Khi I-nhã mở mắt chào đời năm 1491 thì Giáo Hội đang trải qua giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Năm 1492, Đức Alexandre VI thuộc dòng họ Borgia lên ngôi Giáo Hoàng một cách bất chính. Ngài đã được đưa lên làm Hồng Y từ năm 25 tuổi, vì ngài là cháu của giáo hoàng Calixtô III. Trong hơn 10 năm tại vị, Alexandre VI đã để lại những vết nhơ trong lịch sử giáo hội: ăn chơi trụy lạc, tội ác tày đình. Đặc biệt, cậu con trai của ngài là César đã được phong làm hồng y lúc 16 tuổi. Kế vị Alexandre VI là Đức Juliô II (1503-1513) và Đức Lê-ô X (1513-1521). Thay vì bắt tay vào công cuộc cải tổ Giáo Hội, hai vị sau lại mải mê với nghệ thuật thời Phục Hưng, mê tu sửa Đền thờ thánh Phê-rô, từ đó có chuyện bán ân xá. Đấy là chuyện các Đức Giáo hoàng. Ngoài ra, nhiều tòa giám mục được giao cho những vị chủ chăn bất xứng, chỉ nghĩ đến bổng lộc hơn là chăn dắt đàn chiên. Các linh mục thì không nhận được một chút huấn luyện nào, cả về mặt thiêng liêng, luân lý lẫn trí thức. Nhiều dòng tu trở nên lỏng lẻo và nhuốm tinh thần thế tục.
Trước tình trạng xuống dốc của Giáo hội, cũng có những tiếng kêu, như của Jérôme Savonarole, một cha dòng Đaminh. Cha đã phê phán kịch liệt Đức Alexandre VI. Kết cục là cha bị vạ tuyệt thông năm 1497, và cuối cùng là án tử hình. Một vị khác cũng mang tâm nguyện cải cách Giáo hội, đó là Martin Luther, một linh mục dòng Augustinô. Năm 1517, Luther đưa ra 95 luận đề về ân xá. Tiếc thay, Đức Lê-ô X đã kết án Luther bằng trọng sắc Exurge Domine vào năm 1520. Ông này cũng đáp lễ bằng việc công khai đốt trọng sắc của Giáo hoàng. Năm 1521, ông bị vạ tuyệt thông. Từ đó, thêm một hố thẳm nữa trong Giáo hội.
I-nhã nhỏ hơn Luther 8 tuổi. Lúc I-nhã được ơn hoán cải cũng là lúc Luther đoạn tuyệt với Giáo hội (1521). Chắc I-nhã cũng thấy những điểm tối của Giáo hội. Chúng ta không quên I-nhã đã bị nghi ngờ và làm khó dễ từ phía giáo quyền lúc ngài làm tông đồ giáo dân ở Alcala và Salamanca. Điểm đáng ta lưu ý là thái độ vâng phục của ngài trước giáo quyền địa phương. Bị cấm ở Alcala, ngài đi Salamanca; bị cấm ở Salamanca, ngài đi Paris. I-nhã chỉ bị tố cáo về một tội, đó là tội ít học. Nhưng lòng khao khát giúp đỡ các linh hồn thúc bách ngài gặp gỡ, dạy giáo lý, cho linh thao. Như thế, I-nhã đã bắt đầu cải tổ Giáo hội từ giới giáo dân. Giáo hội thánh thiện là Giáo hội có những giáo dân thánh thiện. I-nhã vui lòng bị xiềng xích trong tù, dù người ta không kết án ngài được điều gì. Ngài đã từng nói: “Tại Salamanca này, bao nhiêu xiềng xích cũng không đủ cho tôi mang, vì lòng mến Chúa.” Tại Paris, I-nhã ít gặp khó khăn hơn, vì như ngài nói: “Đó là vì tôi không nói với ai về đời sống thiêng liêng. Học xong thì tôi sẽ tiếp tục như cũ.” Như thế, I-nhã mang hoài bão canh tân con người về mặt thiêng liêng. Họ cần biết thế nào là tội trọng, tội nhẹ để tránh.
Cũng như Luther, I-nhã muốn cải tổ Giáo hội, nhưng ngài muốn ở lại trong lòng Mẹ Giáo hội để cải tổ. Ngài vẫn tin rằng, các Đức Giáo hoàng là đại diện Chúa Ki-tô nơi trần gian. Chính vì thế, I-nhã và các bạn của ngài đã muốn vâng phục Đức Giáo hoàng cách đặc biệt, để được sai đi bất cứ nơi nào có nhu cầu trên thế giới.
Giáo hội đã bắt tay vào công cuộc đổi mới từ thời Đức Phaolô III (1534-1549). I-nhã và các bạn linh mục, cựu sinh viên đồng môn với ngài, đã góp phần tích cực vào việc này. Trước một Giáo hội say mê tiền bạc vật chất, họ chọn sống nghèo, sống nhờ của bố thí, không lấy công về việc giảng dạy hay ban các Bí tích. Trước một Giáo hội bị đe dọa bởi lạc giáo, họ thấy có bổn phận phải giáo dục đức tin cho giới trẻ và huấn luyện hàng giáo sĩ. Chính vì thế, họ soạn sách giáo lý và mở trường dạy học. Họ cũng sẵn sàng đối diện với những luận cứ của anh em Tin lành. Trong công đồng Trentô (1545-1563), các bạn của I-nhã đã đóng góp suy tư của mình trong tư cách là các thần học gia của Giáo hoàng. Sau đó, Dòng Tên cũng đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện những quyết định của Công đồng. Như thế, I-nhã và các bạn của ngài đã thực sự dấn thân vào việc cải tổ Giáo hội. Đây không phải là chuyện chống-Cải cách (contre-Réforme) nhưng đúng hơn đây là một Cải cách thực sự, một cải cách từ nội tâm từng người và ảnh hưởng trên cả cơ cấu Giáo hội.
Chúng ta tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo hội những vị thánh ở lại với Giáo hội, vâng phục Giáo hội và tìm cách xây dựng Giáo hội trong khả năng và quyền hạn của mình: đó là bài học I-nhã để lại cho ta, bài học của mọi thời, vì Giáo hội cần không ngừng đổi mới cho ngang tầm với con người thời đại.
Yêu Giáo hội, chúng ta không thể không làm cái gì đó trong chính môi trường của mình, để Giáo hội thật sự là ánh sáng, và là ánh sáng cho muôn dân.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.