Trong khi ở một số nước tiến bộ người ta tìm cách thay đổi định nghĩa về hôn nhân và luật hóa hôn nhân đồng tính. Tuy nhiên cho đến nay Giáo Hội Công Giáo vẫn không chấp nhận hôn nhân đồng tính. Phải chăng Giáo Hội quá bảo thủ và khắt khe với hạnh phúc của con cái mình khi từ chối việc bí tích hóa hôn nhân đồng tính. Dĩ nhiên Giáo Hội Công Giáo không đến nỗi vô cảm trước những đau khổ của con cái mình và cũng không thể thay đổi giáo huấn nền tảng về hôn nhân, vậy thì đâu là nền tảng của hôn nhân Công Giáo và cơ sở để xây dựng hạnh phúc gia đình. Hôn nhân Công Giáo dựa trên việc kết hợp tự nhiên của đôi bạn, kết hợp mang tính bí tích và việc kết hợp mang chiều kích cánh chung.
- Hôn nhân khế ước và giao ước
Trước hến, hôn nhân là một sự kết hợp tự nhiên của đời sống con người. Ngay từ buổi sơ khai của lịch sử loài người đã có sự kết hợp nam nữ. Sự kết hợp này giúp con người tìm được hạnh phúc và duy trì sự sống của cá nhân và của cộng đồng. Cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, con người dần định chế hóa và luật pháp hóa hôn nhân. Việc luật pháp hóa nhằm thừa nhận tính hợp pháp của sự kết hợp và giúp bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Tuy nhiên, hôn nhân không chỉ là một định chế tự nhiên nhưng được bí tích hóa và nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương sáng tạo con người và muốn cho con người có được hạnh phúc. Ngài sáng tạo con người có nam có nữ và chúc phúc cho họ. Và ý muốn của Thiên Chúa là muốn cho con người có được hạnh phúc và tiếp tục cộng tác vào công trình sáng tạo của Người. Nói cách khác, ý nghĩa của hôn nhân Công Giáo bắt nguồn từ ý muốn của Thiên Chúa và được Giáo Hội bí tích hóa trong quá trình phát triển của mình.
Dĩ nhiên Giáo Hội không sáng chế ra những bí tích để tạo thêm gánh nặng cho con cái mình, nhưng cụ thể hóa những mặc khải trong Kinh Thánh về hôn nhân thành bí tích. Nói cách khác, hôn nhân Công Giáo có nền tảng nơi mặc khải trong Kinh Thánh và Thánh Truyền. Vì là mặc khải cho nên Giáo Hội không tùy tiện thêm bớt hay thay đổi những giáo huấn này nhưng Giáo Hội chỉ thi hành và phê chuẩn sự kết hợp của đôi bạn theo ý muốn của Thiên Chúa.
- Nền tảng của hôn nhân Công Giáo
Nói đến nền tảng trong đời sống hôn nhân Công Giáo là phải nói đến việc sáng tạo, nói đến giao ước giữa Thiên Chúa và con người, và nói đến tình yêu của Đức Kitô và Giáo Hội.
Sách Sáng Thế kể về việc Thiên Chúa sáng tạo con người, vạn vật và nguồn gốc của hôn nhân bằng việc miêu tả lại biến cố. Thiên Chúa rút một chiếc xương sườn của Adam và nặn lên một người đàn bà. Điều này nói lên tính cách thân mật và sự tương thuộc của tương quan vợ chồng. Cả hai không còn là hai nhưng là một xương một thịt. “Ađam liền nói: “Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra”.[1] Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể. Như thế điều này chứng thực rằng hôn nhân Công Giáo nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, Ngài can thiệp và tác thành cho đôi bạn để họ trở nên một gia đình.
Vả lại, tình yêu Thiên Chúa dành cho dân người là một tình yêu chung thủy và độc hữu. Biến cố xuất hành đánh dấu sự kiện then chốt trong lịch sử dân tộc và đời sống tôn giáo của dân Israel. Thiên Chúa yêu thương họ, nên Ngài ra tay giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và ký kết với họ một giao ước. Ngược lại, dân Do Thái đã phải lòng Thiên Chúa và đã hứa trung thành với Giao Ước của Ngài. Giao ước này xác lập một mối tương quan bền vững và tương quan thuộc về. “Ta là Thiên Chúa của ngươi, còn ngươi là dân của ta.”
Hơn nữa, tình yêu và hôn nhân Công Giáo không chỉ diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân của Ngài và tình yêu của Ngài dành cho dân Thiên Chúa nhưng là tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội. Ngài đã yêu thương Giáo Hội đến cùng và đã hiến thân mình vì Giáo Hội.“Người đã yêu thương họ đến cùng.”[2] Nền tảng của tình yêu hiến thân là giá trị cốt lõi để xây dựng tính bền vững của tình yêu hôn nhân gia đình. Nền tảng này bắt nguồn từ chính tình yêu hy sinh của Đức Kitô dành cho Giáo Hội và của Giáo Hội dành cho Đức Kitô. Hệ quả tất yếu của điều này, đó là tính độc hữu và bất khả phân ly trong hôn nhân Công Giáo. Đó là sự trung thành, trách nhiệm, và tự do của đôi vợ chồng. Chính vì lý do này mà Giáo hội không “có quyền tháo cởi” tính bất khả phân ly của hôn nhân Công Giáo. “Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.”[3]
Khi thiết lập tính bền vững của hôn nhân dựa trên nền tảng của cuộc sáng tạo, tình yêu hiến thân của Thiên Chúa và dân Ngài, cũng như tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội, Giáo Hội không đặt gánh nặng lên con cái mình. Làm sao người cha, người mẹ cảm thấy hạnh phúc khi con cái mình bị đau khổ và hôn nhân của nó có nguy cơ tan vỡ. Điều quan trọng mà các bạn cần nghĩ tới là, Giáo Hội nhìn nhận tính siêu nhiên, thánh thiêng của hôn nhân, và quan tâm đến những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là phụ nữ và trẻ em. Giáo Hội cũng tin vào tính bền vững và trách nhiệm của đôi bạn trước những yếu đuối, những cám dỗ và những cảm xúc “nắng mưa” của đời sống con người, và bảo vệ tính nguyên ủy của hôn nhân. Điều mà các bạn cần lưu ý thêm là hôn nhân Công Giáo không chỉ dừng lại ở giây phút hiện tại nhưng hướng về viễn ảnh cánh chung.
- Hôn nhân, hiện thực và viễn ảnh cánh chung
Ngày nay không ít những bạn trẻ nghĩ rằng hôn nhân Công Giáo giáo thật phiền phức và rối rắm. Thậm chí không ít người nghĩ rằng nó cản trở tự do của con người. Hẳn rằng ý nghĩ này cũng có thể đôi lần xuất hiện trong tâm trí của các bạn. Phải chăng những ràng buộc của hôn nhân Công Giáo tạo thêm những phiền phức hay nó là mối dây tạo nên sự bền chặt cho đời sống hôn nhân gia đình. Vấn đề quan trọng ở đây chính là ý nghĩa thực sự và sâu xa của tình yêu mà các bạn dành cho nhau khi quyết định chọn lựa đời sống gia đình. Vấn đề là bạn thực sự yêu thương người bạn đời của mình hay là yêu cảm xúc, tự do của chính mình? Bạn đang muốn tìm một con người phù hợp hay muốn tìm một con người hoàn hảo trong đời sống hôn nhân? Trái tim của bạn có đủ lớn đến ôm ấp những giới hạn và cưu mang những bất toàn của nhau hay không?
Điều này nói thì dễ nhưng trong thực tế lại rất khó. Bởi lẽ mỗi người muốn sở hữu một không gian tự do riêng và thiếu lòng tin tưởng ở nhau. Hôn nhân giờ đây như một cuộc mặc cả và bạn tìm cách để tìm đường tháo lui. Có lẽ cái ngã tự do cá nhân quá lớn và việc thiếu sự tin tưởng cứ dần lớn mãi trong tâm hồn mỗi người, để rồi có một ngày cả hai không thể hòa hợp và đi chung đường. Ngay cả khi hiện diện bên nhau nhưng họ không thuộc về nhau: “đồng sàng dị mộng” làm tan vỡ bao lời hứa sắt son.
Nếu đời sống hôn nhân cũng tàn úa theo tháng ngày dài và kết thúc theo “cánh hồng phai” thì quả là đời sống hôn nhân thật đáng buồn. Sự kết hợp trong giây phút hiên tại là hình ảnh của hạnh phúc mai sau. Cuộc hôn nhân tại thế là viễn ảnh của cuộc hôn nhân thiêng liêng, cuộc hôn nhân vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Trong tình trạng hôn nhân này, Đức Kitô là tất cả và trong tất cả.[4] Hạnh phúc này mở ra niềm hy vọng cho con người trong đời sống hiên tại, và giúp hiện tại hóa sự sống vĩnh cửu trong những biến thiên của đời sống con người. Để rồi cuối cùng, bạn được kết hợp hoàn toàn với Đức Kitô và hạnh phúc trong Người.
Như thế, hôn nhân Công Giáo không nên được xem như một khế ước xã hội nhưng là một giao ước tình yêu, có tính bí tích, có nền tảng trong mặc khai, và trong ý định của Thiên Chúa. “Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.”[5] Đây chính là lý do hiện hữu của hôn nhân Công Giáo. Điều này vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả, vừa là lời chúc phúc của Thiên Chúa dành cho con người. Vì Thiên Chúa kết hợp nên loài người không được phân ly. Kết quả của việc không được phân ly bắt nguồn từ ý định của Thiên Chúa. Và Ngài hứa sẽ chúc phúc cho tình yêu của đôi bạn cho đến trọn đời. Xin cho chúng con biết ý thức đời sống gia đình là một quà tặng nhưng không của Tình Yêu Thiên Chúa để rồi chúng con cũng biết chăm sóc và bảo vệ món quà mà Ngài đã ban cho chúng con. Amen
Gioan Phạm Duy Anh, SJ
[1] St 2: 22 – 23
[2] Ga 13: 1 hay DT 2: 9 – 11
[3] Mc 10: 9
[4] Cl 3: 11
[5] Mc 10: 9