Hà Lan đang trong thời kỳ chuẩn bị tiến đến một cuộc đấu tranh giành độc lập chống lại người Tây Ban Nha (Cách mạng Hà Lan 1566). Thời thánh Inhã, sứ mạng Hà Lan đã được chú ý nhưng Dòng không được đón nhận.
1562, Dòng được nhìn nhận cách hợp pháp ở đây với việc mở học viện tại Tournai, sau đó nhiều trường khác tại Dinant, Saint Omer, Cambrai… Vì được bảo trợ bởi người TBN, nên khi cách mạng Hà Lan thành công –một phần ở phía Bắc – vốn là vùng đất của Tin lành Calvin (1572), các GHS bị lưu đày, mãi đến năm 1585 mới quay lại.
* Nguồn gốc thuyết Jan-sen (Jansenism)
Khởi nguồn từ suy tư thần học của một nhóm các học giả ở Louvain, mà đứng đầu là Michel de Bay (Baius) Sau này, giám mục Cornelius Otto Jansen đưa nó vào hệ thống, và như thế học thuyết mang tên ông… Baius phát triển một thứ thần học trong đó nói quá về sự thánh thiện của con người trước khi sa ngã cũng như sự hủy hoại mà con người phải chịu đựng sau sa ngã. Vì quá chú trọng đến hai thái cực này, ông đã không để ý đủ đến những thực tại to lớn về ân sủng, tự do con người và công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Do thế, cách chung, giáo thuyết này có hơi hướng thuyết tiền định của Calvin, và Giáo Hội đặt vấn đề về nó. Dòng Tên cũng vào cuộc để chống lại nó, tiêu biể là Robert Bellarmine.
Tại Anh
Công giáo tại Scoland bị chèn ép bởi phong trào Tin Lành, nữ hoàng Mary Tudor không đủ mạnh và cương quyết để bảo vệ giáo hội.Các thương thuyết, thuyết phục của GSH (1562) không kết quả.
Công Giáo Anh bị bách hại đặc biệt sau ly giáo của Henry VIII, việc đào tạo linh mục trong nước là không thể, vì thế chỉ có thể đào tạo linh mục bên ngoài và gửi vào (tại William Allen’s seminary ở Douai). Hai tân linh mục Thomas Woodhouse và John Nelson tốt nghiệp từ đây, rồi gia nhập Dòng Tên và vào Anh, chịu tử đạo năm 1573, 1578. Sau đó, sứ mạng Anh được Mecurian thiết lập ngay sau đó với Cha Admund Campion, Robert Pensons và tu huynh Ralph Emerson.
Tại Thụy Điển
Các GSH dần thâm nhập với nhiều dấu chỉ khả quan: lời hứa trở lại Công Giáo của vua John, thành lập một học viện năm 1579. Tuy nhiên, ý định trở về Công Giáo của vua John đi kèm các điều kiện mà ĐGH không thể chuẩn chước (giáo sĩ có vợ, hiệp lễ 2 hình, sử dụng ngôn ngữ địa phương trong thánh lễ). Sứ vụ Thụy Điển vì thế không đạt kết quả cụ thể nào, năm 1580, các GSH rời Thụy Điển.
7. Vùng cận đông và Viễn Đông
Cận Đông
Hội thánh Lebanons (theo nghi lễ Manorites) vốn có mối liên hệ thân thiết với Hội Thánh Công Giáo từ cuối thế kỷ XII (giáo hoàng Innocent III), tuy nhiên, sau đó mất liên lạc vì chiến tranh (Hồi giáo – Công Giáo). Đến năm 1578, thượng phụ giáo chủ Maronite muốn bắt liên lạc lại, ĐGH Gregory đã cử 2 GSH Tommaso Raggio và GiambattistaEliano – 2 chuyên gia về văn hóa Do Thái và Ả Rập đến. Sau cuộc khảo sát, họ phát hiện nhiều sai lầm trong giáo thuyết và phong tục của cộng đồng Công Giáo ở đây. Vì thế, năm 1580 một Hội nghị được triệu tập ở đan viện Quannobin (Syria).Mọi sai lầm được sửa chữa, liên lạc được nối liền, vì thế ĐGH Gregory đã cho thiết lập một học vienj Maronite ở Roma và đặt dưới sự giám sát của Dòng.
Viễn Đông
Thách thức đối với Tỉnh Dòng Bồ Đào Nha: nhu cầu truyền giáo quá lớn dọc dải đất từ Ấn Độ đến Molucas, Nhật, Trung Quốc, dọc bờ biển Brasil và Phi Châu, trong đó đặc biệt là Viễn Đông.
Tháng 6/1574, Alessandro Valignano[4] đến Goa với vai trò kinh lược sứ để sắp xếp công việc truyền giáo cho toàn vùng viễn Đông.Có thể nói Fracisco Xavier (10 năm ở Phương Đông)là người tiên phong trong sứ mạng, Valignano (33 năm ở Phương Đông) là người thể hiện sự thành công của sứ mạng.
Valignano đã nghiên cứu kĩ lưỡng tình hình giáo hội (và Dòng) ở Ấn Độ để tìm người thích hợp gửi đi các sứ mạng (vì có nhiều GSH đến đây mà không được chuẩn bị trước). Đối với người bản địa Ấn, ngài khá khắt khe trong việc thu nhận vào Dòng vì phẩm chất của họ.
Tại Ấn Độ, năm 1579 các GHS cũng tham gia vào một cuộc tranh luận giáo thuyết[5] với người Hồi Giáo, tuy nhiên, không kết quả rõ ràng vì căn bản Hồi không chấp nhận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể.
7/1579, Valignano đến Nhật (đất nước vẫn đang trong thời kỳ rối ren do chiến tranh cát cứ), tại đây, tổng cộng đã có 59 GSH (trong đó 28 là linh mục). Các cộng đồng tín hữu thành lập rải rác đây đó (1500 người ở Yamaguchi, 1400 người ở Hirado …) nhưng số phận của các cộng đồng này thăng trầm theo diễn trình chính trị – chiến tranh; đồng thời, các GHS cũng khó liên lạc với anh em bên ngoài. Tuy nhiên, khi các dymio trở lại đạo, tình hình giáo hội khởi sắc hơn.Năm 1571, ước tính có 30.000 tín hữu, đến 1579 (khi Valignano đến Nhật), số tín hữu khoảng 150.000. Tuy nhiên, điều này đáng quan ngại hơn là đáng mừng vì nó tỏ lộ về 1 giáo hội thiếu chiều sâu đức tin: các dymio theo đạo để tranh thủ thương mại với người Bồ, một khi theo đạo, họ ép thần dân cũng theo đạo (bằng những sắc chỉ lưu đày những người “dân ngoại”. Valignano đã nhìn thấy điều này.
Etiopia : Sau thất bại của sứ mạng năm 1555, hai năm sau, 1557, Giám mục phụ tá (cho Joao Nunes Barreto) là Andres de Oviedo tiếp tục sứ mạng đối thoại với Giáo Hội Ethiopia vốn theo đơn nhất tính dưới sự lãnh đạo của hoàng đế Claudius. Tuy nhiên, cuộc đối thoại không thành công, và vị giám mục can trường đã bị lưu đày vào sa mạc, khổ cực 20 năm và qua đời vào năm 1577. Hai người bạn đồng hành của ngài (cũng là GSH) cũng bị ám sát. Những GSH còn lại tiếp tục bám trụ nhưng không có kết quả, người cuối cùng qua đời năm 1597.
Ai Cập : Đồng thời với sứ mạng Ethiopia, Các GSH cũng dấn thân vào Ai Cập – vùng đất vốn cũng chịu ảnh hưởng của lạc thuyết đơn nhất tính. Sứ mạng bắt đầu với Cristobal Rodriguez và Giambattista Eliano từ năm 1561. Mọi việc có vẻ như thuận lợi khi thượng phụ giáo chủ (giáo hội Copt) Gabriel chấp thuận cuộc đàm phán để tiến đến hiệp nhất với Tòa Thánh. Tuy nhiên, sau đó các GSH khám phá ra đó chỉ là một trò bịp khi thượng phụ giáo chủ này không hề có một tí ý định hợp nhất với Rome, chuyện vì thế không đi đến đâu, sứ mạng kết thúc.
Nam Phi : 1560, nhận được lời thỉnh cầu của một linh mục ở Makaranga, 3 GSH từ Goa đã đến miền đất này, một người bị cản trở vì bệnh, hai người tiếp tục là Silveira và Andres Fernandez, trong 2 tháng đã rửa tội được 450 người bản xứ. Sứ mạng sau đó phát triển với Silveira ở vùng kề cận Monomotapa, tuy nhiên, công cuộc gặp trở ngại lớn vì sự ganh ghet của người Hồi Giáo, Silveira bị giết một năm sau đó : 1561. Fernandez cũng phải rời khỏi vùng Nam Phi vì áp lực và sự hận thù, sứ mạng kết thúc.
Angola : 1563, 4 GSH (2 linh mục và 2 tu huynh) vào Angola vùng bờ biển phía Đông của lục địa. Sứ mạng này có vẻ khả quan, đến 6/1575, thêm 4 GSH tăng viện đã đến. Đến 1593, đã có 8.000 Ki tô hữu trên vùng Angola. Tuy đây là một sứ mạng đầy hứa hẹn, nhưng không hiểu vì lý do gì mà số thừa sai tăng cường cho vùng đất này không nhiều, chỉ thêm 2 vào năm 1580.
Hai nhà thừa sai vĩ đại của vùng đất này : Manuel da Nobrega và José de Anchieta. Tuy nhiên, sứ mạng hằn phải đối diện nhiều khó khăn, điều đó khiến Anchieta cảnh báo những học viên ở Coimbra: nhiệt thành thì chưa đủ, nhưng phải đầy nhân đức mới hi vọng trụ được ở miền truyền giáo gian nan này.
Sứ mạng ở Brasil gồm hai mảng chính: phục vụ ở các thị trấn ven bờ đông và cho các bộ tộc trong rừng sâu. Việc đào tạo cũng được hết sức chú ý: năm 1572, học viện ở Bahia (thị trấn phía Đông) đã có khả năng cấp bằng cử nhân , và sáu sau là MA. Một biến cố quan trọng, năm 1566, người Bồ chiếm Rio de Janeiro từ tay Pháp và biến nơi đây thành thủ phủ của Brasil, Nobrega đã dời đầu não của sứ mạng Brasil từ Sao Paolo về đây, đồng thời cũng thiết lập Nhà Tập và học viện tại đây.
Đối với các bộ tộc trong rừng sâu, công việc chính yếu vẫn là tìm chỗ định cư cho họ, từ đó giúp họ dần xa với lối sống hoang dã, sự mê tín, tục ăn thịt người… và đưa họ vào đời sống đức tin. Đi đôi với việc lập ấp để nâng cao đời sống vật chất, việc thích nghi những giá trị văn hóa bản địa cũng được chú tâm: đưa trang phục cổ truyền vốn rất sặc sỡ vào tôn giáo, thích nghi các nhạc cụ, các loại kịch nghệ…, với Anchieta, nền móng cho một nền văn chương quốc gia đã ra đời.
Công cuộc truyền giáo ở đây đạt được nhiều thành tựu, nhưng cũng tổn thất không nhỏ: năm 1570, 40 GSH bị giết chết trên hành trình vượt Đại Tây Dương đến với miền sứ mạng (bởi những hải tặc theo Tin Lành Calvin ở vùng đảo Canary); 12 người khác cũng bỏ mình ở Brasil, và Nobrega cũng qua đời trong năm này. Kết thúc giai đoạn này, Anchieta là giám tỉnh của Tỉnh Dòng Brasil.
Các vùng khác Brasil:
Chính yếu trong phạm vi hoạt động của các GSH người Tây Ban Nha, những người đến truyền giáo ở đây khoảng từ 1566, dấn thân vào Florida, Mexico và Peru.
Tại Floria, năm 1566, 3 GSH đến nhưng hoạt động không kết quả, ngay sau đó, 6 người tăng cường nhưng cũng không kết quả, họ dạt về Cuba, sứ mạng ở Flrida cứ thế trì trệ
Tại Mexico:
9/1572, các thừa sai đến vùng đất này, sau hai năm đã có nhà thờ và trường học cho 300 học sinh, đồng thời cũng đã thâm nhập vào đời sống văn hóa, tinh thần của người bản xứ.
Tại Peru:
Năm 1567, 8 thừa sai được gửi tới từ 4 tỉnh dòng Tây Ban Nha, và sau đó được tăng cường, nổi bật nhất là Alonso Barzaiia, một người hết sức thông thạo về ngôn ngữ, thổ cảnh ở đây. Năm 1568, học viện San Pablo của Dòng được thiết lập ở Lima, đây là “trường mẹ” của các trường học ở Peru, là kênh chuyển tri thức từ Châu Âu sang vùng đất này.
Vào năm 1580, Dòng đã trở thành một “sức mạnh tinh thần” đi vào trong xã hội Châu Âu, từ đó lan ra khắp thế giới. Hai mảng sứ mạng chính: giáo dục và truyền giáo.
Hoạt động của Dòng bên cạnh việc thiết lập hàng loạt trường học tại Châu Âu (với khoảng 144 trường) cũng tạo nên một loạt các cứ điểm truyền giáo chạy dọc từ Nhật, qua Đông Ấn, Châu Phi và Mỹ La Tinh – có thể nói: khăp cùng thế giới.
Tuy nhiên, thực trạng này cũng cho chúng ta thấy một viễn cảnh: hoạt động của Dòng sẽ bị phụ thuộc khá nhiều vào tình hình chính trị, cấu trúc xã hội mà Dòng tồn tại trong đó. Có thể nói, tinh thần tông đồ đã “quẳng” Dòng vào thế giới thực với nhiều bon chen, và hẳn nhiên Dòng phải bị “căng thẳng” bởi những thực tại như: cơ chế quan liêu, nặng đầu óc quốc gia của Philip II (TBN); chế độ bảo trợ truyền giáo TBN và BĐN; ảnh hưởng của nước Pháp Tin Lành… sự thăng tiến hay trì trệ trong sứ mạng của Dòng không thể không tính đến những thực tại ấy.
[1] Bàn về vấn đề cầu nguyện, người ta cho rằng Tổng Hội II (Borja) đã đi chệch khởi hứng và nguyên tắc cầu nguyện của Inhã: vốn chú trọng đến yếu tố cá nhân và trực giác, xoay quanh mệnh đề “chiêm niệm trong hoạt động” – “tìm Chúa trong mọi sự” vì theo quan điểm của Thánh Inhã, trong hoàn cảnh phải làm việc tông đồ, các GSH thực hiện cách tận tâm và vâng phục thì đó đã là cầu nguyện rồi. Việc cầu nguyện theo đó phải tuỳ nhu cầu cá nhân, phải có sự khác biệt giữa những người đã xong huấn luyện và những người đang thụ huấn HC 342, 582. Đang thụ huấn: thánh lễ, 2 lần xét mình, giờ kính Đức Mẹ, 1 giờ cầu nguyện. Xong huấn luyện: tuỳ tuệ tâm.
Đến TH 31 (1966), Dòng quay về cách thức mà Thánh Inhã đã định: luật tuệ tâm đối với những người đã xong huấn luyện.
[2] Giám mục Pamier kêu gọi Dòng thiết lập một trường học ở Billom, Hồng y Francois de Tournon ủy thác cho Dòng sứ mạng đưa đại học Tournon trở về với Công Giáo từ tay Tin lành Calvin, Giám Mục Guillaume du Prat cho Dòng mở trường ở Auvergne… (Tr. 65).
[3] Dịch hạch – Cái Chết Đen khởi phát (bùng nổ) vào thế kỷ XIV: từ vùng Trung Á, theo chân các thương nhân lan sang Sicillia, sau đó lan tràn khắp Châu Âu, sang cả Châu Á, đỉnh điểm là từ năm 1348 – 1350. Đại dịch này đã làm giảm khoảng hơn 30% dân số Châu Âu, giảm dân số toàn cầu từ 450 triệu xuống chỉ còn khoảng 350 triệu. Nhiều thế kỷ sau, nó bùng phát theo chu kỳ, và mãi đến thế kỷ XIX mới biến mất – sự ra đời của vacxin.
[4] Ngài là một con người đã chủ trương hội nhập văn hóa, đặc biệt sau khi đến Nhật (1579), và các năm sau đó.
“Alessandro Valignano was the great Jesuit figure of this period, who visited Japan three separate times, 1579-1582, 1590- 1592, and 1598-1603. This masterful Italian superior judged that, with the exception of the Chinese, the Japanese were the people most prepared to create the finest Christianity in the East. Deeply appreciative of the richness of Japanese culture, and convinced that when there was no compromise of Catholic dogma adaptation should be made to that culture, he directed the Jesuit priests to assume the status of Zen priests, the most respected of the Buddhist clergy; started a novitiate for native vocations to the Society and opened two seminaries. He removed from office the superior, Francisco Cabral, because of his policy of heavy-handedness and repression toward Japanese members of the Society. In 1602 two Japanese Jesuits were ordained; two years later the first native secular priest. Valignano had the highest esteem for the Japanese Jesuit brothers, because it was they, unimpeded by the language problem, who bore the heat of the day in catechizing and disputation.” Bangert, 154.
[5]Three fathers were chosen for this exciting mission, Rodolfo Aquaviva, thirty-year-old, gentle and prayerful nephew of Claudio Aquaviva, Francisco Ilenriquez, Persian convert from Islam, and Antonio de Monserrate, a Catalonian. They left Goa on November 17, 1579, and three and a half months later arrived at enchanting Fatehpur.