Có lẽ mẹ ngài chết sớm. Trong các bản văn hiện còn giữ được, chúng ta không thấy thánh I-nhã nhắc đến mẹ lần nào. Thường hình ảnh người mẹ in sâu đậm trong tâm hồn người con ngay từ lúc còn nhỏ, nhưng có lẽ bà chết lúc ký ức non nớt của thánh I-nhã chưa ghi nhận được gì. Sau này, ngài dễ dàng gọi bà Ines Pascual là “mẹ duy nhất”: một người có kinh nghiệm về mẹ khó lòng làm như ngài được. Bản di chúc của anh cả thánh I-nhã là Juan Pérez, chết năm 1496, cũng không nhắc gì đến bà. Như vậy có lẽ bà đã qua đời trước đó rồi. Hai người phụ nữ sẽ ảnh hưởng sâu đậm trên cuộc đời ngài: bà vú và chị dâu.
Thánh I-nhã được trao cho bà vú María de Garín. Không phải vì mẹ ngài chết sớm: các anh chị thánh I-nhã cũng được trao cho các bà vú. Đó là thói quen trong các gia đình hào mục ở Guipúzcoa. Bà này là vợ một người thợ rèn tên Martín de Errazti. Thợ rèn là một nghề cực nhọc nhưng được coi trọng ở Guipúzcoa vì chế tạo vũ khí cho cả Tây Ban Nha. Vả lại, tất cả mọi người ở Guipúzcoa đều được coi là quý tộc (vì chưa bao giờ phải làm nô lệ): giữa gia đình Loyola và các gia đình khác trong tỉnh không có cách biệt về quý tộc và thứ dân. Gia đình bà Garín ở nông trại Eguibar, chỉ cách lâu đài Loyola hơn 100 mét.
Bà María de Garín là một phụ nữ rất khỏe mạnh và rất đạo hạnh. Có lẽ thánh I-nhã, một bé trai mặt tròn và hồng, đã ở với bà 7 năm đầu đời[24]. Bà Garín nuôi dạy thánh I-nhã trong những năm đầu, thời gian rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách trẻ em. Ngài ở trong gia đình bà như một người con giữa những người con khác. Qua bà, văn hóa Basco thấm vào máu ngài[25]. Bà dạy ngài nói tiếng Basco, kể chuyện cổ tích dân tộc Basco, bà hát dân ca Basco, rang hạt dẻ cho cả nhà. Bà kể chuyện cháu nội của ông Noe là Tubal[26], tổ tiên dân Basco, vua đầu tiên của Tây Ban Nha, đã xây tháp Balda thế nào (mà ông ngoại thánh I-nhã là lãnh chúa), đã tạo ra nghề rèn thế nào… Bà dạy ngài hát những bản anh hùng ca Basco, đặc biệt về chiến công Beotíbar của tổ tiên ngài. Khi đã về lâu đài, ngài vẫn có thể thường xuyên đến thăm bà vú và vui chơi với con cái bà. Chính bà sau nay khẳng định ngài sinh năm 1491 chứ không phải 1493 hay 1495 như ngài nghĩ!
Bà dạy ngài cầu nguyện với Chúa Giêsu, với Đức Mẹ, với thánh Phêrô và thánh Gioan. Cách nhà bà chừng 200 mét, trên sườn núi, có ẩn viện Olatz. Đó là một ngôi nhà nhỏ. Ở đó có một vài nữ tu. Đặc biệt một bức tượng Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu được tôn kính ở đó rất được dân chúng trong vùng mến mộ. Có thể hằng ngày bà đưa thánh I-nhã cùng với con cái bà đến cầu nguyện với Đức Mẹ Olatz. Theo truyền tụng, sau này mỗi lần đi ngang qua ẩn viện Đức Mẹ Olatz, thánh I-nhã đều không quên đọc một kinh “Lạy Nữ Vương”[27]. Lòng tôn sùng Đức Mẹ sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng thánh I-nhã, và ngài sẽ luôn nhờ Đức Mẹ chuyển cầu cho khi cần phải xin với Chúa một ơn nào đặc biệt.