ sở vững chắc về mặt tâm lý cho lý do tại sao giả thuyết này là không thể nghĩ ra được:
Giả thuyết cho rằng các tông đồ là những kẻ dối trá là hoàn toàn vô lý. Hãy theo điều này cho đến cuối, và hãy tưởng tượng mười hai người này gặp nhau sau cái chết của Chúa Giêsu và âm mưu để nói rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết. Điều này có nghĩa là chống lại tất cả các thế lực lúc bấy giờ. Lòng người thì rất dễ bị ảnh hưởng bởi những sự thất thường, bởi những thay đổi, bởi những lời hứa hẹn, hay bởi sự mua chuộc. Chỉ cần một trong số họ phủ nhận câu chuyện của mình bởi những xui khiến đó, hoặc hơn thế khi sợ bị cầm tù, tra tấn và chết, và như thế tất cả họ sẽ bị tiêu vong. Hãy kiên định như thế (322 Tư tưởng, 310)
2. Nếu họ tạo ra câu chuyện đó thì họ là những nhà viết chuyện viễn tưởng sáng tạo, tài tình, thông minh nhất trong lịch sử, vượt xa Shakespeare hay Dante hoặc Tolkien. “Những câu chuyện cá” của những ngư phủ không bao giờ tỉ mỷ, có sức thuyết phục, làm thay đổi cuộc sống và bền bỉ như thế.
3. Về phần các môn đệ, tính cách của họ cho thấy những lý do chống lại mạnh mẽ một âm mưu như thế, mà không ai có thể chống đối được. Họ là những người đơn sơ, trung thực, là những nông dân bình thường, không phải là những kẻ nói dối xảo quyệt, khôn ranh. Họ thậm chí không phải là luật sư. Lòng chân thành của họ được chứng minh bởi lời nói và hành động của họ. Họ rao giảng một Chúa Kitô phục sinh và họ sống một Chúa Kitô phục sinh. Họ sẵn sàng chết cho “âm mưu” của họ. Không gì chứng minh lòng kiên trung như việc tử đạo.
4. Không có thể có một động cơ cho một lời nói dối như thế. Lời nói dối luôn luôn được nói chỉ vì những lợi ích vị kỷ. Đâu là lợi ích mà “những kẻ âm mưu” có được từ “chuyện dối trá” của họ? Họ bị ghét bỏ, khinh miệt, bách hại, xua đuổi, giam cầm, tra tấn, lưu đày, chịu đóng đinh, luộc sống, nướng, chặt đầu, moi ruột và làm mồi cho sư tử – khó lòng mà đưa ra được một bảng liệt kê những lợi ích.
5. Nếu sự phục sinh là một lời nói dối, người Do Thái đã có thể đưa ra cái xác và bóp chết sự mê tín đáng sợ này ngay từ trong trứng nước. Mọi điều họ phải làm là đi đến ngôi mộ và tìm lại cái xác đó. Các binh sĩ La Mã và các nhà lãnh đạo của họ đứng về một phía, không phải là Kitô hữu. Và nếu người Do Thái không thể có được cái xác vì các môn đệ đã lấy trộm nó, thì làm thế nào mà các môn đệ thực hiện được điều đó? Những lập luận chống lại giả thuyết bất tỉnh cũng có hiệu lực ở đây: những kẻ quê mùa không vũ trang không thể chế ngự được những người lính La Mã hay lăn đi một tảng đá lớn, trong lúc lính canh ngủ khi làm nhiệm vụ.
6. Các môn đệ không thể tránh được những hậu quả do việc loan báo sự phục sinh ở Giêrusalem-cùng một thời gian, cùng một nơi chốn và đầy những nhân chứng – nếu đó là một lời dối trá. “Nếu có một âm mưu, chắc chắn nó sẽ bị phơi bày bởi các kẻ thù của các môn đệ, những kẻ có cả tiền tài và quyền lực để vạch trần bất cứ sự gian lận nào. Kinh nghiệm chung cho thấy rằng những mưu đồ như thế thì chắc chắn bị lột trần”. (Craig, Tìm hiều sự thật về sự Phục sinh, chương 6).
Phản bác giả thuyết ảo giác: mười ba luận chứng. Nếu bạn nghĩ rằng bạn thấy một người chết đi lại và nói chuyện, thì bạn không nghĩ rằng có nhiều khả năng là bạn bị ảo giác hơn là điều bạn đang nhìn thấy thật sự đấy chứ? Thế thì tại sao không nghĩ rằng cùng một điều về sự phục sinh của Chúa Kitô?
1. Có quá nhiều nhân chứng. Ảo giác là riêng tư, cá nhân và chủ quan. Chúa Kitô hiện với Maria Mađalêna, với các môn đệ trừ Tôma, với các đệ tử gồm cả Tôma, với hai môn đệ ở Emmaus, với các ngư phủ trên bờ biển, với Giacôbê (“anh em” hay anh em họ của Ngài) và ngay cả với năm trăm người cùng một lúc (1 Cr 15:3-8). Chỉ ba nhân chứng khác nhau là đủ cho một loại so sánh tam diện về tâm lý; hơn năm trăm người thì cũng là công khai như bạn có thể muốn. Và Thánh Phaolô nói trong đoạn văn này (câu 6) là hầu hết năm trăm người này vẫn còn sống, điều này mời gọi bất cứ độc giả nào kiểm tra tính chân thực của câu chuyện bằng cách tra vấn những người chứng kiến. Nếu đó không phải là sự thật, thì Ngài không bao giờ có thể mời gọi độc giả như thế và có lẽ đã từ bỏ việc mời gọi đó, và ngài cũng có thể bị quy phục bởi quyền lực, sức mạnh và số đông các địch thù.
2. Các nhân chứng là đủ điều kiện. Họ là những người đơn sơ, trung thực, đạo đức, là những người trực tiếp biết các sự kiện.
3. Các nhân chứng cùng thấy Chúa Kitô, tại cùng một thời gian và địa điểm.
4. Ảo giác thường kéo dài một vài giây hoặc vài phút; hiếm khi vài giờ. Còn điều này thì kéo dài trong khoảng bốn mươi ngày (Cv 1:3).
5. Ảo giác thường xảy ra chỉ một lần, ngoại trừ với người điên. Điều này trở lại nhiều lần, với những con người bình dân (Ga 20:19-21:14; Cv 1:3).
6. Ảo giác đến từ bên trong, từ những gì chúng ta đã biết, ít nhất là vô thức. Chúa Giêsu đã nói và làm những điều đáng ngạc nhiên và bất ngờ (1:4 Cv, 9) – như một con người thực và không giống như một giấc mơ.
7. Không chỉ các môn đệ không mong đợi sự phục sinh, lúc đầu họ thậm chí không tin – Phêrô, hay các phụ nữ, Tôma, cũng như mười một môn đệ. Họ nghĩ rằng Ngài là ma; Ngài đã phải ăn cái gì đó để chứng minh mình không phải ma (Lc 24:36-43).
8. Ảo giác không ăn uống. Chúa Kitô phục sinh đã ăn, ít nhất hai lần (Lc 24:42-43; Ga 21:1-14).
9. Các môn đệ đụng chạm Ngài (Mt 28:9; Lc 24:39; Ga 20:27).
10. Các môn đệ cũng đã nói chuyện với Ngài, và Ngài đã nói lại. Trí tưởng tượng của bạn không giữ những cuộc đối thoại sâu sắc, kéo dài, trừ khi bạn có các rối loạn tâm thần cô lập bạn. Nhưng “ảo giác” này nói chuyện với ít nhất mười một người cùng một lúc, trong bốn mươi ngày (Cv 1:3).
11. Các tông đồ không thể tin vào “ảo giác” nếu xác Chúa Giêsu vẫn còn trong mộ. Đây là điểm rất cơ bản và có hiệu lực; vì nếu là một ảo giác, thì xác chết ở đâu? Họ có thể kiểm định điều này, nếu nó ở đó, thì họ không thể tin.
12. Nếu các tông đồ bị ảo giác và sau đó loan truyền câu chuyện ảo giác của họ, thì người Do Thái đã có thể ngăn chặn nó bằng cách trưng ra xác chết, trừ khi các môn đệ đánh cắp nó, trong trường hợp này chúng ta trở lại với giả thuyết âm mưu với tất cả các khó khăn của nó.
13. Một ảo giác giải thích chỉ với các lần hiện ra hậu phục sinh; nó không giải thích ngôi mộ trống được, tảng đá bị lăn ra hoặc không có khả năng tìm ra xác chết. Không có giả thuyết nào có thể giải thích tất cả những dữ kiện này, ngoại trừ một sự phục sinh thực sự.
Phản bác giả thuyết huyền thoại: sáu luận chứng. Làm thế nào để chúng ta biết sự phục sinh của Chúa Giêsu không là một huyền thoại?
1. Văn phong của Phúc âm thì khác căn bản và rõ rệt với văn phong của tất cả thể loại huyền thoại. Bất kỳ học giả văn học nào biết và đánh giá đúng về huyền thoại có thể xác minh điều này. Không có sự kiện nào là rỗng tuếch, ngoạn mục, hay phóng đại kiểu trẻ con. Không có gì là tùy tiện. Tất cả mọi thứ ăn khớp với nhau. Mọi thứ là có ý nghĩa.
Bàn tay của một bậc thầy làm việc ở đây.
Chiều sâu tâm lý là ở một mức cực đại. Trong huyền thoại chiều sâu đó là ở mức cực tiểu. Trong thần thoại, những sự kiện ngoạn mục bên ngoài như thế xảy ra, sẽ trở nên sao nhãng nếu thêm chiều sâu bên trong của tính cách. Đó là lý do tại sao chính những người bình thường như Alice, nhân vật chính của những cuộc phiêu lưu phi thường như Miền đất kỳ diệu. Chiều sâu tính cách và sự phát triển của mọi người trong Phúc Âm, dĩ nhiên, đặc biệt là Chúa Giêsu-là đáng lưu tâm.
Phúc Âm cũng được thực hiện với một sự kiệm lời khó tin. Thần thoại thì dông dài; Phúc Âm thì súc tích.
Cũng có những dấu hiệu mang ý nghĩa của sự mô tả của chứng nhân, như chi tiết nhỏ về việc Chúa Giêsu viết trên đất khi được hỏi liệu có được ném đá người phụ nữ ngoại tình hay không (Ga 8:6). Không ai biết tại sao điều này được đưa vào, nó chẳng mang lại điều gì. Lời giải thích duy nhất là tác giả đã thấy điều đó. Nếu chi tiết này và những chi tiết khác tương tự xuyên suốt trong cả bốn Phúc âm đã được phát minh ra, thì một người thuế thu (Matthêu), một “người trẻ tuổi” (Maccô), một bác sĩ (Luca) và một ngư dân (Gioan) thuộc thế kỷ thứ nhất, tất cả đã phát minh một cách độc lập một thể loại siêu tưởng hiện thực mười chín thế kỷ trước khi nó được tái tạo lại trong thế kỷ thứ hai mươi này.
2. Một vấn đề thứ hai là không có đủ thời gian cho huyền thoại phát triển. Các nhà chống huyền thoại nguyên thủy đã giữ lập trường của họ rằng các bản văn Phúc Âm được viết vào ngày cuối thế kỷ thứ hai; phải mất nhiều thế hệ trôi qua trước khi các yếu tố thần thoại được thêm vào mới có thể được tin một cách sai lầm là hiện thực.
Julius Muller thách thức những người thế kỷ mười chín cùng thời với ông đưa ra một dẫn chứng đơn lẻ bất cứ nơi nào trong lịch sử về một huyền thoại lớn hoặc truyền thuyết phát sinh xung quanh một nhân vật lịch sử và được tin một cách đại thể trong vòng ba mươi năm sau cái chết của nhân vật đó. Không một ai đã trả lời ông.
3. Giả thuyết huyền thoại thiết lập hai lớp. Lớp đầu tiên là Chúa Giêsu lịch sử, người không phải là thần thánh, không xác nhận thiên tính, không thực hiện phép lạ và không sống lại từ cõi chết. Thứ hai, lớp huyền thoại là Phúc Âm như chúng ta có, với một Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Thiên Chúa, đã thực hiện phép lạ và sống lại từ cõi chết. Vấn đề với giả thuyết này chỉ đơn giản rằng không có bất cứ một tí bằng chứng gì về sự tồn tại của lớp đầu tiên như thế. Giả thuyết hai lớp có lớp đầu tiên đã làm nên toàn bộ diện mạo.
4. Một chi tiết nhỏ, ít khi được nhận thấy, là sự phân biệt đáng kể giữa Phúc Âm với huyền thoại: các nhân chứng đầu tiên của sự phục sinh là những người phụ nữ. Trong Do Thái giáo thế kỷ thứ nhất, phụ nữ có địa vị xã hội thấp và không có quyền pháp lý để làm nhân chứng. Nếu ngôi mộ trống là một truyền thuyết được phát minh, thì người sáng chế chắc chắn sẽ không để cho các phụ nữ khám phá ra ngôi mộ, lời chứng của họ được coi là vô giá trị. Mặt khác, nếu các tác giả viết lại một cách đơn giản những gì họ đã thấy, thì họ phải nói sự thật, dù khó khăn về mặt xã hội và pháp lý.
5. Tân Ước không thể là huyền thoại đã bị giải thích sai và nhầm lẫn với thực tế, bởi vì cần phân biệt rõ hai điều sau và loại trừ việc giải thích mang tính thần thoại (2 Pr 1:16). Vì nói một cách rõ ràng rằng nó không phải là huyền thoại, nếu nó là huyền thoại, thì đúng hơn phải nói là một lời nói dối có chủ ý chứ không phải là huyền thoại. Lưỡng đề vẫn đứng vững: hoặc là sự thật hoặc là lời nói dối, hoặc cố ý (âm mưu) hay vô tình (ảo giác). Không thoát khỏi thế lưỡng đao luận này. Khi một đứa trẻ hỏi ông già Noel là có thật không, câu trả lời “có” của bạn trở thành một lời nói dối, không phải là huyền thoại, nếu ông ta không có thật hiểu theo nghĩa đen. Khi Tân Ước phân biệt giữa huyền thoại với thực tế, nó sẽ trở thành một lời nói dối nếu sự phục sinh không phải là sự thực. R. L. Purtill tóm tắt trường hợp văn bản chết như sau:
Nhiều sự kiện được coi là vững chắc được chấp nhận về mặt lịch sử (1) có chứng cứ tài liệu ít hơn nhiều những sự kiện trong Kinh Thánh, (2) và những bản văn mà các nhà sử học dựa vào đối với lịch sử nhân loại được viết sau rất nhiều những sự kiện ghi trong Kinh Thánh. (3) Hơn nữa, chúng ta có rất nhiều bản sao của những trình thuật trong Kinh Thánh hơn những bản sao của lịch sử nhân loại, và (4) các bản sao còn tồn tại thì có sớm hơn nhiều so với những bằng chứng của chúng ta đối với lịch sử nhân loại dựa vào. Nếu những trình thuật trong Kinh Thánh không chứa các sự kiện lạ lùng … thì lịch sử Kinh Thánh rất có thể sẽ được coi là vững chắc hơn nhiều so với hầu hết những sự kiện lịch sử đã được xác nhận, nói theo Hy Lạp và La Mã cổ điển. (Suy tư về Tôn giáo, tr. 84-85)
Nếu tất cả những gì chúng ta đã nói cho đến nay là đúng, thì một hệ quả đáng ngạc nhiên tất yếu như sau: chỉ có hai điều cần thiết cho bất cứ ai được hoán cải trở về với Đức Kitô. (Tất nhiên, ân sủng Thiên Chúa là cần thiết, nhưng Thiên Chúa cũng sẵn sàng ban ân sủng của mình cho bất kỳ ai sẵn sàng tìm kiếm và đón nhận nó.) Hai điều nay là nhận thức về dữ kiện, và tính trung thực hợp đạo đức và khôn ngoan. Đây là chính thái độ đối với những người vô tín cần có: lòng chân thực không cảm tính, có tính hoài nghi, có tính khoa học, và hợp logic. Vâng, nếu họ thực sự có điều đó, nó sẽ dẫn họ tới Chúa Kitô.
Bài viết thật tuyệt. Cám ơn tác giả.
Thưa quí cha Ban Tòa soạn,với bài này,con xin có vài điều sau:
Cảm ơn bạn Cường mà tôi được đọc bài dài này.Nay xin gửi bạn Cường và các đọc giả. Cách đây 41 năm tôi mượn về đọc trọn bộ .Tôi đọc dựa trên suy nghĩ độc lập,khách quan.
Chúa Giêsu có thật sự sống lại không?. Chúng ta cứ lấy 3 trường hợp Chúa Giêsu đã cho sống lại đó là:1/ Lajarô,2/ thanh niên thành Na-im và con gái ông Từ. Họ sống lại có lẽ sẽ lập gia đình;làm ông làm bà…rồi chết lại lần cuối.Chúa Giêsu làm người thật như mọi người chứ không giả vờ để hờ hờ sống ngoài qui luật làm người.Sống lại cũng vậy:- 40 ngày sống lại Ngài trở về sống với mẹ,đi thăm môn đệ và ăn uống với họ là phải như khi chưa chết!chứ không sống lại với dạng..hiện về! vì dạng hiện về tức của thành phần hồn rồi! hồn hiện về có lẽ cố giả cứ mặc áo,giả ăn,giả đi nhanh đi chậm…
Cái hồn hiện về thì không phải là cái thân thể có lưỡi mềm,có ruột trong bụng để mà ăn thật sự. Còn về trời ư! Cứ về như mẹ của Ngài!
Lý do có Chúa Giêsu là do tổ tiên loài người khi mới được tạo dựng đã không vâng lời Đức Chúa trời mà cổ dân Do thái gọi là Thần Quyền năng EL,là Đức Chúa của dân tộc họ( Isra-El)
Vậy chúng ta hãy tìm hiểu thời nguồn gốc đó ra sao để sẽ dễ dàng có đáp án cho tựa đề bài viết này:
Loài người trên khắp thế giới ở thời xa xưa từ Đông sang Tây,từ bộ lạc ít dân cho đến những dân tộc đông dân…thường có những thiên truyền thuyết thần thoại đặt ra thần nào sinh ra thế giới,thần nào sinh ra mặt trời;ra sấm sét; sinh ra dân tộc họ…chẳng hạn Việt nam có thần thoại Con Rồng-Cháu Tiên của người Kinh, Thần Ai-đê của người Ê-đê;Đại Hàn có Thần Hua-nin; Trung quốc có Thần Bàn cổ; Nhật có Thần Ijanaghi-Ijanami; các nước có thần thoại nổi tiếng như Do thái(Kinh thánh Christan và Hebrew);Hy lạp;Bắc Âu;Ai cập; Âns độ; La mã; Ả rập.v.v..
Thần thoại Kinh thánh Christan(Kitô giáo) có gốc là Thần thoại Kinh thánh Hebrew(Do thái giáo) nhưng của Kitô giáo được xếp thứ I nhờ có số tín đồ vừa đông vừa rải khắp hoàn cầu. Chính truyền thuyết Thần thoại của cổ dân Do thái đã khai sinh ra đạo Do thái giáo; từ đạo Do thái phát sinh ra Kitô giáo. Khoảng 600 năm sau cũng từ Do thái giáo phát sinh ra Hồi giáo.
Trước khi tôi nêu chính kiến, xin mời các bạn đọc một ít tài liệu có uy tín sau:
Theo Hoành Sơn ( cha Hoàng sỹ Qúy SJ) viết trong quyển: Tín Lí Tinh Yếu dành cho người học tầm đạo-1996 :- Từ chỗ dân Ichdiên thờ đa thần, đến thời ông Apraham chỉ giữ lại một thần Quyền năng El tức Đức Chúa thì khi đến đất Canaan họ vẫn gọi Đức Chúa của họ là Thần quyền năng EL và dân địa phương ở đây cũng gọi như vậy. Nghiên cứu trên đây của Hoành Sơn cũng trùng hợp với tài liệu của Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương, thuộc Hội Khoa Học ĐôngNam Á
(C.R.P.A.O.A),cho chúng ta biết thêm về lịch sử thần Quyền năng El sau này thành Yêhôva,Yavê như sau:
Ngày đăng: 13/07/2010 00:00:00
Mặc dầu đạo thờ bò El đã phát sinh ở Babylon từ rất lâu đời, nhưng nó được chính thức du nhập vào dân tộc Do thái từ thời Abraham khoảng năm 2000 TCN. Điều đáng chú ý là Abraham và dân tộc Do thái coi El là vị thần duy nhất để tôn thờ, trong khi các dân tộc chung quanh tôn thờ thần El cùng với các vị thần khác như Baal, Anath, Ashtaroh, Ashera v.v… Chính vì yếu tố khác biệt quan trọng này mà Abraham đã được coi là ông tổ của các đạo độc thần (monotheistic religions). Do thái được coi là dân tộc được Chúa chọn vì nước này là quốc gia đầu tiên mang tên thần bò El (Isra-El)..
Để dẫn chứng một cách đầy đủ và khách quan về đạo thờ bò El và các diễn tiến biến thể (transformation) của nó, chúng tôi xin nêu lên những tài liệu chứng minh rút ra từ những bộ Tự điển Bách khoa hoặc những sách do các trường Đại học có uy tín bậc nhất thế giới xuất bản sau đây:
1. The Oxford Illustrated History of the Bible, edited by John Rogerson, Oxford Uuniversity press, xuất bản năm 2001, trang 7:
Trong tài liệu cổ sử Ai cập, được viết dưới triều đại Pharaoh Merneptah (1222-1214 TCN) có nói đến nước Do thái dưới quốc hiệu ISRAEL. Sử liệu này giải thích ISRA là cai trị (to rule), El là thần bó El. Do đó, ISRAEL có nghĩa là một quốc gia được cai trị bởi thần bò El.
2. Theological Dictionary of the Bible (Tự điển Thần học về Thánh Kinh), edited by Walter A. Edwell, Baker Book xuất bản, trang 289-299:
Người Do thái thờ thần bò El từ lâu đời, cho nên El có nghĩa là “Thiên Chúa của Do thái” (El is God of Israel) hoặc “Thiên Chúa của Abraham”. Ngôn ngữ Hebrew gọi Thiên Chúa El bằng nhiều danh từ: El, Eloah, Elim, Elohim. Vì họ tin Thiên Chúa El thường hay xuất hiện ở các núi đá (Rock mountains) tiếng Hebrew là Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa El là El-Shaddai. Các danh từ để gọi Thiên Chúa El nói trên đã được nhắc đi nhắc lại tới 2.250 lần trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do thái. Riêng trong các bài Thánh Vịnh (Psalms) của David, tên của Thiên Chúa El đã được nhắc tới 238 lần! [Ghi chú: David sau Maisen 300 năm.]
3. The Illustrated Guide to the Bible, by J. R. Porter, Oxford University Press 1995, trang 45:
Trước khi đặt tên nước là Do thái là Israel, Jacob (cháu nội của Abraham) đã đến thị trấn Luz của xứ Canaan. Tại đây, Jacob nằm mơ được thiên thần cho một cái thang. Jacob đã leo thang lên tới thiên đàng và được gặp Thiên Chúa El mặt đối mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã đổi tên thị trấn Luz thành Beth-El, có nghĩa là “Nhà của Chúa” (House of El). Câu chuyện về giấc mơ của Jacob được kể lại trong Cựu ước (Genesis 28:12).
Do thái không phải là nước duy nhất thờ thần El. Hầu hết các giống dân quanh vùng Canaan đều thờ thần El và rất nhiều thần khác. Tuy nhiên họ quan niệm đồng nhất với nhau ở chỗ tất cả đều coi thần El là vị thần cao nhất (The Highest God) và là cha của các thần (father of all gods). Abraham và dân tộc Do thái thời đó chưa có quan niệm Thiên Chúa là Duy nhất (Unity God) như quan niệm củ đạo Do thái sau này mà chỉ có quan niệm đơn giản: Thiên Chúa là vị thần mạnh nhất mà thôi.
Nơi trang 65, tác giả cho biết người Do thái đã thờ thần El dưới hình tượng của một con bò vàng (the golden calf) khởi đầu từ thời Abrahm, Jacob cho đổi đời Mai-sen. Chính anh ruột của Mai-sen là Aaron đã điều động dân chúng gom góp nữ trang, nấu chảy đúc thành một con bò vàng để tôn thờ vào khỏang năm 1250 TCN (Exodus 32-33).
Aaron và tuyệt đại đa số dân Do thái thời đó đều tin tưởng thần bò El chính là đấng Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát vòng nô lệ của Ai cập. Sách Cựu ước Exodus (32:4) thuật lại lời tuyên bố của Araon trước bàn thờ tuợng bò vàng như sau: “Hỡi dân Israel, đây là Thiên Chúa của các người, đây chính là đấng đã đưa các người ra khỏi đất Ai cập”.
Trong lịch sử đạo Do thái, Mai-sen (Moses) là cái mộc chia đạo Do thái thành hai thời kỳ:
– Thời kỳ đầu từ Abraham (2000 TCN) đến Mai-sen (1250 TCN) kéo dài 750, đạo Do thái được gọi là Đạo Cũ, hoặc đạo Do thái trước-Mai-sen (The pre-mosaic Judaism). Trong thời kỳ này, người Do thái gọi Thiên Chúa là El, Eloha hoặc Elohim và tôn thờ Ngài qua hình tượng con bò vàng.
– Từ thời Mai-sen (1250 TCN) đến nay, đạo Do thái được gọi là Đạo Mới hoặc đạo Do thái Mai-sen (Mosaic Judaism). Sự đổi mới quan trọng nhất của Mai-sen là công bố “Mười Điều Răn”, trong đó chủ yếu nhắm vào hai điểm: cấm thờ ảnh tượng bò vàng và cấm gọi tên Thiên Chúa là El, Eloa hoặc Elohim. Mai-sen bắt dân chúng phải gọi Thiên Chúa là Jehovah, có nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ” (God of fathers: Abraham, Isaac, Jacob). Mặc dầu Mai-sen rất tàn bạo và đã giết nhiều người bất tuân lệnh của y trong việc cải cách tôn giáo này, nhưng ngay trong sách Cựu ước cũng cho thấy tới 3 thế kỷ sau khi Mai-sen chết dân Do thái vẫn tiếp tục thờ Thiên Chúa El với tượng bò vàng:
– Các bài Thánh vịnh của David vẫn gọi Thiên Chúa là Elohim.
– Các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) vẫn dùng tượng con bò làm biểu tượng cho Thiên Chúa Jehovah (1 King 12:28 = Bull represents Jehovah).
– Vua Jeroboam I (thế kỷ 9 TCN) là cháu nội của David lấp nhiều đền thờ Thiên Chúa El với tượng bò vàng từ thành phố Bethel đến thành phố Dan.
4. The New Encyclopedia Britannica (15 edition, Volume 4, trang 411)
Bộ Tự điển Bách khoa Britannica đã nối tiếng khắp thế giới từ lâu đời. Tự điển này đã dịch danh từ El như sau: “El là Thiên Chúa của giống dân Semetic (tức các chủng tộc Ả rập – Do thái) còn gọi là Con Bò Thần El, được coi là cha của các vị thần khác, ngoại trừ thần Baal. Các tác giả viết Kinh thánh Cựu ước đã dùng danh từ El vừa để gọi chung các thần thánh vừa như một danh từ đồng nghĩa với Jehovah”.
Điều khẳng định trên cho ta thấy Thiên Chúa Jehovah (Yahweh) mà Jesus gọi là “Cha ta ở trên trời” chính là Con Bò El (El the Bull = sysnonym for Jehovah!). Các sách Kinh thánh Tân ước xưng tụng Jesus là “con một của Đức Chúa Trời” (the only son of God) thực chất là con một của Thần Bò El.
5. New Larousse Encyclopedia of Mythology (Tân Tự điển Bách khoa Larousse và Huyền thoại, nguyên bản tiếng Pháp, bản dịch Anh ngữ do Premethus Press xuất bản, in lần thứ tư 1971, các trang 74-80):
Theo các bản văn viết bằng chữ cuneiform của xứ Babylon thuộc niên đại 1400 TCN trên những tấm đất sét phơi khô (hiện lưu trữ tại Bảo tàng viện Louvre ở Paris) thì thần El được tôn thờ bởi các sắc dân Canaanites và Semites. El cũng được coi là vua của các dòng sông (king of rivers) là thần mặt trời (the Sun God) và cũng là Thiên Chúa Tối cao (the Supreme God).
Các giống dân Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng của một con bò đực. Đối với họ, con bò đực là biểu tượng của sức mạnh . Cũng vì vậy, mỗi khi nói đến thần El họ thường gọi Ngài là Bò Thần El (Bull-El).
6. The Encyclopedia of Middle Eastern Mythology and Religion (Bách khoa Tự điển về Huyền thoại và Tôn giáo vùng Trung Đông, của Jan Knappert, element 1993). Tác giả là một người Ả rập rất rành về các ngôn ngữ Ả rập, trong đó có ngôn ngữ Sumerian là ngôn ngữ chính của xứ Babylon vào thời cổ xưa cách đây nhiều ngàn năm.
Theo sự nghiên cứu của tác giả, tên của xứ Babylon cũng do tên của thần El mà ra. El là danh từ theo tiếng Hebrew. Người Ả rập gọi El là Il. Khi đổi ra số nhiều Il thành Ilun. Người xứ Babylon rất tự hào về đất nước của họ và họ tự coi đất nước của họ là “cái cổng của Thiên Chúa”. Theo ngôn ngữ Sumerian thì “Bab” là cổng và “Ilun” là Thiên Chúa. Ghép hai chữ này lại sẽ thành “Babilun”, về sau người ta đọc trại đi thành Babylon. Như vậy, chữ Babylon có nghĩa là “cái cổng của nhà Chúa” (Gate of God).
Tại các thành phố thuộc xứ Babylon người ta thường làm lễ tế thần El với những lời ca tụng ngài là “Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò” (The Bull-God). Theo niềm tin của người Babylon, thần El là vị chủ tọa các hội đồng thần thánh ở trên trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra vũ trụ vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con người.
7. Near Eastern Mythology (Huyền thọai vùng Cận Đông, tác giả John Bray, nxb Peter Bedrick Book NY 1985, các trang 68-69):
El là vị thần chính yếu được tôn thờ tại vùng Lưỡng Hà Châu. Theo các huyền thoại của vùng Canaan (giữa sông Jordan và Địa Trung Hải) thì thần El là một con bò đực (Bull) có sức mạnh vô song và sức sáng tạo vô bờ bến. Vì vậy, thần El là “đấng Tạo hóa của mọi vật thụ tạo” (Creator of all created things).
Như trên đã trình bày là Mai-sen ra lệnh cấm thờ thần El vào năm 1250 TCN nhưng đến thế kỷ 10 và 9 TCN, các vua và dân Do thái vẫn tiếp tục thờ thần El với hình tượng bò vàng (1 King 12:28).
Trong cuốn sách này, tác giả cung cấp cho chúng ta thêm một chi tiết là đến thế kỷ 6 TCN, tức 700 năm sau khi Mai-sen ra lệnh cấm gọi tên thần El, vị tiên tri rất nổi tiếng của Do thái là Ezekiel đã cầu nguyện Thiên Chúa bằng tên El. Lời cầu nguyện như sau:
“Lời của Ngài, ôi Thiên Chúa El, là khôn ngoan. Ngài là đấng khôn ngoan muôn đời”
(Thy word, oh El, is wise Thou art eternally wise, Ezekiel 28:2-10)
Những điều ghi chép rành rành trong các sách Genesis, Exodus, Kings và Ezekiel (trong bộ Thánh kinh Cựu ước) đã chứng tỏ rằng: Dù trước Mai-sen (từ 2000-1250 TCN) hay sau Mai-sen (từ 1250 TCN đến Ezekiel thuộc thế kỷ 6 TCN) đạo Do thái vẫn giữ nguyên bản chất của đạo thờ bò El với hình tượng bò vàng.
8. New Catholic Encyclopedia (Tân Tự điển Bách khoa Công giáo la mã). Đây là bộ tự điển bách khoa vĩ đại gồm 17 tập, ấn bản mới nhất in năm 1981. Thần bò El được trình bày rõ ràng nơi trang 136 của tập 5 như sau:
“El là danh hiệu lâu đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng Thế ký (sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước) 28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa El với Elohin và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với chữ Ilu theo ngôn ngữ cổ ở Babylon là Akkadian. Tất cả đều do căn ngữ Semistic “Yl”, có nghĩa là “hùng mạnh”. Trong các đền thờ của người Phoenicians, thần El được tôn thờ như Thiên Chúa Tối cao, Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên đàng” (xem tập 5, trang 136)
9. A Muslim Primer, tác giả Ira Jeff là một học giả Ả rập Hồi giáo, sách này do Thư viện Quốc hội Mỹ xuất bản, in lần thứ hai năm 1992.
Theo tác giả, cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham và đều có chung nguồn gốc về tên gọi Thiên Chúa (sách đã dẫn, trang 31-32).
Tác giả đã dùng Từ Nguyên học (Etymology) và Ngôn ngữ học (Linguistics) để chứng minh rằng: Dù cho tên gọi Thiên Chúa của các đạo độc thần bề ngoài khác nhau: Elohim, Jehovah, Allah nhưng tất cả đều bắt nguồn từ thần EL mà ra.
Các âm I trong tiếng Ả rập biến thành âm E trong tiếng Hebrew (Do thái).
Thí dụ: Ismail = Ismael (Hebrew, con của Abraham); Gabril = Gabriel (thiên thần truyền tin); Mikail = Michael (tổng lãnh thiên thần); Il = El (Bò thần).
Trong ngôn ngữ Arabic, người ta không gọi Thiên Chúa IL (tức El) một cách trống không mà thường thêm mạo tự ‘ah’ ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên Chúa Il trở thành Illah (Il + article ‘ah’).
Về ngôn ngữ học, các âm I trong tiếng Arabic khi chuyển sang tiếng Anh hoặc Pháp đều đổi thành A. Thí dụ tên của ông tổ các đạo độc thần trong ngôn ngữ Arabic là Ibrahim, khi chuyển sang tiếng Anh hay Pháp đã trở thành Abraham. Do những biến chuyển của ngôn ngữ, thần bò Il của babylon đã thành Thiên Chúa Elohim và Jehovah của đạo Do thái, tức Chúa Cha của đạo Ki tô. Cũng do biến chuyển của ngôn ngữ, thần bò Il thành Illah trong tiếng Arabic và Allah trong ngôn ngữ Tây phương.
Tác giả viết: “Tên gọi Thiên Chúa là Allah có căn ngữ theo từ-nguyên-học bắt nguồn từ Babylon. Chính cái căn ngữ này đã nối kết cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi. Căn cứ Il của Babylon đã trở thành El / Elohim trong tiếng Hebrew. Những người Ki tô giáo đầu tiên đã gọi Jesus là Emmanu-El có nghĩa là “Thiên Chúa El ở cùng chúng ta”. El trong tiếng Arabic luôn đi theo với mạo tự “ah” trở thành Il-ah và cuối cùng khi chuyển sang Anh ngữ đã trở thành ALLAH!”. (sách đã dẫn, trang 32)
10. Islam của tiến sĩ Ceasar Farrah, giáo sư môn Hồi giáo học tại Đại học Minnesota. Tác phẩm được tái bản lần thứ 6 trong năm 2000. Tác giả là người Ả rập Hồi giáo. Điều đặc biệt tác giả nhấn mạnh trong tác phẩm của ông là bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng Hồi giáo Ả rập đã vay mượn ý niệm về Thiên Chúa của Do thái giáo và Ki tô giáo (Islam, trang 28).
Tác giả chứng minh ngược lại là chính Do thái giáo và Ki tô giáo đã vay mượn ý niệm về Thiên Chúa do sự biến thể của “Allah” là El (Il) Thiên Chúa của đa thần giáo Ả rập. Tác giả viết: “Il-ah hoặc Allah là Thiên Chúa tối cao của bán đảo Ả rập Đa thần giáo. Đối với những người Babylon thì Ngài là Il và sau đó Ngài được biết đến bởi người Do thái với tên của Ngài là El. Những người ở miền Nam bán đảo Ả rập tôn thờ Ngài dưới danh hiệu Illah và người Bedouins lại gọi ngài là Allah. Quan niệm Thiên Chúa của Do thái giáo và Ki tô giáo đã phát sinh từ sự biến dạng của Allah (Il / El) tức Thiên Chúa của tất cả các đạo Độc thần. (Islam, trang 28)
Thưa các bạn!đọc về nguồn gốc Đức Chúa trên đây tức đã lí giải cho chúng ta biết tại sao trong một số quyển đầu của Cựu ước kể việc Đức Chúa…đi đi lại lại trong vườn địa đàng; phán lời này,phán điều nọ; thậm chí có những hành động,lời phán cứ xét theo chữ rõ là tàn ác…đối với loài người…y thể một tên vua ở thế gian vừa có quyền hành vừa độc ác!Tôi xin nêu cụ thể một vài chuyện sau:
-Chỉ vì giơ tay đỡ hòm bia của Chúa kẻo đổ,Đức Chúa liền giết chết lập tức ông Út da.( 1Sb 13,4-11)
– Chúa sai bầy sư tử đến giết nhiều người của phía vua Át-sua.(2V,24-25)
-Đức Chúa giết 70 người Bết-se-mét vì họ đã nhìn vào Hòm bia Đức Chúa.( 1Sm6,18-19)
-Đức Chúa phán với các Tư tế:-Ta sẽ ném phân lên mặt các ngươi chính phân của các ngươi trong ngày các ngươi hành lễ.(Ml 2,1-4)
-Đức Chúa phán:-Ta là một vị thần hay ghen tương.(Xh20,5).
-Đức Chúa phán:-Ta là Đấng hay trừng phạt.(Ed7,9)
– Đức Chúa phán với Môise và tư tế E-la-da:-Trong các chiến lợi phẩm lấy được;riêng về 32.000 gái chưa chồng thì phải nộp cho Đức Chúa là 32 gái chưa chồng (Ds31,25-41)
-Để đem được dân Do thái ra khỏi nước Ai cập,Đức Chúa đã phải giết chết toàn bộ các con trai đầu lòng của toàn dân Ai cập; ngay liền sau đó còn dùng lưới nước biển để giết chết toàn bộ lính tráng của Ai cập nữa!
-Loài người được sinh ra chưa được bao lâu,tội lỗi đã nặng là bao mà Đức Chúa- đã không cho Ngôi II xuống? mà lại giết chết hết cùng với muôn loài bởi Lụt đại hồng thủy; chỉ tha gia đình ông No-e( bà vợ và 3 gái,3 rễ chắc chắn đang mang tội lỗi so với lớp sơ sinh,trẻ em thời đó.
-Giaos lí hội thánh dạy;-do Qủi cám dỗ mà tổ tiên phạm tội với Chúa.Tổ tiên thì như con cái còn thơ dại mà vẫn bị Chúa phạt? chính Qủi là thủ phạm; con người là nạn nhân.Mà Qủi lại do Đức Chúa cho phép nó từ Hỏa ngục đến trái đất để thắng loài người cơ mà!Bình tĩnh mà xét thì rõ Đức Chúa hại loài người rồi! Chính vì cú phạt này mà có lời hứa, là căn nguyên để có các lời sấm sẽ có vị Messia xuống sau; thế là có Chúa Giêsu ở thế kỷ I là vậy.
(- tất cả những gì đã có trong Kinh thánh do Gíao hội in đều đáng được kể ra khi cần thiết,không gì phải kị, phải sợ hãi, phải bưng bít cả!) Còn nhiều hành xử và lời phán của Đức Chúa tương tự vậy có trong Cựu ước.
Rõ ràng cổ dân Do thái ( truyền thuyết và những kẻ viết lại) họ có suy nghĩ thiển cận,ấu trĩ,thậm chí tư tưởng hiếu thắng,sát hại các dân ngoại,cho dân mình là thượng đẳng…nên cho rằng thần Quyền năng El( sau này họ gọi là Yahvê) của họ cũng nghĩ như vậy,nói như vậy ,phán như vậy,hành động như vậy…nên chính họ làm tất thay cho Đức Chúa của họ mọi sự trong quá trình lịch sử chuyện thì có thật,chuyện thì thêm thắt… của họ
Bấy nhiêu trăn trở trên,chắc đã giải đáp cho đầu đề bài viết của hai ông Peter Krceft,Ronald K.Takelli.
Xin chào