Bài Thương Khó Theo Thánh Matthêu

11.  Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi một.

Giết được Chúa Giêsu rồi mà phe thượng tế và kinh sư vẫn chưa chịu ngồi yên. Họ đến xin Philatô cho niêm phong và đặt lính canh mộ. Họ gọi Chúa Giêsu là “tên bịp bợm” và họ cũng biết lời Chúa báo trước là “sau ba ngày Ta sẽ trỗi dậy”, họ sợ môn đệ “đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước”.

Lối châm biếm của Mt thật là thú vị. Chúa bị bắt thì môn đệ chạy trốn hết, còn ai mà đến lấy trộm xác! Có một ông môn đệ “chui” bỗng dưng xuất hiện thì lại để đi xin xác mà chôn. Niêm phong và đặt lính canh để làm gì?  Để làm chứng là Chúa đã sống lại thật à?!

Hãy chờ xem ai là kẻ bịp bợm, đâu là chuyện bịp bợm truớc và đâu là chuyện bịp bợm cuối cùng?

12.  Tin Mừng chiến thắng

Khi ngày thứ nhât trong tuần sắp bắt đầu”, ta lại thấy hai bà trùng tên Maria hôm trước ngồi quay vào mộ bây giờ đi ra mộ.

“Bỗng đất rung chuyển dữ dội; thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo Người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết”.

Đất lại rung chuyển dữ dội như khi Chúa Giêsu trút hơi. Lần này thì không thấy đá vỡ, nhưng có sứ thần của Chúa từ trời xuống lăn tảng đá lấp cửa mồ ra, rồi ngồi lên trên. Mt cho biết ngay nhân vật nay là sứ thần của Chúa từ trời xuống, diện mạo như ánh chớp, áo trắng như tuyết, so với lúc Chúa Giêsu hiển dung: “dung nhan Người chói lọi như mặt trời vày phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” thì thua xa. Vậy thì đúng là thiên sứ chứ không phải là chính Chúa Giêsu phục sinh. Sau khi Chúa Giêsu chiến thắng Xa-tan trong hoang địa thì “có các thiên sứ đến hầu hạ Người”, hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, vào trong vinh quang, thi thiên sứ đến với diện mạo như ánh chớp để long trọng mở cửa mồ và ngồi lên trên. Hình ảnh rõ ràng diễn tả sự chiến thắng, như trong đô vật, người chiến thắng ngồi lên trên kẻ thua. Hình ảnh gợi lên thánh vịnh 110,1: “Bên hữu Cha đây Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.”

 Tình thế đảo ngược: “Thấy Người, lính canh sợ hãi run rẩy và ra như chết” (dịch sát).

Còn các bà thì được thiên sứ cho biết là “phe ta” và cho biết cái gì đã xảy ra trong ngôi mộ mà hôm trước các bà đã ngồi nhìn: “Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.

Thế là chuyện mà mấy ông thượng tế và Pharisêu lo sợ thì đã xảy ra, nhưng không phải như họ tuởng tuợng: Người không còn trong mộ. Đất sợ rung chuyển mạnh, lính sợ run lẩy bẩy, ra như chết; Thiên sứ từ trời xuống phục vụ: mở cửa, tiếp khách, trả lời, mời các bà vô nơi Người đã nằm mà kiểm chứng, truyền đạt mệnh lệnh. Mọi sự đúng như lời Chúa đã báo trước. Ngay trên đường ra núi ô-liu, khi Chúa Giêsu báo trước việc các môn đệ tan tác thì Chúa đã bảo “sau khi trỗi dậy Thầy sẽ đến Galilê trước anh em.

Các bà vội vã rời khỏi mồ, vừa sợ hãi, vừa rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho các môn đệ Đức Giêsu”. Đi báo Tin mừng thì lòng đầy vui mừng, phải vội vã chứ làm sao mà đi chậm được!

Nhưng Chúa Giêsu cũng nóng ruột không chờ được. Chúa đón gặp các bà, cho các bà niềm vui được thấy, được ôm lấy chân Chúa và được nghe chính Chúa truyền lại điều thiên sứ nói.

 13.  Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi cuối.

Trong khi các bà rất đỗi vui mừng chạy đi báo tin, được Chúa đón gặp, cho niềm vui trọn vẹn và xác nhận sứ mạng của các bà là đi báo tin cho các môn đệ, thì bọn lính canh cũng hoàn hồn, lo lắng chạy về báo cáo cho những người đã trao nhiệm vụ cho họ “biết mọi việc đã xảy ra”. Lại một phen lúng túng hơn nữa. Họ họp, bàn và có giải pháp: tiền! lại tiền! Công quỹ thiếu gì tiền! Người Việt nam thế kỷ 21 cũng nói: “Tiền nhà nước tiêu như nước”. Hôm trước họ cho Giuđa ba chục đồng bạc để nộp Chúa cho họ, hôm nay “họ cho lính một số bạc lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Nếu sự việc này đến tai tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với ông ấy và lo cho các anh được vô sự”.

Thế là vừa có tiền vừa được nhà cầm quyền che chở!

Thực tế hai ngàn năm trước lại phản ánh đúng bài vè trào phúng của người Việt Nam thế kỷ hai muơi mốt, khai triển câu châm ngôn “có tiền mua tiên cũng được”:

Ôi đồng tiền, là tiên là phật, là sức bật của con người, là tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý. Ôi đồng tiền: hết ý”.

Lính đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay”.

Chỉ cần có một giọt trí khôn cũng đủ để biết thắc mắc: “Sao bọn lính có nhiệm vụ canh gác mà lại ngủ? Ngủ thì làm sao biết là môn đệ đến lấy trộm xác? Sao lính không hoàn thành nhiệm vụ mà không bị phạt? Sau này trong sách Công Vụ (ch.12,1-19), một toán lính 16 người canh ngục giữ ông Phêrô. Ban đêm thiên thần vào ngục giải cứu ông Phêrô. Đến sáng cửa ngục vẫn đóng, lính vẫn gác nghiêm chỉnh chứ không ngủ, nhưng không thấy ông Phêrô đâu! Cả 16 người đã bị vua Agrippa truyền xử tử.

Nhưng chuyện cho tiền bọn lính để ra quán rượu tung tin, cũng làm trọn thêm lời thánh vịnh:

Bọn ngồi lê đôi mách cứ gièm pha,

 Quân rượu chè cũng đặt vè châm chọc” (Tv 69,13)

Thế là bằng một lối châm biếm thâm thúy, Mt vạch cho thấy ai là kẻ bịp bợm, đâu là sự bịp bợm cuối cùng. thượng tế và kỳ mục là giới lãnh đạo, có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đã thành thầy dậy sự dối trá.

 14.  Gia phả tiếp tục với những người rao giảng sự thật.

 Mt tiếp tục kể chuyện mười một môn đệ sau khi nhận được tin nhắn của Chúa Giêsu: “Về Galilê gặp lại”. Tin nhắn vắn gọn được tiết lộ cho chúng ta không nói rõ điểm hẹn. Nhưng các môn đệ biết điểm hẹn:  “các ông đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền”.

Trong truyện tổ phụ Ap-ra-ham, Thiên Chúa truyền cho ông: “Hãy đem con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ac, hãy đi  đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,3). Trong cuộc tế lễ này Thiên Chúa đã liệu một con cừu để thế cho I-xa-ac, rồi Thiên Chúa phán với ông Ap-ra-ham: “Ta lấy chính Danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nênTa sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…” (22,16-17).

Hôm nay Con thiên Chúa, sau khi dâng mình làm hy lễ, chỉ thị cho các môn đệ về xứ Galilê, đến ngọn núi Chúa đã truyền. Hai ngọn núi này liên hệ gì với nhau? Cả hai đều không có tên, nhưng trước là ngọn núi Thiên Chúa truyền cho Ap-ra-ham, sau là ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ.

Tới nơi các ông gặp thấy Chúa đang chờ, “các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Chúa cũng chẳng cần sửa dạy thêm, nhưng:  “Chúa đến gần, nói với các ông”. Hôm Chúa lên núi để giảng (núi ấy cũng không có tên!) thì “Chúa ngồi xuống, các môn đệ tới gần, Chúa mở miệng dạy”, hôm nay thì “các ông bái lạy, Chúa đến gần, nói với các ông”.

Hôm nay Chúa không dạy các ông nữa mà truyền cho các ông đi dạy. Hồi sai các ông đi thực tập, Chúa bảo “không được đến với dân ngoại”, nhưng hôm nay vì Chúa đã được (Chúa Cha) trao mọi quyền trên trời dưới đất, nên Chúa sai các ông đi “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ… và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.

Còn Chúa làm gì? “Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa đã nhận mọi quyền trên trời duới đất và ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bọn lính được sai đi tung tin dối trá thì có tiền và có nhà cầm quyền bảo trợ. “Lính đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy”. Các môn đệ đuợc sai đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và dạy họ tuân giữ mọi điều Chúa đã truyền thì không có tiền, không được nhà cầm quyền bảo trợ, nhưng có “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Đấng đã nhận mọi quyền trên trời dưới đất trực tiếp ở với họ mọi ngày cho đến tận thế.

 Hai ngọn núi.

Trên ngọn núi Thiên Chúa truyền cho Ap-ra-ham đem con lên tế lễ, Thiên Chúa hứa ban cho ông dòng dõi đông đúc và nhờ dòng dõi ông muôn dân sẽ được chúc phúc (22,16-18)

Trên ngọn núi Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ lời Thiên Chúa hứa cho Ap-ra-ham được thực hiện. Chúa Giêsu vừa là dòng dõi Ap-ra-ham vừa là Con Thiên Chúa, đã đầu thai bởi quyền năng Thánh Thần và là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đứng trên núi này để sai nhóm Mười Một đi làm cho muôn dân thành môn đệ, bằng cách làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền cho các ông.

Thế là gia phả từ Ap-ra-ham tới Chúa Giêsu không ngừng lại nhưng tiếp tục và mở rộng đến mọi dân tộc nhờ quyền năng Thánh Thần, mọi dân tộc thành dòng dõi Ap-ra-ham nhờ phép rửa và giáo huấn của Chúa Giêsu.

 Hai người phụ nữ cùng mang tên Maria.

Từ chương thứ hai, Mt đã gợi cho chúng ta đối chiếu với chuyện Môsê và dân It-ra-en bên Ai-cập trong sách Xuất Hành. 

Pharaô ra lệnh cho hai bà đỡ phải trông chừng khi đỡ cho các bà mẹ Hip-ri, thấy con trai thì giết, thấy con gái thì cho sống. Hai bà kính sợ Chúa nên không làm theo lệnh vua. Vua hỏi thì cac bà nói là các bà mẹ Hip-ri khỏe lắm, bà đỡ chưa tới kịp thì họ đã sanh rồi. Hai bà trùng tên Maria, đi ra mộ, tới nơi thì mộ đã mở toang rồi và thiên sứ đón ở cửa báo tin: Người không còn ở đây vì Người đã trỗi dạy rồi. Cửa mồ đã mở, sự sống mới đã ra khỏi mồ rồi.

 Khi Môsê bị bỏ trong đám sậy ở sông Nin, thì người chị tên là Maria đứng xa xa trông chừng xem chuyện gì sẽ xảy ra. Hai bà cùng tên Maria đã đứng xa xa nhìn xem khi Chúa Giêsu bị thả trong dòng nước của đau khổ và cái chết, rồi hai bà ngồi nhìn vào mộ. Khi thấy công chúa đã vớt em lên thì Maria chạy lại hỏi: bà có muốn con tìm cho bà một người mẹ để nuôi em bé này không. Công chúa đồng ý. Maria chạy về gọi mẹ ra… Hai bà Maria đi ra mộ để xem lại (Mt không nói là hai bà đem thuốc thơm để ưóp xác), được tin Chúa đã trỗi dậy, vội vã chạy về báo tin cho môn đệ.

Nghệ thuật kể chuyện của Mt ở phần này đạt tới đỉnh cao: không lý giải, nhưng gợi những hình ảnh để cho chúng ta chiêm ngắm và nghiền ngẫm mà cảm nếm ý nghĩa của những điều xảy ra, từ lúc Chúa đi vào cuộc Thương Khó cho đến lúc Chúa gặp lại các môn đệ trên núi, vì ngôn ngữ loài nguời không thể diễn tả hết được.

 Giêrusalem, Mùa Chay 2014

Linh Mục Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.

Kiểm tra tương tự

Bạn biết gì về Ngai tòa thánh Phêrô?

  Theo truyền thống, chiếc ghế nhỏ này từng được Thánh Phêrô sử dụng khi …

Chúa ơi, bây giờ con phải làm gì ?

  “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” (Lc3,10-18)   Trong đoạn Tin Mừng …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *