IV. Chàng Rể và Giao Ước Mới
Ở Tiệc Cưới Cana, Đức Mẹ nói với Chúa Giê-su: “Họ không có rượu”. Người ta thường dịch xuôi là “họ hết rựơu rồi”, nhưng như thế thì ý nghĩa sẽ khác, Chúa Giê-su làm cho nước lã hóa rượu ngon chỉ để “cứu bồ” cho nhà đám. Nhiệm vụ của chàng rể là cung cấp rượu. Họ không có rượu, Chúa Giêsu cung cấp rượu ngon mà quản tiệc đánh giá là: lẽ ra phải tiếp rượu ngon trước, khi nào khách không còn phân biệt nổi nước với rượu thì mới đưa thứ rượu xoàng ra. Chàng rể của đám cưới Cana đã đưa thứ rượu mà khi so sánh thì quản tiệc coi như đó là nước lã, rượu của Chúa Giê-su đưa ra mới là rượu thật. Vậy lời Đức Mẹ, dịch sát là “họ không có rượu” thì cũng không ngoa, mà nói sự thật: bây giờ mới có rượu đấy! Chúng ta gặp lại “hình” với “bóng”. Rượu của chàng rể hôm ấy chỉ là “bóng”, rượu của Chúa Giê-su tiếp mới là “hình”; như vậy chàng rể hôm ấy là “bóng”, Chúa Giê-su mới là “hình”, là Chàng Rể thật. Gioan kết luận: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào người” (2, 11). Lời mở đầu sách tin Mừng thứ tư đã nói Chúa Giê-su là Lời, là Thiên Chúa “đã thành người phàm và cắm lều giữa chúng ta, chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”. Trong Cựu ước Thiên Chúa tỏ vinh quang cho dân khi làm cho nước biển rẽ ra cho họ đi qua (Xh 14); khi cho man-na từ trời xuống nuôi họ (Xh 16,6-7); khi cho nước từ tảng đá phun ra cho dân uống (Xh 17,1-7; Ds 20,1-11). Thiên Chúa thành người phàm cắm lều giữa chúng ta “tỏ vinh quang của Người” thì không chỉ cho nước mà cho rượu hảo hạng, đáng gọi là rượu.
Lần làm chứng cuối cùng, trả lời cho các môn đệ đang đánh ghen giùm, thánh Gioan Tiền Hô nói: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể [phù rể] đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng rể. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật [lớn] lên, còn thầy phải lu mờ [nhỏ] đi” (Ga 3, 29-30). Khi giới thiệu Chúa Giê-su là chàng rể, vị Tiền Hô cũng chỉ nêu lên điều các ngôn sứ đã loan báo về Giao Ước mới qua hình ảnh hôn ước giữa Thiên Chúa với dân bất tín bất trung (Hs 2; Is 62), và toàn bộ sách Diễm Ca diễn tả. Hành trình của Chúa Giê-su từ Cana lên Giê-ru-sa-lem rồi trở về Cana giống như một tuần trăng mật, Chàng Rể của Giao Ước Mới đi thăm Đất và Dân của mình, được tiếp nhận ở Giê-ru-sa-lem, Giu-đê, Samari và Ga-li-lê. Về lại nơi đã làm đám cưới thi Người làm dấu lạ thứ hai tại Cana là ban sự sống cho đứa con trai của viên sĩ quan khi nó đau sắp chết ở Caphanaum, cách xa hai ngày đường (Ga 4, 46-54). Chú ý tới hai ngày đường: sau này (chương 11) Chúa cũng ở cách Bê-ta-ni-a hai ngày đường, nhưng được tin nhắn “Cục Cưng của Thầy đau”, Chúa để cho chết thối rồi mới gọi ra khỏi mồ! Người dưng nước lã đến xin cứu đứa con cho khỏi chết thì cho liền từ xa, còn “Cục Cưng” của mình thì bắt nếm đủ mùi: chết, chôn, có mùi rồi, mới chịu cho ra khỏi mồ. “Cục Cưng” mới được dùng làm dấu lạ cuối cùng. Chúa Cha đã có thể cho chúng ta một thiên thần là chúng ta cũng sướng lắm rồi, nhưng Cha tin Chúa Giê-su là Con Một Yêu Dấu hơn và yêu chúng ta hơn chính mình, nên ban Con Một cho chúng ta cho thỏa lòng Cha. Có là “Cục Cưng” của Chúa thì Chúa mới cho chung phần mọi thứ, chứ không thì được “chầu rìa” là phúc rồi!
V. Chúa Giê-su là Vua và Mục Tử.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa là Vua và mục tử của It-ra-en. Khi dân đòi ông Sa-mu-ên lập cho họ một vị vua để họ được an toàn giống các dân chung quanh thì ông không chịu. Nhưng Thiên Chúa bảo ông : « Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi mà là chúng gạt bỏ Ta, chúng không chịu để Ta làm vua của chúng » (I Sm 8,7). Nhưng Thiên Chúa cũng tương kế tựu kế, hứa lập cho Đavit một triều đại bền vững muôn đời: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (I Sm 7,16). Tuy nhiên sau thời lưu đầy thì nhà Đavit chẳng còn ai làm vua. Vậy thì lời hứa của Thiên Chúa đâu rồi? Trong sách Isaia 63, 19 có lời cầu xin: “Từ lâu rồi chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn Danh ngài. Phải chi Ngài xé trời ngự xuống”…). Kèm theo các lời hứa Giao Ước Mới cũng có lời hứa một Đavit mới: “Đavit, tôi tớ Ta sẽ làm vua cai trị chúng; sẽ chỉ có một mục tử cho chúng hết thảy”(Ed 37,24).
Khi nuôi đám đông trên núi (chương 6), Chúa Giêsu hành xử như mục tử, và đám đông ngả mình trên cỏ, gợi lại thánh vịnh 23: Chúa là mục tử. Trong dịp lễ Lều, kỷ niệm thời đi trong sa-mạc Chúa Giê-su tuyên bố Chúa là mục tử kiểu mẫu [ds: đẹp – Đavit cũng là mục tử đẹp, x. I Sm 16,12], hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Nathanaen tuyên xưng : “Thầy là Vua It-ra-en” (Ga 1,49). Sau khi được xức dầu ở Bê-ta-ni-a, Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem thì dân chúng reo hò tung hô Chúa là vua, đúng như các ngôn sứ đã loan báo. “Lúc đầu các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng sau khi Đức Giê-su được tôn vinh các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều đó về Người và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy” (Ga 12,12-16).
Toàn thể phiên tòa của Phi-la-tô là một cuộc phong vương, trong đó Phi-la-tô đóng vai người giới thiệu chương trình (MC) hơn là quan tòa; ông chỉ đi ra nói với dân, đi vô nói với Chúa Giêsu, mời Chúa Giê-su đi ra, dẫn Chúa Giê-su đi vô, mời Chúa Giê-su ngồi lên tòa, rồi đứng tuyên bố: “Đây là vua các ngươi”. Bọn lính thì phụ họa bằng những lời và cử chỉ chế diễu, nhưng lại nói lên sự thật, xác nhận lời của Chúa đã nói với Phila-tô: Chúa Giê-su là Vua, nhưng không phải theo kiểu thế gian, Vương Quốc của Chúa không phải là một vương quốc trần gian. Rút cục chỉ Phila-tô dùng quyền, bất chấp các thượng tế, để viết văn bản bằng ba thứ tiếng, treo trên đầu thánh giá, giới thiệu Chúa Giê-su cho mọi người qua lại hôm ấy và người nghe hôm nay: “Giê-su Na-da-rét, Vua người Do Thái”. Phila-tô gián tiếp cho thấy như Chúa đã nói, thánh giá mới là ngai của Vua Giê-su, và Chúa sẽ kéo mọi người lên với Chúa.
VI. Chúa Giêsu là Đền Thờ.
Ngay lễ Vượt Qua thứ nhất tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đã tuyên bố Ngài là Đền Thớ mới. Nhưng chỉ đến “khi Chúa Giê-su đã từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (Ga 2,22). à Trong sách Xuất hành, chỉ đến khi đã vượt qua biển đỏ, “thấy Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai Cập, toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người” (Xh 14,31). Chính sự Phục Sinh của Chúa Giê-su là chìa khóa để hiểu cuộc đời, hành động, lời nói và nhất là cái chết của Chúa.
Trong dịp lễ cung hiến Đền Thờ, Chúa Giê-su tuyên bố: “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10, 38). Khi Chúa đã chết trên thánh giá, một người lính lấy giáo đâm thủng cạnh sườn Chúa, máu và nước chảy ra. Chi tiết này được người làm chứng nhấn mạnh: “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực, và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin ” [hay Đấng Ấy (= Chúa Giê-su Phục Sinh) biết người ấy nói sự thật] (Ga 19,35). Chi tiết này làm chúng ta nhớ đến lời sách E-de-kiên: “Có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía Đông. Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phí nam bàn thờ” (Ed 47,1). Đọc tiếp sẽ thấy: nước này thành dòng sông đem sự sống tới khắp nơi, cả Biển Chết cũng đầy cá, hai bên bờ sông mọc lên mọi giống cây ăn trái, trái dùng làm lương thực, lá dùng làm thuốc. Bản văn này lại đưa chúng ta về “Vườn địa đàng” trong sách Sáng Thế, chương 2. Chúa Giê-su cũng đã nói về nước và mời người ta uống (Ga 4,14; 7,37-38).
Chúa Giê-su là Đền Thờ, nơi Thiên Chúa ngự để ban sự sống.
(kính mời quý vị xem trang tiếp theo)